Chương 3 HOÁN ĐỔI
Khi nghe tin, họ từ trong nhà hàng, quán cà phê, khách sạn đổ ra, nhìn lên trời. Họ giơ những bàn tay đen đúa lên che cặp mắt trắng dã ngước lên. Miệng họ há hốc. Giữa buổi trưa nóng ấy, suốt hàng ngàn cây số, trên khắp các thị trấn nhỏ là những người da đen đang đứng, bóng đổ dưới chân, mắt nhìn lên.
Trong căn bếp nhà mình, Hattie Johnson đậy nồi xúp đang sôi lại, lau những ngón tay gầy guộc lên một tấm khăn, rồi thận trọng đi ra hè sau.
“Đi nào, mẹ! Mẹ, đi nào, không lỡ mất bây giờ!”
“Đi mẹ!”
Ba thằng bé da đen đang nhảy nhót quanh mảnh sân bụi bặm, miệng hò hét. Thỉnh thoảng chúng lại cuống cuồng nhìn về phía ngôi nhà.
“Mẹ ra đây,” Hattie vừa nói vừa mở cửa lưới. “Các con nghe tin đồn ở đâu?”
“Ở quán ông Jones, mẹ ạ. Người ta bảo sắp có phi thuyền đến, phi thuyền đầu tiên trong vòng hai mươi năm qua, chở theo người da trắng!”
“Người da trắng là cái gì? Con chưa bao giờ nhìn thấy.”
“Rồi con sẽ biết,” Hattie nói. “Phải, đúng đấy, rồi con sẽ biết thôi.”
“Kể cho bọn con nghe đi mẹ. Kể như mẹ vẫn hay kể ấy.”
Hattie nhíu mày. “Ờ, đã lâu lắm rồi. Hồi ấy mẹ còn bé. Đó là hồi năm 1965.”
“Kể cho bọn con nghe về người da trắng đi mẹ!”
Chị ra đứng ngoài sân, nhìn lên bầu trời sao Hỏa trong xanh, với những đám mây sao Hỏa trắng mỏng, đằng xa là những ngọn đồi sao Hỏa nóng cháy dưới ánh nắng. Cuối cùng chị nói, “Ờ, trước tiên, họ có bàn tay trắng.”
“Bàn tay trắng!” Ba thằng bé cười đùa đập vào người nhau.
“Và cánh tay họ cũng trắng.”
“Cánh tay trắng!” ba thằng bé ré lên.
“Và mặt cũng trắng.”
“Mặt trắng! Thật ạ?”
“Trắng như thế này hả mẹ?” Thằng út ném bụi lên mặt, tự làm mình hắt hơi. “Như thế ạ?”
“Trắng hơn thế kia,” chị nghiêm trang đáp, rồi lại ngước lên trời. Trong mắt chị có vẻ lo ngại, như thể chị đang tìm một cơn dông trên trời cao, và khi không thấy thì chị đâm lo lắng. “Có lẽ các con nên vào nhà thì hơn.”
“Kìa mẹ!” Chúng sững sờ nhìn chị. “Bọn con phải đi xem chứ, phải xem chứ. Sẽ chẳng sao đâu, phải không ạ?”
“Mẹ không biết. Mẹ chỉ có linh cảm thôi.”
“Bọn con chỉ muốn xem tàu vũ trụ, rồi sau đó có thể bọn con sẽ chạy xuống bến đỗ để xem người da trắng. Ông ta thế nào hả mẹ?”
“Mẹ không biết. Mẹ không biết nữa,” chị vừa nói vừa trầm ngâm lắc đầu.
“Kể thêm cho bọn con nghe đi!”
“Ờ, người da trắng sống trên Trái đất, đó là nơi chúng ta đã ra đi cách đây hai mươi năm. Chúng ta cứ thế bỏ đi, lên sao Hỏa, xây làng xóm và định cư lại đây. Giờ chúng ta là người sao Hỏa chứ không còn là người Trái đất nữa. Và trong suốt thời gian đó chưa có người da trắng nào đến đây cả. Chuyện là thế đấy.”
“Tại sao họ lại không đến đây hả mẹ?”
“Ờ, là vì thế này. Ngay sau khi chúng ta đến đây, ở Trái đất có chiến tranh hạt nhân. Họ ném bom nhau ghê lắm. Họ quên mất chúng ta. Nhiều năm sau, khi họ đánh nhau xong, thì họ không còn phi thuyền nữa. Phải đến giờ họ mới chế tạo được thêm phi thuyền. Vậy là họ đã đến, hai mươi năm sau, để viếng thăm chúng ta.” Chị đờ đẫn nhìn các con rồi đi ra. “Các con đợi ở đây. Mẹ xuống phố, đến nhà Elizabeth Brown. Các con hứa sẽ ở nhà chứ?”
“Bọn con không muốn nhưng bọn con hứa ạ.”
“Thế thì được.” Và chị chạy xuống phố.
Chị vừa đến nhà Brown thì thấy cả nhà đang chen chúc chui vào chiếc xe ô tô của gia đình. “Chào chị, Hattie! Đi cùng chúng tôi đi!”
“Cả nhà đi đâu đấy?” chị nói, vừa chạy vừa thở hổn hển.
“Đi xem người da trắng!”
“Đúng thế,” ông Brown nghiêm trang nói. Ông vẫy tay chỉ đàn con. “Lũ trẻ chưa bao giờ được thấy người da trắng, còn tôi thì đã gần như quên mất.”
“Các vị định làm gì người da trắng đó?” Hattie hỏi.
“Làm gì ấy à?” mọi người đáp lại. “Kìa, chỉ là xem ông ta thôi mà.”
“Chắc chứ?”
“Chúng tôi còn làm gì khác được?”
“Tôi không biết,” Hattie nói. “Tôi chỉ sợ sẽ có rắc rối.”
“Rắc rối kiểu gì?”
“Các vị biết đấy,” Hattie ngượng ngùng nói chung chung. “Các vị không định hành hình ông ta chứ?”
“Hành hình ông ta ấy à?” Mọi người cười phá lên. Ông Brown vỗ đầu gối. “Chúa phù hộ cô em, không đâu! Chúng tôi sẽ bắt tay ông ta. Đúng không, cả nhà?”
“Đúng rồi!”
Một chiếc xe từ hướng đối diện trờ tới và Hattie kêu lên. “Willie!”
“Mình xuống tận đây làm gì? Các con đâu?” chồng chị giận dữ quát lên. Anh trừng mắt nhìn những người kia. “Các vị định kéo đi như một lũ ngốc để xem người đó đến à?”
“Có vẻ đúng thế đấy,” ông Brown gật gù và mỉm cười thừa nhận.
“Thế thì đem súng đi,” Willie nói. “Tôi đang về nhà để lấy súng đây!”
“Willie!”
“Mình lên xe ngay, Hattie.” Anh giữ cửa xe mở và nhìn chị cho đến khi chị làm theo. Không nói thêm một lời nào với những người khác, anh rồ máy cho xe lao xuống con đường bụi bặm.
“Willie, đừng đi nhanh thế!”
“Đừng đi nhanh thế hả? Để rồi xem.” Anh nhìn con đường lao vun vút dưới gầm xe. “Sao bọn chúng có quyền lên đây vào lúc này? Sao chúng không để chúng ta yên? Sao chúng không cho nổ cái thế giới cũ kỹ ấy đi và để chúng ta được yên?”
“Willie, nói thế không đúng tâm Cơ Đốc đâu.”
“Tôi đang không có tâm Cơ Đốc,” anh dữ dằn nói, tay siết chặt bánh lái. “Tôi chỉ thấy giận dữ thôi. Sau bao nhiêu năm chúng đã làm những việc ấy với bố mẹ chúng ta - bố mẹ tôi, bố mẹ mình - mình có nhớ không? Mình có nhớ chúng đã treo cổ bố tôi ở đồi Knockwood và bắn mẹ tôi như thế nào không? Mình nhớ không? Hay trí nhớ mình cũng ngắn như đám người kia?”
“Tôi nhớ chứ,” chị đáp.
“Mình có nhớ bác sĩ Phillips và ông Burton với những ngôi nhà bề thế của họ, nhớ cái chòi giặt của mẹ tôi, nhớ bố tôi đã già khọm vẫn phải làm việc, và để đền ơn, bố đã bị bác sĩ Phillips và ông Burton treo cổ không? Thế đấy,” Willie nói, “giờ thì tình thế hoán đổi rồi. Để xem ai sẽ bị đặt luật cấm đoán, ai sẽ bị hành hình, ai sẽ phải ngồi ở cuối xe buýt, ai sẽ bị cách ly trong các buổi chiếu phim. Cứ đợi mà xem.”
“Ôi, Willie, mình toàn nói những chuyện rắc rối thôi.”
“Ai cũng nói cả. Ai cũng nghĩ về ngày hôm nay, nghĩ nó không bao giờ xảy ra. Nghĩ rằng, Cái ngày người da trắng đến sao Hỏa này thì sẽ ra sao? Nhưng ngày này đã đến, và chúng ta không thể chạy trốn được nữa.”
“Mình không định để người da trắng sống ở đây sao?”
“Có chứ.” Anh mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười rộng ngoác, độc địa, và mắt anh điên dại. “Họ có thể đến đây sống và làm việc; chắc chắn rồi. Để đáng được ở đây, họ chỉ cần phải sống trong khu ổ chuột, đánh giày cho chúng ta, dọn rác cho chúng ta, và ngồi ở hàng cuối trên ban công trong rạp phim. Chúng ta chỉ yêu cầu có thế thôi. Và mỗi tuần một lần ta sẽ treo cổ một hai người bọn họ cho vui. Đơn giản thôi!”
“Mình nói không ra hồn người nữa rồi, tôi không thích thế.”
“Mình sẽ phải quen thôi,” anh nói. Anh phanh xe lại trước cửa nhà và nhảy xuống. “Tìm súng cho tôi và ít dây thừng nữa. Chúng ta phải làm cho ra trò.”
“Ôi, Willie,” chị rền rĩ, cứ ngồi trên xe trong lúc anh chạy lên bậc thềm và đóng sập cửa trước lại.
Chị đi theo anh. Chị không muốn đi theo, nhưng anh lục lọi quanh gác xép, chửi rủa như người điên cho tới khi tìm thấy bốn khẩu súng. Chị thấy ánh kim loại tàn bạo của nòng súng lấp lánh trong gác xép tối đen, và chị không thấy anh đâu cả, anh cũng đen thẳm như thế; chị chỉ nghe thấy tiếng chửi rủa của anh, rồi cuối cùng đôi chân dài của anh cũng trèo xuống gác xép giữa một cơn mưa bụi, và anh xếp các chồng đạn đồng lên nhau, rồi thổi bụi trong ổ đạn đi và nạp đạn vào, mặt nghiêm nghị, nặng nề, nhăn nhúm vì những nỗi cay đắng đang gặm nhấm anh. “Để chúng ta yên,” anh luôn mồm lầm bầm, hai bàn tay chốc chốc lại vung lên, không kiểm soát được. “Sao chúng không để cho chúng ta yên?”
“Willie, Willie.”
“Cả mình nữa, cả mình nữa.” Anh nhìn chị cũng bằng cái nhìn như vậy, và sức ép từ lòng hận thù của anh chạm vào tâm trí chị.
Ngoài cửa sổ, ba thằng bé ba hoa với nhau. “Trắng như sữa, mẹ bảo thế. Trắng như sữa.”
“Trắng như bông hoa cũ này ấy, thấy không?”
“Trắng như đá, như phấn viết ấy.”
Willie lao ra ngoài. “Các con vào nhà ngay. Bố sẽ khóa cửa. Các con sẽ không được đi xem người da trắng, không được nói về chúng, không được làm gì cả. Vào nhà đi.”
“Nhưng bố ơi…”
Anh đẩy chúng qua cửa rồi đi lấy một xô sơn, một tấm khuôn tô, rồi vào ga ra lấy một cuộn thừng dày, dài, thắt thành một cái thòng lọng, vừa làm vừa thận trọng nhìn lên trời.
Và rồi hai vợ chồng lên xe, để lại từng cuộn bụi trên đường sau lưng. “Chậm lại, Willie.”
“Không thể làm chậm thời gian được,” anh nói. “Bây giờ là lúc cần vội, và tôi đang vội.”
Khắp dọc đường, mọi người đang nhìn lên trời hoặc trèo lên xe hoặc ngồi trong xe, và từ nhiều cửa sổ xe, nòng súng chĩa ra như những ống ngắm quan sát mọi xấu xa của một thế giới đang đến ngày kết thúc.
Chị nhìn những khẩu súng. “Mình đã đi rêu rao khắp nơi,” chị buộc tội chồng.
“Đúng thế đấy,” anh ậm ừ, gật đầu. Anh nhìn đường, vẻ dữ dằn. “Tôi đã ghé qua từng nhà bảo họ phải làm gì, bảo họ đi lấy súng, lấy sơn, đem dây thừng ra và chuẩn bị sẵn sàng. Và chúng ta đây, ủy ban chào mừng, đến trao chìa khóa của thành phố cho chúng. Vâng, thưa ngài!”
Chị ép hai bàn tay đen gầy guộc vào nhau để đẩy đi nỗi kinh hoàng đang lớn dần trong chị, và chị cảm thấy chiếc xe tròng trành lách qua những xe khác. Chị nghe thấy nhiều giọng hò hét, Này, Willie, nhìn này! cùng những bàn tay giơ dây thừng và súng lên khi họ lao qua! Cùng những cái miệng cười toe toét với họ khi các xe khác phóng qua.
“Đây rồi,” Willie nói rồi phanh xe lại giữa đám bụi và sự tĩnh lặng. Anh giơ bàn chân to tướng lên đá tung cửa xe, rồi, tay trĩu xuống vì vũ khí, anh bước ra và lôi đống vũ khí ngang qua đồng cỏ trước sân bay.
“Mình đã nghĩ kỹ chưa, Willie?”
“Tôi chẳng làm gì khác ngoài nghĩ ngợi suốt hai mươi năm qua. Khi rời Trái đất tôi mới mười sáu, và tôi rất sung sướng được ra đi,” anh nói. “Ở đó chẳng có gì cho tôi, cho mình hay bất kỳ ai như chúng ta. Tôi chưa bao giờ hối hận vì đã ra đi. Ở đây chúng ta đã được yên ổn, lần đầu tiên chúng ta có thể hít thở thoải mái. Giờ thì đi thôi.”
Anh chen qua đám đông người da đen đang bước ra đón anh.
“Willie này, Willie ơi, chúng ta làm gì đây?” họ nói.
“Súng đây,” anh nói. “Súng đây. Súng nữa này.” Anh dúi mạnh những khẩu súng cho mọi người. “Súng lục này. Súng săn này.”
Mọi người đứng sát nhau đến nỗi trông họ như một cơ thể da đen duy nhất với hàng ngàn cánh tay vươn ra đón lấy những món vũ khí. “Willie, Willie ơi.”
Vợ anh vươn người đứng lặng bên cạnh anh, cặp môi xẻ rãnh của chị mím chặt, và đôi mắt to của chị ướt rượt, đau khổ. “Đem thùng sơn lại đây,” anh bảo chị. Và chị xách một thùng sơn vàng ngang qua cánh đồng đến chỗ một chiếc xe điện vừa đỗ lại, trước xe treo một tấm biển mới đề chữ ĐẾN BÃI ĐỖ CỦA NGƯỜI DA TRẮNG, trên xe đầy người đang ồn ào trò chuyện, họ xuống xe rồi loạng choạng chạy ngang qua cánh đồng, mắt ngước nhìn lên. Phụ nữ xách hộp đồ ăn picnic, đàn ông đội mũ rơm, mặc áo ngắn tay. Chiếc xe điện đứng trống trơn, máy vẫn chạy ro ro. Willie lên xe, đặt mấy hộp sơn xuống, mở một hộp ra, khuấy sơn, thử bút, lấy ra một khuôn tô, và trèo lên một ghế ngồi.
“Này anh kia!” Ông lơ xe xuất hiện sau lưng anh, hộp đựng tiền xu kêu leng keng. “Anh đang làm cái trò gì thế? Xuống ngay!”
“Ông thấy tôi đang làm gì rồi mà. Cứ bình tĩnh.”
Và Willie bắt đầu tô sơn vàng lên khuôn. Anh tô một chữ D, một chữ A và một chữ N với vẻ tự hào vô cùng dành cho công trình của mình. Và khi anh làm xong, ông lơ xe nheo mắt đọc dòng chữ vàng tươi rói mới được kẻ: DÀNH CHO NGƯỜI DA TRẮNG: GHẾ SAU. Ông ta đọc lại lần nữa. DÀNH CHO NGƯỜI DA TRẮNG. Ông ta chớp mắt. GHẾ SAU. Ông lơ xe nhìn Willie và toét miệng cười.
“Ông thấy được chưa?” Willie bước xuống hỏi.
Ông lơ xe đáp, “Được lắm, thưa anh.”
Hattie đứng nhìn tấm biển từ bên ngoài xe, tay áp lên ngực.
Willie quay lại với đám đông lúc này đã đông thêm nhiều nhờ những chiếc ô tô rền rĩ tiến vào và những chiếc xe điện ken két vòng qua khúc quanh từ các thị trấn gần đó.
Willie trèo lên một hộp đồ. “Hãy cử một phái đoàn đi kẻ biển trên tất cả các xe điện trong một giờ tới. Có ai xung phong không?”
Nhiều bàn tay vung lên.
“Đi đi!”
Họ đi.
“Hãy cử một phái đoàn đi sửa lại ghế trong rạp phim, chăng dây cách ly hai hàng cuối cho người da trắng.”
Thêm nhiều bàn tay nữa.
“Đi mau!”
Họ chạy đi.
Willie nhìn quanh, người đẫm mồ hôi, thở hổn hển vì mệt, tự hào vì sinh lực của mình, tay đặt lên vai vợ, chị đang đứng dưới chân anh, mắt dán xuống đất. “Để xem nào,” anh tuyên bố. “À, phải rồi. Chiều nay chúng ta sẽ đưa ra một đạo luật mới: cấm hôn nhân khác chủng tộc!”
“Đúng đấy,” nhiều người nói.
“Tất cả những người làm nghề đánh giày có thể bỏ việc trong hôm nay.”
“Bỏ ngay bây giờ rồi!” Nhiều người trên khắp thành phố hào hứng ném đi những mảnh giẻ họ đang cầm.
“Còn phải đưa ra đạo luật về lương tối thiểu nữa, đúng không?”
“Đúng rồi!”
“Trả đám da trắng ấy ít nhất mười xu một giờ.”
“Đúng đấy!”
Thị trưởng thành phố chạy tới. “Này, Willie Johnson. Xuống khỏi cái hộp ấy ngay!”
“Thị trưởng, ngài không thể bắt tôi làm thế đâu.”
“Anh đang khích động đám đông đấy, Willie Johnson.”
“Tôi cũng định thế mà.”
“Chính điều mà anh vẫn ghét khi anh còn nhỏ. Anh chẳng hơn gì đám da trắng mà anh đang hò hét chửi rủa!”
“Tình thế đã đảo ngược rồi, thị trưởng ạ,” Willie nói, không buồn nhìn thị trưởng mà chỉ nhìn những khuôn mặt dưới chân anh, một số mỉm cười, một số đầy hồ nghi, số khác lại bối rối, và một số có vẻ miễn cưỡng rồi lùi ra trong sợ hãi.
“Anh sẽ phải hối hận đấy,” thị trưởng nói.
“Chúng tôi sẽ bầu lên một thị trưởng mới,” Willie nói. Và anh liếc về phía thành phố, nơi các biển hiệu vừa mới kẻ đang treo dọc khắp các phố, đề chữ: GIỚI HẠN KHÁCH HÀNG: Có quyền từ chối phục vụ khách hàng bất kỳ lúc nào. Anh toét miệng cười và vỗ tay. Chúa ơi! Và các xe điện đang được dừng lại để sơn trắng các hàng ghế sau, ám chỉ những người sau này sẽ ngồi ở đó. Và các rạp phim đang bị những đám đàn ông đột nhập, vừa chăng dây vừa cười khẩy, trong khi vợ họ đứng ngoài vỉa hè ngơ ngác còn lũ con bị đánh đuổi vào trong nhà, phải trốn đi trong thời khắc kinh khủng này.
“Chúng ta sẵn sàng cả chưa?” Willie Johnson gọi, trong tay cầm sợi thừng thắt thành nút thòng lọng gọn ghẽ.
“Sẵn sàng!” nửa đám đông hô to. Nửa còn lại chỉ lầm rầm và cử động như đang trong một cơn ác mộng mà họ không muốn dựa vào.
“Nó đến rồi!” một chú bé reo lên.
Như đầu của những con rối treo trên cùng một sợi dây, đầu của cả đám đông ngước lên.
Phía bên kia bầu trời, cao tít và tuyệt đẹp, phi thuyền đang cháy rực trên một quầng lửa màu đỏ cam. Nó bay vòng tròn rồi chúi xuống, khiến tất cả mọi người há hốc miệng. Nó hạ cánh, khiến cánh đồng bốc cháy vài chỗ; nhưng rồi lửa cũng tắt, phi thuyền nằm yên trong chốc lát, và rồi, dưới cặp mắt theo dõi của đám đông lặng tờ, một cánh cửa lớn bên sườn con tàu phà ra một hơi ôxy, rồi cánh cửa trượt lên và một ông già bước ra.
“Người da trắng, người da trắng, người da trắng…” Những lời ấy truyền đi khắp đám đông đang chờ đợi, bọn trẻ ghé tai nhau thì thào, huých nhau, lời rì rầm truyền đi như sóng cho tới tận cuối đám đông, nơi những chiếc xe điện đang đứng dưới nắng gió, mùi sơn tỏa ra từ cửa sổ để ngỏ. Tiếng rì rầm nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Không ai nhúc nhích.
Người da trắng đó cao lớn, đứng thẳng tắp, nhưng trên mặt ông là một vẻ mệt mỏi sâu xa. Hôm nay ông không cạo râu, và mắt ông già nua như mắt của người già nhất vẫn còn sống trên đời. Mắt ông không còn màu nữa; chúng gần như trắng dã và lòa đi vì những điều ông đã thấy suốt bao nhiêu năm trời. Ông gầy như bụi cây mùa đông. Tay ông run run, ông phải dựa vào ngưỡng cửa tàu trong khi nhìn ra khắp đám đông.
Ông chìa tay ra và hơi mỉm cười, nhưng rồi lại rút tay về.
Không ai nhúc nhích.
Ông nhìn xuống mặt họ, và có lẽ ông thấy mà không thấy những khẩu súng và những cái thòng lọng, và có lẽ ông cũng ngửi thấy mùi sơn. Không ai hỏi ông cả. Ông lên tiếng. Ông nói rất khẽ và rất chậm, vì nghĩ rằng sẽ không có ai ngắt lời, mà cũng đúng như vậy, và giọng ông rất ư mệt mỏi, bệch bạc và già cỗi.
“Tôi là ai không quan trọng,” ông nói. “Với các bạn tôi chỉ là một cái tên. Tôi cũng không biết tên các bạn. Chuyện đó để sau.” Ông ngừng lời, nhắm mắt lại trong chốc lát, rồi nói tiếp:
“Hai mươi năm trước các bạn rời Trái đất. Đã lâu lắm rồi. Đã xảy ra nhiều chuyện đến mức cứ như tận những hai mươi thế kỷ đã trôi qua. Sau khi các bạn đi rồi, Đại Chiến đã nổ ra.” Ông chậm rãi gật đầu. “Phải, đại chiến. Thế Chiến thứ Ba. Nó diễn ra suốt một thời gian dài. Cho tới tận năm ngoái. Chúng tôi đã ném bom mọi thành phố trên thế giới. Chúng tôi đã tàn phá New York, London, Moscow, Paris, Thượng Hải, Bombay và Alexandria. Chúng tôi đã phá hủy tất cả. Và khi đã phá hết các thành phố lớn, chúng tôi phá đến các thành phố nhỏ và cũng ném bom nguyên tử để thiêu rụi chúng.”
Ông bắt đầu kể tên các thành phố, các địa danh, đường phố. Trong lúc ông kể, một tiếng rì rầm bắt đầu nổi lên trong đám khán giả.
“Chúng tôi đã phá hủy Natchez…”
Một tiếng rì rầm.
“Và Columbus, Georgia…”
Một tiếng rì rầm nữa.
“Chúng tôi thiêu rụi New Orleans…”
Một tiếng thở dài.
“Và Atlanta…”
Một tiếng nữa.
“Và ở Greenwater, Alabama cũng chẳng còn gì cả.”
Willie Johnson ngẩng phắt đầu lên, miệng trễ xuống. Hattie thấy cử chỉ này và thấy cặp mắt tối sầm của anh sáng lên khi anh nhận ra cái tên quen thuộc.
“Chẳng còn lại gì,” ông già đứng ở cửa chậm rãi nói. “Các cánh đồng bông, cháy rụi.”
Thế à, mọi người nói.
“Các xưởng cán bông bị ném bom…”
“Thế à?”
“Và các nhà máy đều nhiễm phóng xạ; tất cả đều nhiễm phóng xạ. Tất cả đường sá, trang trại, thức ăn, đều nhiễm phóng xạ. Tất cả.” Ông kể thêm tên nhiều thành phố và làng mạc khác.
“Tampa.”
“Đó là quê tôi,” ai đó thì thầm.
“Fulton.”
“Là quê tôi,” một người khác nói.
“Memphis.”
“Memphis. Họ đốt cả Memphis rồi sao?” Một câu hỏi sững sờ.
“Memphis đã bị đánh bom.”
“Phố số Bốn ở Memphis?”
“Tất cả.”
Giờ đám đông bắt đầu bị khuấy động. Sau hai mươi năm, mọi kỷ niệm bắt đầu tràn về. Các thành phố, các địa danh, những cái cây, những tòa nhà gạch, những tấm biển hiệu, nhà thờ và các cửa hàng quen thuộc, tất cả dần hiện lên trong trí óc đám đông đang tụ tập. Mỗi cái tên đều gợi lên một ký ức, và không ai có mặt mà không nghĩ về ngày đã qua. Họ đều đã đủ già để nhớ lại, trừ bọn trẻ.
“Laredo.”
“Tôi còn nhớ Laredo.”
“Thành phố New York.”
“Tôi từng có một cửa hàng ở khu Harlem.”
“Harlem đã bị đánh bom.”
Những lời đáng sợ. Những nơi chốn quen thuộc được nhớ lại. Cố tưởng tượng những nơi đó giờ đây chỉ còn là đống hoang tàn.
Willie Johnson lầm bầm nói, “Greenwater, Alabama. Đó là nơi chôn rau cắt rốn của tôi. Tôi còn nhớ.”
Bị phá hủy. Tất cả đã bị phá hủy. Ông già đã nói thế.
Ông già nói tiếp, “Vậy là chúng tôi đã tàn phá tất cả và hủy diệt tất cả, như những kẻ ngốc, trước kia và bây giờ cũng vậy. Chúng tôi đã giết hàng triệu người. Bây giờ trên toàn thế giới chắc chỉ còn không hơn năm trăm ngàn người, đủ mọi chủng tộc. Và từ đống đổ nát chúng tôi đã gom góp vừa đủ để lắp phi thuyền này, và chúng tôi đến sao Hỏa để nhờ các bạn giúp đỡ.”
Ông ngập ngừng, nhìn xuống những khuôn mặt để xem ở đó có gì, nhưng ông không dám chắc.
Hattie Johnson cảm thấy tay chồng mình gồng lên, thấy những ngón tay anh siết chặt sợi thừng.
“Chúng tôi đã thật ngu ngốc,” ông già khẽ nói. “Chúng tôi đã phá hoại cả Trái đất và văn minh nhân loại. Không còn thành phố nào đáng được cứu cả, chúng sẽ còn nhiễm phóng xạ hàng thế kỷ nữa. Trái đất đã tận thế rồi. Thời của nó đã qua rồi. Ở đây các bạn có những phi thuyền mà đã hai mươi năm nay các bạn không dùng để quay về Trái đất. Giờ tôi đến đây nhờ các bạn dùng đến chúng. Để trở lại Trái đất, đón những người còn sống sót đưa trở lại sao Hỏa. Để giúp chúng tôi tiếp tục sinh tồn. Chúng tôi đã thật ngu ngốc. Trước Chúa, chúng tôi xin thừa nhận sự ngu ngốc và xấu xa của mình. Tất cả người Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Anh, Mỹ. Chúng tôi xin các bạn hãy đón nhận chúng tôi. Đất trên sao Hỏa của các bạn đã bỏ hoang hàng bao nhiêu thế kỷ rồi; có đủ chỗ cho tất cả mọi người; và đất rất tốt - từ trên cao tôi đã thấy cánh đồng của các bạn. Chúng tôi sẽ đến canh tác cho các bạn. Phải, chúng tôi sẵn sàng làm cả điều đó. Chúng tôi đáng nhận được tất cả những gì các bạn muốn làm với chúng tôi, nhưng xin các bạn đừng xua đuổi chúng tôi. Chúng tôi không thể ép các bạn phải hành động bây giờ. Nếu các bạn muốn, tôi sẽ quay lại phi thuyền, trở về Trái đất và mọi chuyện sẽ kết thúc. Chúng tôi sẽ không làm phiền các bạn nữa. Nhưng chúng tôi sẵn sàng đến đây làm việc cho các bạn, làm tất cả những việc các bạn đã làm cho chúng tôi - dọn nhà cho các bạn, nấu ăn, đánh giày, và tự sám hối trước Chúa vì những điều chúng tôi đã làm suốt bao thế kỷ nay với chính mình, với những người khác, với các bạn.”
Ông đã nói xong.
Một im lặng tuyệt đối bao trùm lên tất cả. Một im lặng ta có thể cầm nắm được và một im lặng đè nặng lên đám đông như áp suất từ một cơn bão đằng xa. Những cánh tay dài của họ rũ xuống như những con lắc đen sẫm dưới ánh mặt trời, và mắt họ dán vào ông già, nhưng ông không nhúc nhích mà chỉ đứng đó chờ đợi.
Willie Johnson siết chặt sợi thừng trong tay. Những người xung quanh anh đợi xem anh sẽ làm gì. Vợ anh, Hattie, đứng đợi, túm chặt cánh tay anh.
Chị muốn đẩy hết lòng hận thù ra khỏi họ, chị muốn đục đẽo nó cho tới khi tìm thấy một khe nứt nhỏ, rồi cạy ra một viên sỏi hay một hòn đá hay một viên gạch, rồi đến một phần bức tường, và một khi đã bắt đầu thì cả tòa nhà sẽ sụp xuống và biến mất. Giờ nó đang lung lay rồi. Nhưng đâu là viên đá móng, và làm sao để cạy được nó ra? Làm sao để lay chuyển được họ và khiến lòng hận thù trong họ sụp đổ?
Chị nhìn Willie giữa sự tĩnh lặng khủng khiếp đó và điều duy nhất chị biết trong tình cảnh này là anh, cuộc đời anh và những điều đã xảy ra với anh, và đột nhiên anh trở thành viên đá móng; đột nhiên chị hiểu rằng nếu có thể thuyết phục được anh, thì lòng hận thù trong những người khác cũng sẽ bị đẩy bật.
“Ông ơi…” Chị bước tới trước. Chị không biết phải nói gì. Đám đông nhìn chằm chằm vào lưng chị; chị cảm thấy cái nhìn của họ. “Ông ơi…”
Ông già quay về phía chị với một nụ cười mệt mỏi.
“Ông ơi,” chị nói, “ông có biết đồi Knockwood ở Greenwater, Alabama không?”
Ông già ngoái lại nói chuyện với ai đó trong phi thuyền. Một lát sau, một tấm bản đồ ảnh được chuyền ra và ông già cầm nó chờ đợi.
“Ông biết cây sồi lớn trên đỉnh đồi chứ?” Cây sồi lớn. Nơi cha của Willie đã bị bắn, bị treo cổ, và được tìm thấy đung đưa trong ngọn gió sớm mai.
“Có.”
“Nó còn đó không?” Hattie hỏi.
“Không,” ông già đáp. “Đã bị đánh bom. Cả ngọn đồi đã biến mất, cả cây sồi nữa. Chị thấy chứ?” Ông chạm vào bức ảnh.
“Cho tôi xem nào,” Willie nói, chen lên trước để nhìn tấm bản đồ.
Hattie chớp mắt nhìn ông già da trắng, tim đập thình thịch.
“Cho tôi biết về Greenwater đi,” chị vội nói.
“Chị muốn biết gì?”
“Về bác sĩ Phillips. Ông ta còn sống không?”
Một thoáng trôi qua khi thông tin được tìm trong chiếc máy gõ lách cách bên trong phi thuyền.
“Chết trong chiến tranh rồi.”
“Còn con trai ông ta?”
“Chết rồi.”
“Còn nhà của họ?”
“Bị cháy. Như mọi ngôi nhà khác.”
“Thế còn cái cây to khác trên đồi Knockwood?”
“Cây cối đều không còn nữa - cháy hết rồi.”
“Không còn cái cây đó nữa, ông chắc chứ?” Willie nói.
“Chắc.”
Willie thả lỏng người một chút.
“Thế còn nhà ông Burton và ông Burton thì sao?”
“Không còn nhà cửa gì nữa, không còn ai cả.”
“Ông biết chòi giặt của bà Johnson chứ, chỗ của mẹ tôi ấy?”
Nơi bà bị bắn.
“Chỗ đó cũng không còn nữa. Tất cả đã biến mất. Có ảnh đây, các bạn có thể tự xem.”
Những bức ảnh được chuyền tay cho mọi người ngắm kỹ và suy ngẫm. Trong phi thuyền đầy những bức ảnh và câu trả lời cho mọi câu hỏi. Bất kỳ thành phố nào, bất kỳ tòa nhà nào, bất kỳ nơi nào.
Willie đứng đó, tay cầm sợi thừng.
Anh đang nhớ lại Trái đất, Trái đất xanh tươi và thị trấn xanh tươi nơi anh sinh ra và lớn lên, và giờ anh đang nghĩ đến thị trấn ấy, đã nát vụn, điêu tàn, bị bom san phẳng, mọi mốc địa giới cũng bị san phẳng theo, cùng với nó là mọi điều xấu xa, hoặc chắc chắn hoặc tưởng tượng, những con người tàn bạo, những chuồng ngựa, lò rèn, hiệu đồ cổ, hàng nước ngọt, xưởng nấu rượu, cầu bắc qua sông, cây hành hình, ngọn đồi đầy vết đạn, những con đường, đàn bò, những cây mimosa, và ngôi nhà của anh cũng như những tòa dinh thự lớn nhiều cột bên bờ sông dài, như những nhà xác trắng nơi những phụ nữ mong manh như bướm đêm chấp chới trong ánh nắng thu, cách biệt, xa xôi. Những ngôi nhà nơi những gã đàn ông lạnh lùng ngồi trên ghế đu, tay cầm ly rượu, súng dựa vào tay vịn cầu thang, hít thở bầu không khí mùa thu và suy tính về cái chết. Không còn nữa, tất cả đều không còn; tất cả đã biến mất và không bao giờ trở lại. Giờ thì chắc chắn tất cả nền văn minh ấy đã bị xé vụn nhu hoa giấy ném dưới chân họ. Không còn gì nữa, không còn gì để căm ghét nữa - không còn một vỏ đạn đồng hay một mẩu thừng, không còn một cái cây, hay thậm chí một ngọn đồi để căm ghét nữa. Không còn gì ngoài những con người xa lạ trong phi thuyền, những người có thể đánh giày cho anh và ngồi ở cuối xe điện hoặc hàng ghế cuối trong rạp chiếu phim ban đêm.
“Các vị sẽ không phải làm thế đâu,” Willie Johnson nói.
Vợ anh liếc nhìn bàn tay to lớn của anh.
Ngón tay anh đang buông ra.
Sợi thừng tuột ra, rơi xuống cuộn thành khúc trên nền đất.
Họ chạy qua các con phố trong thị trấn, gỡ đi những tấm biển mới được làm, xóa đi những dòng chữ vàng mới kẻ trên xe điện, cắt những sợi dây chăng quanh ban công rạp hát, rồi tháo đạn ra khỏi súng và cất thừng đi.
“Một khởi đầu mới cho tất cả,” Hattie nói, khi hai vợ chồng lái xe về nhà.
“Phải,” cuối cùng Willie nói. “Chúa đã cho chúng ta vượt qua, chỗ này vài người, chỗ kia vài người. Và điều xảy ra tiếp theo sẽ phụ thuộc vào tất cả chúng ta. Thời mông muội đã qua rồi. Chúng ta không được phép mông muội nữa. Tôi đã biết thế khi ông ấy nói. Khi ấy tôi đã nhận ra ông già da trắng ấy cũng cô đơn như chúng ta trước kia. Giờ ông ấy không còn nhà nữa, cũng như chúng ta đã không có nhà suốt bao nhiêu năm. Giờ tất cả đã hòa rồi. Chúng ta có thể bắt đầu lại từ đầu, một cách bình đẳng.”
Anh dừng xe lại và ngồi yên, không nhúc nhích, trong khi Hattie đi mở cửa cho các con. Chúng chạy ra đón bố. “Bố có thấy người da trắng không? Bố có thấy không?” chúng hỏi dồn.
“Có chứ,” Willie nói, ngồi sau tay lái, chậm rãi đưa tay lên vuốt mặt. “Hình như hôm nay mới là lần đầu tiên bố thực sự nhìn thấy người da trắng - bố đã thấy ông ta rất rõ ràng.”