Chương 10 NHỮNG KẺ ĐÀY ẢI
Mắt những mụ phù thủy đầy lửa và hơi thở phả ra từ miệng họ giống như những lưỡi lửa trong khi họ cúi xuống khuấy cái vạc bằng một chiếc que nhờn mỡ và những ngón tay xương xẩu.
“Khi nào ba chúng ta sẽ gặp lại nhau
Trong sấm, trong sét hay trong mưa gió?
Họ quay cuồng múa may trên bờ một biển cạn khô, ba cái lưỡi của họ làm bầu không khí hôi nồng, cặp mắt mèo của họ lóe lên hiểm độc, thiêu cháy không gian:
“Xoay tròn, xoay tròn quanh vạc;
Lòng ruột ném vào thuốc độc.
Vòng đôi, vòng đôi, cực quá;
Bùng bùng lửa cháy, vạc sôi!”
Họ ngừng lại nhìn quanh. “Quả cầu pha lê đâu? Kim đâu?”
“Đây!”
“Tốt!”
“Sáp vàng đã đặc lại chưa?”
“Rồi!”
“Đổ vào khuôn sắt đi!”
“Hình nộm sáp đã xong chưa?” Họ nặn thứ sáp nóng chảy như mật mía nhỏ tong tong xuống bàn tay xanh lét.
“Đâm kim qua tim nó!”
“Quả cầu pha lê, quả cầu pha lê; lấy trong túi bài bói ra. Phủi bụi đi; nhìn xem nào!”
Họ cúi xuống bên quả cầu, mặt trắng bệch.
“Nhìn xem, nhìn xem, nhìn xem…”
Một phi thuyền di chuyển qua không gian từ Trái đất đến sao Hỏa. Trên phi thuyền, các phi hành gia đang chết dần.
Cơ trưởng mệt mỏi ngẩng đầu lên. “Chúng ta phải dùng moocphin thôi.”
“Nhưng, thưa cơ trưởng…”
“Chính cậu cũng thấy tình trạng của người này rồi đấy.” Cơ trưởng nhấc tấm chăn len lên, người nằm dưới tấm ga giường ướt đẫm liền cựa quậy rồi cất tiếng rên. Không khí nồng nặc mùi sấm sét lưu huỳnh.
“Tôi đã thấy nó - tôi đã thấy nó.” Người kia mở mắt nhìn ra cửa sổ, nơi chỉ có không gian đen thẳm, những vì sao đang xoay tròn, Trái đất xa xôi, và sao Hỏa đỏ rực đang mỗi lúc một lớn lên. “Tôi đã thấy nó - một con dơi, một con vật khổng lồ, một con dơi có bộ mặt người, dang cánh nơi cửa sổ trước. Đập cánh, đập cánh, đập cánh, đập cánh mãi.”
“Mạch?” cơ trưởng hỏi.
Viên hộ lý đo mạch. “Một trăm ba mươi.”
“Không thể cứ để anh ta như thế được. Dùng moocphin đi. Đi nào, Smith.”
Họ rời đi. Đột nhiên sàn tàu bỗng đầy xương và sọ người trắng hếu, gào thét. Cơ trưởng không dám nhìn xuống, ông nói to át tiếng gào thét, “Có phải Perse được đặt ở đây không?” trong lúc rẽ vào một ô cửa.
Một bác sĩ phẫu thuật mặc áo blu trắng rời khỏi một cái xác. “Tôi thật không hiểu.”
“Vì sao Perse chết?”
“Chúng tôi không biết, thưa cơ trưởng. Không phải vì tim hay não anh ta, cũng không phải vì sốc. Anh ta cứ tự nhiên chết thôi.”
Cơ trưởng túm cổ tay viên bác sĩ, nó biến thành một con rắn phun nọc và cắn ông. Ông không rụt tay lại. “Anh cũng nên cẩn trọng. Mạch anh cũng nhanh lắm.”
Viên bác sĩ gật đầu. “Perse kêu ca về những cơn đau như kim châm, anh ta nói là ở cổ tay và chân. Anh ta bị ngã. Tôi đỡ anh ta dậy. Anh ta khóc như trẻ con. Nói tim anh ta bị đâm bằng một cây kim bạc. Rồi anh ta chết. Anh ta đây. Chúng tôi có thể phẫu thuật tử thi lại cho ông thấy. Mọi thứ về mặt thể chất đều bình thường.”
“Không thể thế được! Anh ta phải chết vì một lý do gì chứ!”
Cơ trưởng bước tới một ô cửa sổ. Người ông có mùi bạc hà, i ốt, mùi xà phòng xanh tỏa ra từ hai bàn tay được kỳ cọ, móng cắt tỉa kỹ càng. Hàm răng trắng bóng của ông được đánh sạch, tai ông được cọ rửa đến ửng hồng, má ông cũng vậy. Đồng phục của ông có màu muối mới, và đôi ủng của ông là hai tấm gương đen bóng dưới chân. Mái tóc húi cua gọn ghẽ của ông sực mùi cồn. Ngay cả hơi thở của ông cũng sắc bén, mới, sạch. Người ông không chút tì vết. Ông là một công cụ mới đã được mài bén và sẵn sàng, vẫn ấm nóng từ trong lò của bác sĩ phẫu thuật ra.
Những người đi cùng ông cũng đúc từ cùng một khuôn. Ngỡ chừng trên lưng họ là những chiếc chìa khóa đồng khổng lồ đang từ từ xoay. Họ đều là những món đồ chơi đắt tiền, giỏi giang, được bôi trơn dầu, ngoan ngoãn và nhanh nhẹn.
Co trưởng quan sát sao Hỏa vươn lên khổng lồ giữa không gian. “Một giờ nữa chúng ta sẽ hạ cánh xuống nơi quái quỷ đó rồi. Smith, cậu có thấy dơi hay gặp ác mộng gì khác không?”
“Có, thưa ngài. Một tháng trước khi phi thuyền chúng ta cất cánh từ New York, thưa ngài. Những con chuột bạch cắn cổ tôi, hút máu tôi. Tôi không kể với ai. Tôi sợ ngài sẽ không cho tôi đi chuyến này.”
“Không sao đâu,” cơ trưởng thở dài. “Tôi cũng gặp ác mộng. Tôi đã năm mươi tuổi đầu rồi mà chưa bao giờ mơ, cho tới tận cái tuần trước khi chúng ta rời Trái đất. Và rồi đêm nào tôi cũng mơ mình là một con sói trắng. Bị kẹt trên một ngọn đồi phủ tuyết. Bị bắn bằng một viên đạn bạc. Bị chôn với một cây cọc gỗ đóng vào tim.” Ông quay đầu về phía sao Hỏa. “Cậu có nghĩ là họ biết chúng ta đang đến không, Smith?”
“Chúng ta không biết có người sao Hỏa không, thưa sếp.”
“Không ư? Họ bắt đầu dọa chúng ta từ tám tuần trước, trước khi chúng ta khởi hành kia. Giờ họ đã giết Perse và Reynolds. Hôm qua họ làm Crenville bị mù. Bằng cách nào? Tôi không biết. Dơi, kim, mộng mị, người chết cứ chết mà lý do là gì không ai biết. Nếu là thời khác thì tôi đã nghĩ đây là tà thuật. Nhưng giờ là năm 2120 rồi, Smith. Chúng ta là người có lý trí. Chuyện này không thể xảy ra được. Nhưng nó đang xảy ra! Dù họ là ai đi nữa, với những cây kim và bầy dơi của họ, họ đang giết dần chúng ta.” Ông quay ngoắt lại. “Smith, lấy số sách trong phòng lưu trữ của tôi. Tôi muốn có chúng khi ta hạ cánh.”
Hai trăm cuốn sách được xếp lên boong phi thuyền.
“Cảm ơn cậu, Smith. Cậu đã liếc qua chúng chưa? Cậu nghĩ tôi điên ư? Cũng có thể. Đó là một linh cảm điên rồ. Ngay trước khi cất cánh tôi đã đặt số sách này từ Bảo tàng Lịch sử. Vì những giấc mơ của tôi. Hai mươi đêm liền tôi bị đâm, giết, biến thành một con dơi gào thét bị găm vào một tấm đệm phẫu thuật, một sinh vật thối rữa dưới lòng đất trong một cái hộp đen; những giấc mơ khủng khiếp, xấu xa. Toàn bộ phi hành đoàn đều mơ về những thứ tà ma và quái quỷ, ma cà rồng và oan hồn, những điều họ không thể biết đến. Vì sao? Vì các sách viết về những đề tài đáng sợ đó đều đã bị tiêu hủy từ một thế kỷ trước. Theo luật. Mọi người đều bị cấm tàng trữ những cuốn sách đáng sợ này. Những cuốn sách cậu thấy đây là những cuốn cuối cùng, được giữ lại vì mục đích lịch sử, trong những căn hầm được khóa kín của viện bảo tàng.”
Smith cúi xuống đọc những nhan đề bụi bặm:
“Những chuyện kỳ bí và hoang đường của Edgar Allan Poe. Dracula của Bram Stoker. Frankenstein của Mary Shelley. Vòng huyền bí của Henry James. Truyền thuyết thung lũng ngủ say của Washington Irving. Con gái của Rappaccini của Nathaniel Hawthorne. Sự việc ở cầu Suối Cú của Ambrose Bierce. Alice ở xứ sở diệu kỳ của Lewis Carroll. Rặng liễu của Algernon Blackwood. Phù thủy xứ Oz của L. Frank Baum. Bóng đen quái lạ ở Innsmouth của H.P. Lovecraft. Và còn nữa! Sách của Walter de la Mare, Wakefield, Harvey, Wells, Asquith, Huxley, đều là tác giả bị cấm. Tất cả đều bị đốt vào cùng năm lễ Halloween và Giáng sinh bị cấm! Nhưng, thưa sếp, những sách này thì có ích gì cho ta trên phi thuyền?”
“Tôi không biết,” cơ trưởng thở dài. “Chưa biết.”
Ba mụ phù thủy nhấc quả cầu pha lê nơi hình ảnh cơ trưởng đang chập chờn, giọng ông từ quả cầu vang ra nhỏ xíu:
“Tôi không biết,” cơ trưởng thở dài. “Chưa biết.”
Ba mụ phù thủy giương ba cặp mắt đỏ ngầu nhìn vào mặt nhau.
“Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa,” một mụ nói.
“Tốt hơn ta nên cảnh báo với Người ở Thành phố.”
“Họ sẽ muốn biết về những cuốn sách. Chuyện này không ổn chút nào. Gã cơ trưởng ngu ngốc đó!”
“Một giờ nữa phi thuyền của họ sẽ hạ cánh.”
Ba mụ phù thủy rùng mình rồi chớp mắt nhìn Thành phố Ngọc Lục Bảo bên bờ biển sao Hỏa cạn khô. Trên ô cửa sổ ở tòa tháp cao nhất của thành phố, một người đàn ông nhỏ thó vén tấm màn đỏ như máu sang bên. Ông nhìn vùng đất hoang nơi ba mụ phù thủy đang khuấy vạc và nặn sáp. Xa hơn nữa là mười ngàn đống lửa xanh khác và hương nguyệt quế, khói thuốc lá đen và gỗ linh sam, bột quế và bột xương bốc lên êm nhẹ như cánh bướm giữa màn đêm sao Hỏa. Người đàn ông đếm những đống lửa ma thuật đầy giận dữ. Rồi, khi ba mụ phù thủy nhìn lên, ông quay đi. Tấm màn đỏ được thả ra, buông xuống, khiến ô cửa sổ đằng xa nhấp nháy, như một con mắt vàng ệch.
Edgar Allan Poe đứng bên cửa sổ tòa tháp, hơi thở vương mùi rượu. “Đêm nay bạn bè của Hecate bận bịu thật,” ông nói khi thấy những mụ phù thủy tít xa bên dưới.
Một giọng nói vang lên sau lưng ông, “Sáng nay tôi thấy Will Shakespeare đứng bên bờ biển thúc giục họ. Khắp dọc bờ biển đêm nay toàn là đội quân của Shakespeare, có đến cả ngàn người: ba mụ phù thủy, Oberon, cha của Hamlet, Puck - tất cả, tất cả bọn họ -hàng ngàn người! Chúa ơi, đúng là một biển người.”
“William cừ lắm.” Poe quay người. Ông thả tấm màn xuống. Ông đứng hồi lâu quan sát căn buồng xây bằng đá thô, cái bàn gỗ đen, ngọn nến bập bùng, và người kia, Ambrose Bierce, đang ngồi vơ vẩn bên bàn, quẹt diêm rồi vừa nhìn que diêm cháy rụi vừa khẽ huýt sáo, chốc chốc lại cười một mình.
“Chúng ta phải báo cho ông Dickens ngay,” Poe nói. “Chúng ta đã trì hoãn việc này quá lâu rồi. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Ông đi cùng tôi đến nhà ông ấy chứ, Bierce?”
Bierce vui vẻ nhìn lên. “Tôi vừa mới nghĩ - chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta nhỉ?”
“Nếu chúng ta không hạ được đám phi hành gia đó hay dọa được họ biến khỏi đây thì tất nhiên chúng ta sẽ phải rời đi thôi. Chúng ta sẽ rời đến sao Mộc, và khi họ đến sao Mộc, chúng ta sẽ đi tiếp đến sao Thổ, và khi họ đến sao Thổ, chúng ta sẽ đi đến sao Thiên Vương, hoặc sao Hải Vương, hoặc sao Diêm Vương…”
“Rồi sau đó ta sẽ đi đâu?”
Mặt Poe đầy mệt mỏi; có ánh than hồng còn sót lại đang tàn dần trong mắt ông, có một vẻ hoang cuồng rầu rĩ trong cách ông nói, và một vẻ bất lực trong bàn tay ông cũng như cách mớ tóc rũ xuống trên vầng trán trắng phau của ông. Ông như ma vương của một đại nghĩa đen tối bất thành nào đó, một tướng quân trở về từ một cuộc xâm lăng thảm bại. Bộ ria mềm đen nhánh mượt như nhung của ông bị gặm mòn bỏi đôi môi lắm đăm chiêu. Ông nhỏ con đến nỗi vầng trán rộng bồng bềnh của ông như tự nó sáng trắng giữa căn phòng tối.
“Chúng ta có lợi thế nhờ cách đi lại thượng đẳng hơn,” ông nói. “Chúng ta luôn có thể hy vọng một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ phá hủy thế giới của họ, đêm trường Trung cổ sẽ trở lại. Mê tín sẽ trở lại. Khi đó chúng ta sẽ có thể quay về Trái đất, tất cả chúng ta, chỉ trong một đêm.” Cặp mắt đen của Poe đầy ủ ê dưới vầng trán tròn, ngời sáng. Ông ngước nhìn trần nhà. “Vậy là họ định đến đây phá hoại cả thế giới này nữa ư? Họ sẽ không để lại bất kỳ một cái gì mà không bị họ làm cho hoen ố, phải không?”
“Đàn sói có dừng lại cho tới khi chúng đã giết con mồi và ăn sạch lòng ruột không? Sẽ là một cuộc chiến ra trò đây. Tôi sẽ ngồi bên lề làm trọng tài. Bao nhiêu người Trái đất sẽ bị luộc trong dầu, bao nhiêu lá thư trong chai sẽ bị đốt, bao nhiêu người Trái đất bị đâm bằng kim, bao nhiêu Tử Thần Đỏ phải tháo chạy vì một bộ kim tiêm - ha!”
Poe giận dữ lảo đảo, ngà ngà say vì rượu vang. “Chúng ta đã làm gì chứ? Nhân danh Chúa, hãy đi cùng chúng tôi, Bierce! Chúng ta có được xử án một cách công bằng trước mặt một hội các nhà phê bình văn học không? Không! Sách của chúng ta bị nhặt lên bằng những chiếc kẹp vô trùng gọn ghẽ của bác sĩ phẫu thuật, để bị ném vào những cái thùng, bị luộc, để tẩy sạch những vi khuẩn tang tóc của chúng! Tôi nguyền rủa tất cả bọn họ!”
“Tôi thấy tình cảnh của chúng ta thật buồn cười,” Bierce nói.
Họ bị cắt ngang bởi một tiếng thét hốt hoảng vọng lên từ cầu thang dẫn lên tháp.
“Ông Poe ơi! Ông Bierce ơi!”
“Vâng, vâng, chúng tôi xuống đây!” Poe và Bierce đi xuống và thấy một người đàn ông đang đứng dựa vào bức tuờng đá ở hành lang, thở hổn hển.
“Các ông đã nghe tin chưa?” ông ta lập tức kêu lên, túm chặt lấy họ như một người sắp ngã xuống vực. “Chỉ một giờ nữa họ sẽ hạ cánh! Họ đem theo sách - những cuốn sách cũ, mấy mụ phù thủy nói vậy! Các ông làm gì trên tháp vào lúc như thế này? Sao các ông không hành động?”
Poe nói, “Chúng tôi đang làm tất cả những gì có thể đây, Blackwood. Ông vẫn còn chưa quen với việc này. Đi nào, chúng ta sẽ đến nhà Charles Dickens…”
“… để suy ngẫm về sự diệt vong đen tối của chúng ta,” Bierce nháy mắt nói.
Họ đi xuống cuống họng âm vang của tòa tháp, từng tầng một, những tầng tháp xanh xanh mờ tối, xuyên qua bầu không khí ẩm mốc, bụi bặm, đầy nhện và những tấm mạng mờ ảo. “Đừng lo,” Poe nói, vầng trán của ông như một ngọn đèn trắng sáng khổng lồ trước mặt họ đang hạ xuống thấp dần. “Đêm nay suốt dọc bờ biển chết tôi đã gọi những người khác. Bạn của các ông và bạn của tôi. Blackwood - Bierce. Họ đều đã có mặt. Những con thú, những mụ già, những kẻ khổng lồ có hàm răng trắng ỏn sắc nhọn. Bẫy đang đợi sẵn rồi; những cái hố, đúng vậy, và những quả lắc. Cả Tử Thần Đỏ nữa.” Nói đến đây ông khẽ cười. “Phải, cả Tử Thần Đỏ nữa. Tôi chưa bao giờ - không, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ đến lúc Tử Thần Đỏ phải xuất hiện. Nhưng họ đã đòi điều đó, và họ sẽ nhận được nó!”
“Nhưng chúng ta có đủ mạnh không?” Blackwood hỏi.
“Mạnh thế nào là đủ mạnh? Ít ra họ cũng không chuẩn bị đón chúng ta. Họ không có trí tưởng tượng. Những phi hành gia sạch bóng trẻ măng với bộ đồ lót vô trùng và mũ bảo hiểm trông như chậu cá vàng, với thứ tôn giáo mới của họ. Quanh cổ họ là dao mổ treo trên dây chuyền vàng. Trên đầu họ là mũ miện làm bằng kính hiển vi. Trong bàn tay thần thánh của họ là những bát hương bốc khói nhưng thực chất chỉ là những cái lò tiệt trùng xua đi mê tín. Những cái tên Poe, Bierce, Hawthorne, Blackwood, thảy đều là những lời báng bổ trên cái miệng sạch sẽ của họ mà thôi.”
Bên ngoài tòa tháp, họ đi qua một khoảnh nước, vừa giống lại vừa không giống một cái hồ nhỏ, nó tỏa sương trước mặt họ như hình ảnh trong con ác mộng. Bầu không khí tràn ngập tiếng đập cánh, tiếng vùn vụt như chuyển động của những ngọn gió và của những bóng đen. Những giọng nói thay đổi, những dáng người lảo đảo bên đống lửa. Poe theo dõi những cây kim đan lên đan xuống, đan mãi không ngừng trong ánh lửa; đan thành nỗi đau đớn và thống khổ, đan sự độc ác thành những hình nộm sáp, những búp bê đất sét. Cái vạc bốc mùi tỏi dại, mùi ớt, mùi nghệ tây, làm màn đêm nồng nặc những mùi hương xấu xa.
“Tiếp tục đi!” Poe nói. “Tôi sẽ quay lại!”
Dọc bờ biển cạn, những hình thù đen sẫm mọc lên rồi biến mất, lớn dần rồi tan biến thành khói đen trên nền trời. Chuông ngân trong những ngọn tháp trên núi và từng đàn quạ đen nhánh tràn ra cùng với âm thanh của chuông đồng rồi xoay tít thành tro bụi.
Poe và Bierce vội vã đi qua một cánh đồng hoang vắng trống trải rồi xuống một thung lũng nhỏ, và đột nhiên thấy mình đang ở trên một con phố rải cuội trong cái lạnh căm căm, u ám, người dân đi đi lại lại trên những mảnh sân lát đá cho ấm chân; tất cả chìm trong màn sương, nến tỏa sáng bập bùng nơi cửa sổ các văn phòng và cửa hiệu có treo gà tây Giáng sinh. Xa xa, mấy chú bé quấn mình trong áo khoác, hơi thở phà ra nhàn nhạt giữa bầu không khí mùa đông, đang cất tiếng lảnh lót hát bài “Hồng ân Thiên Chúa”, trong khi một chiếc đồng hồ khổng lồ liên tục điểm chuông nửa đêm. Trẻ con từ tiệm bánh lao ra, bàn tay cáu bẩn bê bữa tối bốc hơi đựng trên khay úp dưới những chiếc bát bạc.
Ở văn phòng treo tấm biển SCROOGE, MARLEY VÀ DICKENS, Poe dập cái búa gõ cửa hình mặt Marley, và khi cửa hé mở vài phân, từ bên trong bất thình lình vẳng ra tiếng nhạc khiến họ suýt nữa nhảy dựng lên khiêu vũ. Và kia, sau lưng người đàn ông đang chìa chòm râu cằm và bộ ria mép về phía họ, là ông Fezziwig đang vỗ tay và bà Fezziwig mặt mày tươi roi rói, đang chen vai thích cánh nhảy múa cùng những người dự tiệc khác, trong khi vĩ cầm réo rắt và tiếng cười vang khắp bàn như những viên pha lê trên đèn chùm khi có hơi gió chọt thoảng qua. Bàn tiệc lớn chất đầy thịt lợn, gà tây, cây ô rô và ngỗng; với bánh nhân thịt, heo sữa quay, xâu xúc xích, cam và táo; rồi thì kia là Bob Cratchit, cô bé Dorrit, Tim Bé Con và ông Fagin, và một người đàn ông nom như miếng thịt bò chưa tiêu hóa, một vết mù tạt, một mẩu pho mát, một lát khoai tây nấu sượng - còn ai khác ngoài ông Marley, kéo theo cả dây xích, trong khi người ta rót rượu và những con gà tây nâu giòn đang cố hết sức để bốc hơi!
“Các ông muốn gì?” Charles Dickens hỏi.
“Chúng tôi lại đến để cầu xin ông lần nữa đây, Charles; chúng tôi cần ông giúp đỡ,” Poe nói.
“Giúp ư? Các ông nghĩ tôi sẽ giúp các ông chống lại những con người tử tế đang đến đây trên phi thuyền sao? Dù sao thì tôi cũng không thuộc về nơi này. Sách của tôi bị đốt do nhầm lẫn. Tôi không phải nhà siêu nhiên học, không phải nhà văn viết truyện kinh dị như ông, Poe; ông, Bierce, hay những người khác. Tôi sẽ không dính dáng gì đến những kẻ kinh khủng như các ông đâu!”
“Ông là người nói rất thuyết phục,” Poe nói. “Ông có thể đến gặp các phi hành gia, ru ngủ họ, xoa dịu sự nghi ngờ của họ và rồi… rồi chúng tôi sẽ xử lý họ.”
Dickens liếc nhìn những nếp gấp chiếc áo choàng đen che kín hai bàn tay của Poe. Poe mỉm cười lôi một con mèo đen từ trong áo choàng ra. “Để tặng một vị khách của chúng ta.”
“Còn những người khác thì sao?”
Poe lại mỉm cười vẻ tự đắc. “Vụ Chôn Sống chăng?”
“Ông đúng là người bệnh hoạn, Poe ạ.”
“Tôi là một người sợ hãi và giận dữ. Tôi là một vị thần, Dickens ạ, cũng như ông, cũng như tất cả chúng ta, và sáng tác của chúng ta - có thể gọi là người của chúng ta cũng được - đã không chỉ bị đe dọa mà còn bị trục xuất, thiêu cháy, xé và kiểm duyệt, phá hoại và hủy bỏ. Thế giới chúng ta tạo ra đã sụp đổ. Ngay cả các vị thần cũng phải chiến đấu lại!”
“Thì sao?” Dickens nghiêng đầu, sốt ruột muốn quay lại với bữa tiệc, âm nhạc và đồ ăn thức uống. “Ông có thể giải thích vì sao chúng ta lại ở đây không? Chúng ta đã đến đây bằng cách nào?”
“Chiến tranh sinh ra chiến tranh. Phá hoại sinh ra phá hoại. Trên Trái đất, cách đây một thế kỷ, vào năm 2020, họ đã cấm sách của chúng ta. Chao ôi, thật là một điều khủng khiếp - phá hủy các sáng tạo văn chương của chúng ta như vậy! Điều đó đã triệu chúng ta về từ… từ cái gì? Từ Cái chết? Từ Cõi âm? Tôi không thích những thứ trừu tượng. Tôi không biết nữa. Tôi chỉ biết là thế giới của chúng ta và sáng tác của chúng ta đã gọi chúng ta, và chúng ta đã cố cứu lấy chúng, và điều duy nhất chúng ta có thể làm là đợi hết một thế kỷ ở đây, trên sao Hỏa này, hy vọng rằng Trái đất sẽ tự sụp đổ vì những nhà khoa học và những hồ nghi của họ; nhưng giờ họ lại đang đến để tẩy sạch chúng ta khỏi nơi này, chúng ta và những sáng tác đen tối của chúng ta, những nhà giả kim, phù thủy, ma cà rồng và các thứ quỷ quái khác, bắt chúng ta phải lùi dần vào vũ trụ trong khi khoa học xâm nhập vào mọi đất nước trên Trái đất và cuối cùng khiến chúng ta chẳng còn cách nào khác ngoài ra đi vĩnh viễn. Ông phải giúp chúng tôi. Ông rất giỏi diễn thuyết. Chúng tôi cần ông.”
“Tôi nhắc lại, tôi không giống các vị, tôi không ủng hộ ông và những người khác,” Dickens giận dữ kêu lên. “Tôi đâu có đùa giỡn với phù thủy, ma cà rồng và những thứ đen tối.”
“Thế còn Bài ca mừng Giáng sinh thì sao?”
“Nực cười! Đó chỉ là một câu chuyện. Ờ, có lẽ tôi có viết vài truyện khác nhắc đến ma quỷ, nhưng thế thì đã sao? Các sáng tác chính của tôi không có những thứ vớ vẩn đó!”
“Dù có nhầm lẫn hay không thì họ cũng đánh đồng ông với chúng tôi. Họ đã hủy sách của ông - cả thế giới của ông. Ông phải căm ghét họ chứ, ông Dickens!”
“Tôi thừa nhận là họ rất ngu ngốc và thô lỗ, nhưng chỉ thế thôi. Chúc một ngày tốt lành!”
“Ít ra cũng để ông Marley đi cùng chúng tôi đi!”
“Không!”
Cửa đóng sập lại. Khi Poe quay đi thì dưới phố, một chiếc xe ngựa lớn xuất hiện, chạy băng băng trên nền đường phủ sương giá, người đánh xe thổi một điệu nhạc vui tươi bằng chiếc tù và, rồi các thành viên câu lạc bộ Pickwick bước ra khỏi xe, má đỏ ửng, cười nói, hát vang. Họ đấm cửa, miệng hô Chúc mừng Giáng sinh khi cửa được một chú bé béo tròn ra mở.
Poe đi nhanh trên bờ biển cạn lúc nửa đêm. Bên những đống lửa và khói ông dừng chân để quát to ra lệnh, kiểm tra những chiếc vạc sôi, các thứ độc dược và những ngôi sao năm cánh vẽ bằng phấn. “Tốt!” ông khen, rồi chạy tiếp. “Được lắm!” ông nói to, rồi lại chạy. Nhiều người đến chạy cùng ông. Đây là Coppard và Machen đang chạy cùng ông. Và còn có cả những con mãng xà căm hận, những con quỷ đầy giận dữ, những con rồng bằng đồng thau phun lửa, những con rắn phun nọc, những mụ phù thủy run rẩy như những kim những ngạnh những gai cùng mọi thứ bà giằn vô giá trị của biển tưởng tượng đang rút dần, bị bỏ lại trên bãi biển u sầu, rên rỉ, sôi sục và sủi bọt.
Machen dừng. Ông ngồi như đứa trẻ trên nền cát lạnh. Ông bắt đầu nức nở. Họ cố an ủi ông, nhưng ông không chịu nghe. “Tôi vừa nghĩ, khi những bản in cuối cùng của sách chúng ta viết bị phá hủy thì chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta đây?” ông nói.
Bầu không khí quay cuồng.
“Đừng nói đến chuyện đó!”
“Chúng ta phải nói,” Machen gào lên. “Ngay lúc này đây, khi phi thuyền hạ cánh, ông, Poe; ông, Coppard; ông, Bierce, các ông đều đang mờ dần đi. Như khói củi. Bị thổi bay. Mặt các ông tan chảy…”
“Cái chết! Cái chết thực sự cho tất cả chúng ta.”
“Chúng ta tồn tại chỉ là nhờ Trái đất bất đắc dĩ chấp nhận chúng ta thôi. Nếu đêm nay có một sắc lệnh cuối cùng ban ra hủy diệt những tác phẩm cuối cùng của chúng ta thì chúng ta sẽ như đèn bị thổi tắt.”
Coppard lặng lẽ ủ ê. “Tôi tự hỏi tôi là ai. Tôi tồn tại trong tâm trí nào ở Trái đất trong đêm nay? Trong một túp lều châu Phi ư? Một ẩn sĩ nào đó đang đọc truyện của tôi ư? Ông ta có phải là ngọn nến đơn độc trước ngọn gió thời gian và khoa học không? Quầng sáng bập bùng đang duy trì sự sống cho tôi ở nơi lưu đày nổi loạn này? Có phải ông ta không? Hay một cậu bé trong gác xép hoang vắng nào đó, tìm thấy tôi đúng lúc! Ôi, đêm qua tôi thấy phát ốm, ốm, ốm đến tận xương tủy, vì linh hồn cũng có thể xác giống như thể xác thật, và thể xác linh hồn này đau nhức trong mỗi phần cơ thể sáng bập bùng, và đêm qua tôi thấy mình như một ngọn nến sắp tắt. Rồi đột nhiên tôi bật dậy, được truyền một luồng sáng mới! Khi một đứa trẻ, hắt hơi vì bụi, trong một gác xép ố vàng trên Trái đất lại tìm thấy một cuốn sách của tôi, một cuốn sách cũ kỹ, lốm đốm vết thời gian! Và vậy là án tử của tôi đã được hoãn lại ít lâu!”
Ở một túp lều nhỏ bên bờ biển, một cánh cửa mở toang ra. Một người gầy guộc, nhỏ con, da nhăn nheo rũ xuống từng nếp bước ra, và, không chú ý gì đến những người khác, ngồi xuống nhìn vào hai bàn tay siết chặt.
“Kia mới là người tôi thương hại,” Blackwood thì thầm. “Nhìn kìa, ông ta đang chết dần chết mòn. Đã có thời ông ta còn thực hơn cả chúng ta, những người thực. Họ tóm lấy ông ta, một ý nghĩ đơn thuần, bọc ông ta hàng mấy thế kỷ trong da thịt hồng hào, râu trắng tuyết, áo nhung đỏ ủng đen; làm cho ông ta tuần lộc, ô rô, kim tuyến. Và sau hàng thế kỷ chế tạo ông ta, họ dìm chết ông ta trong một thùng thuốc tẩy Lysol, nói thế cũng được.”
Những người kia im lặng.
“Trên Trái đất sẽ ra sao nhỉ?” Poe băn khoăn. “Khi không có Giáng sinh? Không có hạt dẻ nóng, không cây thông, không đồ trang trí hay trống hay nến, không gì cả; không gì khác ngoài tuyết, gió và những con người trần trụi, cô đơn…”
Họ thảy đều nhìn ông già nhỏ bé gầy guộc với chòm râu xơ xác và bộ áo nhung đỏ bạc phếch.
“Đã ai nghe chuyện của ông ấy chưa?”
“Tôi có thể tưởng tượng ra. Nhà tâm lý học mắt long lanh, nhà xã hội học thông minh, nhà giáo dục bực bội sùi bọt mép, những bậc phụ huynh vô trùng…”
“Một tình cảnh rất đáng tiếc,” Bierce mỉm cười nói, “với những nhà buôn bán đồ Giáng sinh, mà theo tôi nhớ thì đã bắt đầu treo cành ô rô và hát nhạc Noel từ trước lễ Halloween kia. Năm nay, nếu gặp may, họ sẽ bắt đầu từ ngày lễ Lao động!”
Bierce không nói tiếp. Ông gục xuống với một tiếng thở dài. Khi nằm trên nền đất, ông chỉ kịp nói, “Thật thú vị.” Và rồi, trước cặp mắt kinh hoàng của họ, thân xác ông cháy rụi thành bụi xanh và xương đen sì, rồi đống tro tàn tan nát ấy tản mác bay theo gió.
“Bierce, Bierce!”
“Biến mất rồi!”
“Cuốn sách cuối cùng của ông ấy đã biến mất. Ai đó trên Trái đất vừa đốt nó xong.”
“Chúa phù hộ ông ấy. Giờ không còn lại gì của ông ấy nữa. Vì chúng ta có là gì khác ngoài những cuốn sách, và khi những cuốn sách đã biến mất thì chẳng còn lại gì để nhìn thấy nữa.”
Một tiếng xao xác vang vọng khắp trời.
Họ sợ hãi kêu to và ngước lên nhìn. Trên trời, sáng chói giữa những đám mây rực lửa, là phi thuyền! Đèn lồng nhấp nhô quanh đám người trên bờ biển; có những tiếng lép bép, bập bùng, có mùi của những phép thuật người ta đang nấu tỏa ra. Những quả bí ngô có mắt làm bằng nến được nhấc lên bầu không khí trong lành, lạnh ngắt. Những ngón tay gầy guộc siết chặt thành nắm đấm và một mụ phù thủy gào lên từ cái miệng khô héo:
“Phi thuyền, phi thuyền, rơi xuống!
Phi thuyền, phi thuyền, đốt hết!
Nứt, lở, rung, tan!
Bụi xác ướp, da mèo khô!”
“Đến lúc đi rồi,” Blackwood khẽ nói. “Đi tiếp đến sao Mộc, sao Thổ, hoặc sao Diêm Vương.”
“Chạy trốn ư?” Poe hét lên giữa tiếng gió. “Không bao giờ!”
“Tôi là một ông già mệt mỏi rồi!”
Poe nhìn vào mặt ông già và tin ông. Poe trèo lên một tảng đá lớn và đối mặt với hàng vạn bóng đen, ánh sáng xanh và những cặp mắt vàng ệch giữa luồng gió rít.
“Bột đâu!” ông quát.
Một mùi nóng rực đặc quánh bốc lên, mùi hạnh nhân đắng, xạ hương, thì là Ai Cập, rau muối, rễ cây diên vĩ!
Phi thuyền hạ cánh - hạ cánh từ từ, giữa những tiếng gào thét của một linh hồn bị đọa! Poe nổi con thịnh nộ với nó! Ông vung nắm đấm lên, và một dàn nhạc đầy hơi nóng, mùi vị và căm hận nổi lên đáp lại! Như những mẩu gỗ vụn, dơi bay lên! Những trái tim rực cháy được ném lên như tên lửa, vỡ tung ra thành từng quầng pháo hoa đẫm máu giữa bầu không khí khét lẹt. Phi thuyền hạ xuống, không ngừng hạ xuống như quả lắc. Và Poe gào thét giận dữ, lùi lại trước từng luồng từng luồng không khí bị phi thuyền thổi bùng lên! Cả lòng biển cạn khô tựa như một cái hố nơi họ bị mắc kẹt, đợi cỗ máy đáng sợ kia hạ cánh như một lưỡi rìu sáng loáng; họ như những người bị vùi dưới một trận lở tuyết!
“Rắn đâu!” Poe gào lên.
Thế là những con mãng xà xanh lè phát sáng liền cuộn khúc lao về phía phi thuyền. Nhưng phi thuyền vẫn hạ cánh, một vòng cung, một quầng lửa, một chuyển động, rồi nó nằm đó thở phì phò, phả ra từng luồng khói như những túm lông vũ đỏ trên nền cát, cách đó một dặm.
“Tấn công nó!” Poe thét. “Kế hoạch đã thay đổi! Chỉ còn một cơ hội thôi! Chạy đi! Tấn công! Tấn công! Nhấn chìm chúng bằng cơ thể chúng ta! Giết chúng!”
Và như thể ông đã ra lệnh cho biển cả dữ dội phải đổi chiều, bắt nó phải bứt mình ra khỏi lòng biển sơ khai, những luồng lửa dữ dội tản ra, lao đi như gió mưa sấm chớp trên cát biển, lao xuống những đồng bằng ven sông, phủ bóng và gầm rú, rú rít và rên rỉ, bập bùng và cuộn lại về phía phi thuyền đã tắt ngúm, đang nằm như một ngọn đuốc kim loại sạch bóng ở thung lũng xa nhất. Như thể một cái vạc khổng lồ cháy đen toàn dung nham lấp lánh bị lật úp, những con người sôi sùng sục và con vật rừng rực lửa cuồn cuộn chảy xuống lòng biển cạn khô trơ đáy.
“Giết chúng!” Poe vừa chạy vừa hét lớn.
Những phi hành gia nhảy ra khỏi phi thuyền, súng giương lên sẵn. Họ đi quanh, đánh hơi không khí như chó săn. Họ không nhìn thấy gì. Họ thư giãn hơn.
Cơ trưởng là người sau cùng bước ra. Ông gắt gỏng ra lệnh. Củi được nhặt về, nhóm lên, và chỉ trong chốc lát một đống lửa đã bùng cháy. Cơ trưởng ra hiệu cho phi hành đoàn đứng thành hình bán nguyệt quanh mình.
“Một thế giới mới,” ông nói, bắt mình phải thốt ra từng từ chậm rãi, mặc dù chốc chốc ông lại bồn chồn liếc qua vai mình về phía lòng biển trống trơ. “Thế giới cũ đã bị bỏ lại phía sau. Một khởi đầu mới. Còn gì giàu biểu tượng hơn việc chúng ta toàn tâm toàn ý cống hiến cho khoa học và tiến bộ.” Ông gật đầu gọn lỏn với viên trung úy. “Đem sách ra đây.”
Ánh lửa lấp lánh trên những nhan đề mạ vàng đã mờ: Rặng liễu, Người ngoài cuộc, Hãy nhìn kẻ mộng mơ, Bác sĩ Jekyll và ông Hyde, Xứ Oz, Pellucidar, Vùng đất thời gian quên lãng, Giấc mộng đêm hè, và những cái tên ghê gớm của Machen, Edgar Allan Poe, Cabell, Dunsany, Blackwood và Lewis Caroll; những cái tên, những cái tên cổ xưa, những cái tên xấu xa.
“Một thế giới mới. Bằng một cử chỉ này, chúng ta đốt trụi những tàn tích cuối cùng của thế giới cũ.” Cơ trưởng xé các trang sách. Từng trang, từng trang nham nhỏ một, ông thả vào đống lửa.
Một tiếng thét!
Cả phi hành đoàn giật nẩy người nhìn qua đống lửa về phía rìa vùng biển tro trọi bao quanh.
Một tiếng thét nữa! Một tiếng thét chói tai, rền rĩ, như cái chết của một con rồng và tiếng quẫy đạp của con cá voi màu đồng thở hổn hển khi biển của con thủy quái rút khỏi bờ đá cuội và bay hơi hết.
Đó là âm thanh của không khí tràn vào lấp đầy một chân không, nơi chỉ thoáng chốc trước đây thôi, đã có một thứ gì đó!
Cơ trưởng gọn ghẽ xử lý nốt cuốn sách cuối cùng bằng cách ném nó vào lửa.
Bầu không khí ngừng rung chuyển. Im lặng!
Các phi hành gia nghiêng người lắng nghe. “Cơ trưởng, ông có nghe thấy không?”
“Không.”
“Như một cơn sóng vậy, thưa sếp. Trong lòng biển! Tôi nghĩ tôi đã thấy gì đó. Ở đằng kia. Một con sóng đen ngòm. Khổng lồ. Lao về phía chúng ta.”
“Cậu nhầm rồi.”
“Kia, thưa sếp!”
“Cái gì?”
“Thấy không? Kia kìa! Thành phố ấy! Xa tít đằng kia! Thành phố xanh bên bờ hồ! Nó đang nứt làm đôi. Nó đang sụp xuống!”
Các phi hành gia nheo mắt và lê bước tới trước.
Smith đứng run rẩy giữa bọn họ. Anh ta đặt tay lên đầu như để tìm một ý nghĩ ở đó. “Tôi còn nhớ. Phải, giờ thì tôi nhớ rồi. Cách đây đã rất lâu. Khi tôi còn bé. Tôi đã đọc một cuốn sách. Một câu chuyện. Tôi nghĩ là về xứ Oz. Phải, Oz. Thành phố Ngọc Lục Bảo xứ Oz…”
“Xứ Oz ư? Chưa bao giờ nghe nói đến.”
“Phải, Oz, chính là nó đấy. Tôi thấy nó đúng như trong truyện. Tôi thấy nó sụp đổ.”
“Smith!”
“Vâng, thưa sếp?”
“Đến trình diện để phân tích tâm thần học ngày mai.”
“Vâng, thưa sếp!” Anh ta giơ tay chào gọn.
“Cẩn thận đấy.”
Các phi hành gia rón rén bước đi, súng giương sẵn sàng, rời khỏi quầng sáng vô trùng của phi thuyền để nhìn lòng biển dài và những ngọn đồi thấp.
“Kìa,” Smith thì thào vẻ thất vọng, “ở đây chẳng có ai cả, phải không? Chẳng có ai hết.”
Gió rên rỉ thổi cát lên giày anh ta.