Chương 12 CON CÁO VÀ KHU RỪNG
Đêm đầu tiên đó có pháo hoa, có lẽ là một thứ ta nên sợ, vì pháo hoa nhắc ta nhớ đến những điều khác, khủng khiếp hơn, nhưng đây là những quả pháo hoa tuyệt đẹp, bay vút lên bầu không khí cổ xua êm dịu của Mexico, làm cho những vì sao rung chuyển thành những đốm sáng xanh và trắng lung linh. Tất cả đều tốt đẹp và ngọt ngào, bầu không khí là sự hòa quyện của sự sống và cái chết, của mưa và bụi, của mùi hương trầm từ phía nhà thờ và mùi đồng từ những cây kèn tuba của dàn nhạc đang nhịp nhàng thổi những giai điệu trầm bổng của bài La Paloma. Cửa nhà thờ mở rộng, và như có một chòm sao vàng khổng lồ đã rơi xuống từ bầu trời tháng Mười và đang phun lửa lên tuông nhà thờ; hàng triệu cây nến đang tỏa sáng tỏa hương. Những quả pháo hoa càng lúc càng mói hơn, càng đẹp hơn lao qua quảng trường mát mẻ giống như sao chổi đi dây, đập vào tường đất nện quán cà phê, rồi hối hả lao trên những sợi dây nóng bỏng để đánh vào tháp nhà thờ cao vút, nơi ta thấy có mỗi bàn chân trần của mấy chú bé đang đá rồi lại đá, lật nghiêng rồi lại lật nghiêng những quả chuông kếch xù để chúng rền vang tiếng nhạc. Một con bò rực lửa chạy quanh quảng trường đuổi theo những người lớn cả cười và đám trẻ hò reo.
“Năm 1938,” William Travis nói, mỉm cười đứng cạnh vợ bên rìa đám đông ồn ã. “Một năm tuyệt vời.”
Con bò lao tới chỗ họ. Hai vợ chồng thụp người xuống chạy, giữa những quả cầu lửa đang trút xuống, chạy qua tiếng nhạc và tiếng ồn ào, qua nhà thờ, ban nhạc, chạy duới những vì sao, ôm chặt lấy nhau, cười vang. Con bò lướt qua, được khênh nhẹ nhàng trên vai một người Mexico đang xông tới, một cái khung bằng tre và thuốc súng sặc mùi lưu huỳnh.
“Cả đời em chưa bao giờ vui đến thế.” Susan Travis dừng lại để lấy hơi.
“Thật kỳ diệu,” William nói.
“Nó sẽ tiếp tục phải không?”
“Suốt đêm.”
“Không, ý em là chuyến đi của chúng mình cơ.”
Anh nhíu mày và vỗ vỗ lên túi ngực. “Anh có đủ séc du lịch cho cả một đời đây. Em cứ tận hưởng đi. Quên mọi chuyện đi. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chúng ta đâu.”
“Không bao giờ ư?”
“Không bao giờ.”
Ai đó đang đốt những quả pháo khổng lồ rồi ném xuống giữa những cuộn khói từ trên tháp nhà thờ đang dồn dập đổ chuông, trong khi đám đông bên dưới dạt ra và những quả pháo nổ giòn tan giữa những bàn chân và thân thể đu đưa nhảy múa. Khắp nơi là mùi bánh ngô rán ngon lành, và trong quán xá, đàn ông ngồi quanh bàn nhìn ra ngoài, bàn tay rám nắng ủ những vại bia.
Con bò đã chết. Lửa đã tàn trong những ống tre và tắt ngấm. Người thợ nhấc cái khung lên vai. Các chú bé vây đến sờ vào cái đầu giấy bồi tuyệt đẹp và cặp sừng thật.
“Đến xem con bò đi,” William nói.
Khi họ đi qua cửa quán, Susan thấy một người đàn ông đang nhìn họ, một người da trắng mặc bộ đồ màu muối, áo sơ mi và cà vạt xanh, mặt gầy guộc, rám nắng. Ông ta có mái tóc vàng thẳng đuỗn, mắt xanh biếc, ông ta nhìn theo họ trong lúc họ đi qua.
Hẳn cô sẽ không bao giờ để ý đến ông ta nếu không vì những cái chai đặt quanh khuỷu tay không tì vết của ông ta: một chai rượu bạc hà to, một chai rượu vecmut trong veo, một hũ cô nhắc và bảy chai rượu đủ loại khác, còn ở đầu ngón tay ông ta là mười chiếc chén nhỏ đầy một nửa mà ông ta đưa lên nhấp, trong khi mắt vẫn không rời đường phố, chốc chốc lại nheo, đôi môi mỏng mím lại thưởng thức hương vị rượu. Trong tay kia của ông ta là một điếu xì gà Havana mảnh đang hút dở, và trên một cái ghế là hai mươi gói thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, sáu hộp xì gà, vài lọ nước hoa đóng hộp.
“Bill…” Susan thì thào.
“Cứ bình tĩnh,” anh nói. “Ông ta không đáng ngại đâu.”
“Sáng nay em cũng thấy ông ta ở quảng trường.”
“Đừng nhìn lại, cứ đi tiếp đi. Xem con bò giấy bồi đây này. Đúng thế, đặt câu hỏi đi.”
“Anh nghĩ liệu ông ta có thuộc nhóm Do thám không?”
“Họ không thể bám theo chúng ta được!”
“Có thể chứ!”
“Con bò đẹp quá,” William nói với người chủ.
“Ông ta không thể đi theo chúng ta suốt hai trăm năm được, đúng không?”
“Vì Chúa, em hãy bình tĩnh lại đi,” William nói.
Cô loạng choạng. Anh túm chặt khuỷu tay cô, kéo cô đi.
“Đừng ngất.” Anh mỉm cười để tỏ ra mọi chuyện vẫn ổn. “Em sẽ không sao đâu. Hãy đi thẳng vào quán ấy, uống trước mặt ông ta, để nếu ông ta có đúng là người như chúng ta nghĩ thì ông ta cũng sẽ không nghi ngờ gì.”
“Không, em không thể.”
“Chúng ta phải làm thế. Đi nào. Và thế là anh nói với David, thật là ngớ ngẩn!” Câu cuối này anh nói thật to trong lúc họ bước lên cầu thang vào quán.
Chúng mình đang ở đây, Susan thầm nghĩ. Chúng mình là ai? Chúng mình đang đi đâu đây? Chúng mình sợ gì? Hãy bắt đầu từ đầu, cô tự nhủ, cố bấu víu lấy sự minh mẫn của mình, trong lúc cô cảm nhận nền đất nện dưới chân.
Tên mình là Ann Kristen; chồng mình là Roger. Chúng mình sống ở năm 2155 Công nguyên. Và chúng mình sống trong một thế giới xấu xa. Một thế giới như một con tàu đen sì khổng lồ đang rời xa bến bờ tỉnh táo văn minh, cái còi đen ngòm của nó gầm rú giữa đêm khuya, đem theo hai tỉ người dù họ có muốn hay không, để dẫn họ đến chỗ chết, kéo họ rơi qua rìa trái đất và biển cả để chìm xuống một biển lửa phóng xạ điên rồ.
Họ bước vào quán. Người đàn ông vẫn nhìn họ.
Có tiếng chuông điện thoại.
Tiếng điện thoại làm Susan giật mình. Cô nhớ tiếng điện thoại reo vang hai trăm năm trong tương lai, trong một sáng tháng Tư xanh thẳm vào năm 2155, và chính cô đã nhấc máy:
“Ann, Rene đây! Cậu đã nghe chưa? Về Công ty Du hành Thời gian ấy? Du hành đến Rome năm 21 TCN, đến Waterloo vào thời của Napoleon - bất kỳ thời gian nào, bất kỳ nơi nào!”
“Rene, cậu đùa à.”
“Không. Sáng nay Clinton Smith vừa đến Philadelphia năm 1776. Công ty Du hành Thời gian lo liệu mọi thứ. Tốn tiền phết. Nhưng thử nghĩ xem, được tận mắt chứng kiến trận hỏa hoạn thành Rome, Hốt Tất Liệt, Moses và Biển Đỏ! Chắc trong ống thư của cậu cũng có quảng cáo rồi đấy.”
Cô mở ống hút thư ra, trong đó có một tờ quảng cáo in trên giấy thiếc:
ROME VÀ GIA TỘC BORGIA!
ANH EM NHÀ WRIGHT Ở KITTY HAWK!
Công ly Du hành Thời gian có thể cho bạn phục trang và đặt bạn vào giữa một đám đông để chứng kiến vụ ám sát Lincoln hoặc Caesar! Chúng tôi đảm bảo có thể dạy bạn bất kỳ ngôn ngữ nào bạn cần để tự do đi lại trong bất kỳ nền văn minh nào, vào bất kỳ năm nào, mà không sợ va chạm. Tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, thổ ngữ châu Mỹ cổ xưa. Hãy du lịch trong cả Thời gian lẫn Không gian!
Tiếng Rene oang oang trong điện thoại. “Ngày mai Tom và mình sẽ lên đường đến năm 1492. Họ sẽ sắp xếp cho Tom đi cùng tàu với Columbus. Có tuyệt không chứ!”
“Ừ,” Ann sững sờ nói. “Thế Chính phủ nói sao về cái công ty Máy Thời gian này?”
“À, cảnh sát đã để mắt đến rồi. Họ sợ người ta sẽ trốn quân dịch bằng cách bỏ chạy về Quá khứ. Tất cả mọi người đều phải để lại một hợp đồng ràng buộc, nhà cửa, tài sản, để đảm bảo họ sẽ quay về. Dù sao thì cũng đang có chiến tranh mà.”
“Ừ, chiến tranh,” Ann khẽ nói. “Chiến tranh.”
Khi đứng đó, tay cầm điện thoại, cô đã nghĩ, Đây là cơ hội mà suốt bao năm qua hai vợ chồng mình cứ nói tới hoài, cứ cầu nguyện hoài sao cho có được. Chúng mình không thích cái thế giới của năm 2155 này. Chúng mình muốn chạy trốn khỏi công việc của anh ấy ở nhà máy chế tạo bom, công việc của mình ở đơn vị nuôi cấy mầm bệnh. Có lẽ sẽ có cơ hội cho chúng mình bỏ trốn, chạy hàng thế kỷ đến một đất nước hoang dã vào những năm mà họ không thể tìm thấy, để họ không thể bắt chúng mình quay về, để đốt sách vở của chúng mình, kiểm duyệt suy nghĩ của chúng mình, đun sôi trí óc chúng mình bằng nỗi sợ hãi, bắt chúng mình phải hành quân, quát vào mặt chúng mình bằng điện đàm…
***
Họ đang ở Mexico vào năm 1938.
Cô nhìn lên bức tường ố bẩn của quán.
Những nhân viên ưu tú của Nhà nước Tương lai được phép đi nghỉ trong Quá khứ để tránh kiệt sức. Vậy là hai vợ chồng cô đã chuyển về năm 1938, chuyển tới một căn hộ ở thành phố New York, và thích thú xem các rạp hát cùng tượng nữ thần Tự do màu xanh vẫn còn đứng nguyên vẹn bên bến cảng. Và đến ngày thứ ba thì họ thay quần áo, cải tên đổi họ, bay đến trốn ở Mexico!
“Chắc chắn là ông ta rồi,” Susan thì thầm, nhìn người lạ mặt ngồi bên bàn. “Những điếu thuốc, điếu xì gà, chỗ rượu ấy. Chúng làm ông ta bị lộ. Anh có nhớ đêm đầu tiên của chúng mình trong Quá khứ không?”
Cách đây một tháng, trong đêm đầu tiên ở New York, trước chuyến bay, họ đã uống đủ loại đồ uống kỳ lạ, mua và thưởng thức các thứ đồ ăn khác thường, rồi hàng chục loại nước hoa và thuốc lá hiếm, vì chúng rất khó kiếm trong Tương lai, nơi chiến tranh là tất cả. Vì thế họ đã như hai kẻ ngốc, chạy ra chạy vào các cửa hàng, tiệm rượu, tiệm bán thuốc lá, rồi trở về phòng để nhồi nhét đến bội thực.
Và giờ người lạ mặt này cũng đang làm như vậy, một việc mà chỉ có người đến từ Tương Lai mới làm, vì phải sống thiếu rượu và thuốc lá suốt bao nhiêu năm.
Susan và William ngồi xuống gọi đồ uống.
Người lạ mặt nọ đang nhìn kỹ quần áo, đầu tóc, trang sức của họ - cách họ đi và ngồi.
“Ngồi thoải mái,” William khẽ nói. “Nhìn như em đã mặc kiểu quần áo này cả đời vậy.”
“Lẽ ra chúng ta không nên tìm cách bỏ trốn.”
“Chúa ơi!” William kêu lên, “ông ta đang đến kìa. Để anh nói chuyện cho.”
Người lạ mặt cúi chào họ. Hai gót giày của ông ta khẽ đập vào nhau. Susan điếng người. Cái âm thanh nhà binh ấy! - không lẫn vào đâu được, cũng như tiếng gõ rọn người trên cửa phòng ta lúc nửa đêm.
“Anh Roger Kristen,” người lạ mặt nói, “anh không kéo ống quần lên khi ngồi xuống.”
William đờ người ra. Anh nhìn hai bàn tay mình đang ngây thơ nằm trên đùi. Tim Susan đập mạnh.
“Ông nhầm người rồi,” William vội nói. “Tên tôi không phải là Krisler.”
“Kristen,” người lạ mặt sửa lại.
“Tôi là William Travis,” William nói. “Và tôi không hiểu ống quần của tôi thì có liên quan gì đến ông!”
“Xin lỗi.” Người lạ mặt kéo một cái ghế đến gần. “Cứ cho là tôi đã tưởng tôi nhận ra anh vì anh không kéo quần lên. Tất cả mọi người đều làm thế. Nếu không, quần sẽ nhanh chóng bị chùng xuống. Tôi đang ở cách nhà rất xa, anh… Travis ạ, và đang cần có bạn. Tên tôi là Simms.”
“Ông Simms à, chúng tôi thông cảm với nỗi cô đơn của ông, nhưng chúng tôi mệt rồi. Ngày mai chúng tôi sẽ lên đường đến Acapulco.”
“Một nơi rất thú vị. Tôi vừa mới ở đó, tìm kiếm mấy người bạn của tôi. Họ đang ở đâu đó thôi. Rồi tôi sẽ tìm ra họ. Ô, hình như chị nhà hơi khó ở?”
“Chúc buổi tối tốt lành, ông Simms.”
Họ bước ra cửa, William ôm chặt cánh tay Susan. Họ không quay lại khi ông Simms gọi với, “À, còn một việc nữa.” Ông ta ngừng lại và chậm rãi thốt ra mấy từ:
“2155 CN.”
Susan nhắm nghiền mắt và cảm thấy mặt đất chao đảo dưới chân. Cô bước tiếp vào quảng trường rực lửa mà không nhìn thấy gì.
Họ khóa chặt cửa buồng khách sạn. Rồi cô òa khóc và họ đứng đó trong bóng tối, trong khi căn buồng tròng trành dưới chân. Xa xa, pháo vẫn nổ, và trên quảng trường vang tiếng cười.
“Thật trơ tráo quá lắm,” William nói. “Lão ta ngồi đó, nhìn chúng ta từ đầu đến chân như thú vật, hút mấy điếu thuốc chết tiệt của lão, nốc rượu. Lẽ ra lúc đó anh nên giết quách lão đi cho rồi!” Giọng anh gần như điên cuồng. “Lão còn dám dùng tên thật với chúng ta nữa chứ. Trưởng nhóm Do thám. Lại còn cái vụ ống quần của anh nữa. Chúa ơi, lẽ ra anh phải kéo ống quần lên khi ngồi xuống mới đúng. Ở thời này đó là cử chỉ tự động của người ta. Khi anh không làm vậy, anh trở nên khác thường; nó khiến lão ta nghĩ, Người này chưa bao giờ mặc quần tây, người này chỉ quen với những đồng phục quần ống túm và thời trang của tương lai thôi. Chẳng thà anh tự vẫn cho rồi vì đã làm chúng ta bị lộ!”
“Không, không, chúng ta bị lộ là vì bước đi của em, vì đôi giày cao gót này đây. Đầu tóc chúng ta nữa, cắt quá mới, quá khác. Mọi thứ ở chúng ta đều khác lạ, đều lúng túng vụng về.”
Anh bật đèn lên. “Lão vẫn đang thử chúng ta. Lão chưa chắc chắn về chúng ta - chưa chắc hoàn toàn. Nếu chắc thì chúng ta đã không thể chạy trốn lão được. Chúng ta không thể để lão biết chắc. Chúng ta sẽ đến Acapulco một cách thật thư thái.”
“Có khi lão đã chắc chắn về chúng ta rồi nhưng chỉ đang đùa giỡn thì sao.”
“Anh nghĩ lão có thể làm thế lắm. Lão có hàng bao nhiêu thời gian mà. Lão có thể nấn ná ở đây nếu muốn, và vẫn đưa chúng ta về thời Tương lai chỉ sáu mươi giây sau khi chúng ta rời đi. Lão có thể bắt chúng ta phải lo lắng suốt nhiều ngày trời, trong lúc lão cười giễu chúng ta.”
Susan ngồi trên giường, lau nước mắt, ngửi mùi than và mùi hương trầm.
“Họ sẽ không làm lớn chuyện, đúng không?”
“Họ không dám đâu. Họ phải bắt chúng ta một mình thì mới có thể nhét chúng ta vào Máy Thời gian và đưa chúng ta về được.”
“Vậy thì có cách giải quyết rồi,” cô nói. “Chúng ta sẽ không bao giờ ở một mình; chúng ta sẽ luôn ở giữa đám đông. Chúng ta sẽ kết bạn với hàng triệu người, đến thăm các khu chợ, ngủ trong Tòa Thị chính của mỗi thành phố, trả tiền cho cảnh sát trưởng để họ canh gác cho chúng ta tới khi chúng ta tìm được cách giết Simms và trốn thoát, cải trang bằng quần áo mới, có lẽ là giả làm người Mexico luôn.”
Có tiếng bước chân ngoài cửa buồng khóa chặt.
Họ tắt đèn và cởi quần áo trong im lặng. Tiếng bước chân xa dần. Một cánh cửa đóng lại.
Susan đứng bên cửa sổ nhìn xuống quảng trường chìm trong bóng tối. “Thế ra tòa nhà kia là nhà thờ?”
“Phải.”
“Em vẫn thường tự hỏi nhà thờ nhìn như thế nào. Đã lâu lắm rồi không ai còn nhìn thấy nhà thờ nữa. Ngày mai chúng ta tới thăm nơi đó được không?”
“Tất nhiên rồi. Lên giường đi.”
Họ nằm trong căn buồng tối om.
Nửa giờ sau điện thoại của họ reo. Cô nhấc ống nghe lên.
“A lô?”
“Bầy thỏ có thể trốn trong rừng,” một giọng nói vang lên, “nhưng con cáo sẽ vẫn luôn tìm ra chúng.”
Cô cúp máy và nằm thẳng đuỗn, lạnh cóng trên giường.
Bên ngoài, vào năm 1938, một người đàn ông chơi ba điệu nhạc trên đàn ghi ta; điệu này nối tiếp điệu kia.
Trong đêm cô chìa tay ra và suýt nữa đã chạm được vào năm 2155. Cô cảm thấy những ngón tay mình lướt trên khoảng cách mát lạnh của thời gian, như trên một bề mặt gọn sóng, và cô nghe thấy tiếng rầm rập không ngừng của những bàn chân đang hành quân, tiếng hàng triệu dàn nhạc đang chơi hàng triệu khúc quân hành, và cô nhìn thấy năm mươi ngàn giá đựng mẫu mầm bệnh nằm trong những ống nghiệm vô trùng, tay cô với về phía chúng trong cái nhà máy khổng lồ ở Tương lai nơi cô làm việc; những ống nghiệm chứa bệnh phong, dịch hạch, thương hàn, lao, rồi một vụ nổ lớn. Cô nhìn thấy tay mình bị thiêu rụi thành một quả mận nhăn nhúm, cảm thấy tay mình rụt lại vì một chấn động lớn tới mức cả thế giới như bị nhấc lên rồi ném xuống, và tất cả nhà cửa tan tành, người dân đổ máu nằm bất động. Những núi lửa, máy móc, gió và những trận lở tuyết khổng lồ chìm vào im lặng, rồi cô bật dậy, khóc nức nở trên giường, ở Mexico, cách đó bao nhiêu năm…
Sáng sớm hôm sau, đờ đẫn vì chỉ ngủ được một giờ, họ thức giấc giữa tiếng động cơ ô tô ầm ĩ trên phố. Susan đứng trên ban công sắt nhìn xuống một nhóm nhỏ gồm tám người đang từ trong những xe tải và ô tô kẻ chữ đỏ vừa bước ra vừa nói chuyện và quát tháo. Một đám đông người Mexico đã đi theo đoàn xe tải.
“Qué pasa? (Có chuyện gì thế?)” Susan gọi một chú bé.
Chú bé trả lời.
Susan quay lại nói với chồng. “Một đoàn làm phim người Mỹ đến đây quay phim tại hiện trường.”
“Nghe thú vị đấy.” William đang tắm. “Đi xem họ đi. Anh nghĩ hôm nay chúng ta không nên rời đi. Chúng ta nên thử án binh bất động với Simms xem sao. Đến xem họ quay phim. Người ta nói cách làm phim thời sơ khai rất đặc biệt. Nó sẽ giúp chúng ta quên đi chính mình.”
Chính mình, Susan thầm nghĩ. Trong thoáng chốc, dưới ánh mặt trời rực rỡ, cô đã quên mất rằng đâu đó trong khách sạn này là một người đàn ông vừa hút đến cả ngàn điếu thuốc vừa rình rập. Cô nhìn tám người Mỹ to mồm vui vẻ bên dưới và những muốn hét lên với họ, “Cứu tôi, giấu tôi đi, giúp tôi với! Nhuộm tóc cho tôi, đổi màu mắt tôi; cho tôi mặc những quần áo kỳ lạ. Tôi cần các bạn giúp. Tôi đến từ năm 2155!”
Song những lời ấy kẹt lại trong họng cô. Các công chức của Công ty Du hành Thời gian không ngốc chút nào. Trước khi bạn bắt đầu chuyến đi, họ sẽ đặt một vật cản tâm lý vào não bạn. Bạn sẽ không thể cho ai biết về Thời gian hoặc nơi chốn xuất thân của mình, và bạn cũng không thể tiết lộ Tương lai với những người trong Quá khứ. Quá khứ và Tương lai phải được bảo vệ khỏi nhau. Chỉ khi mang vật cản tâm lý này ở trong mình, người ta mới được phép du hành qua các Thời kỳ mà không phải bị ai canh gác. Tương lai phải được bảo vệ khỏi những thay đổi có thể xảy ra khi con người du hành về Quá khứ. Dù thâm tâm rất muốn, cô cũng không thể kể với những người vui vẻ dưới quảng trường kia rằng mình là ai hay nỗi khó của cô là gì.
“Ăn sáng nhé?” William nói.
Bữa sáng được phục vụ trong phòng ăn rộng mênh mông. Tất cả đều ăn giăm bông với trứng. Cả phòng đầy khách du lịch. Đoàn làm phim tiến vào, cả tám người - sáu đàn ông và hai phụ nữ vừa cười khúc khích vừa đẩy ghế. Và Susan ngồi cạnh họ, cảm nhận hơi ấm và sự an toàn mà họ đem lại, ngay cả khi Simms đi xuống cầu thang ngoài tiền sảnh, vừa đi vừa rít điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta gật đầu với họ từ đằng xa, và Susan mỉm cười gật đầu đáp lại, vì ông ta không thể làm gì họ ở đây, trước mặt đoàn làm phim tám người và hai mươi khách du lịch khác.
“Đám diễn viên kia,” William nói. “Có lẽ anh có thể thuê hai người trong số họ, nói đây là một trò chơi khăm, rồi cho họ mặc quần áo của chúng ta và bảo họ lái xe của ta đi trong khi Simms đang đứng ở chỗ không thể thấy mặt họ. Nếu hai người giả dạng chúng ta có thể đánh lạc hướng lão trong vòng vài tiếng thì chúng ta có thể lánh đến thành phố Mexico. Lão sẽ mất hàng năm trời để tìm chúng ta ở đó!”
“Này!”
Một người đàn ông béo phị, hơi thở nồng mùi rượu, chồm tới trên bàn họ. “Khách du lịch người Mỹ!” ông ta reo lên. “Tôi phát ngấy vì phải nhìn người Mexico đến nỗi sẵn sàng hôn hai bạn!” Ông ta bắt tay họ. “Nào, lại đây ăn với chúng tôi. Khổ sở thì luôn thích có bầu bạn mà. Tôi là Khổ Sở, đây là cô Rầu Rĩ, còn kia là anh chị Chúng-Tôi-Ghét-Mexico! Chúng tôi đều ghét xứ này. Nhưng chúng tôi phải đến đây để quay thử mấy cảnh cho cái phim chết giẫm này. Các thành viên còn lại trong đoàn sẽ đến vào ngày mai. Tôi là Joe Melton. Tôi là đạo diễn. Và cái đất nước này đúng là địa ngục! Trên phố toàn đám ma, người chết như ngả rạ. Nào, sang đi. Ngồi cùng chúng tôi cho vui!”
Susan và William đều cười lớn.
“Tôi hóm hỉnh lắm à?” Melton hỏi những bàn xung quanh.
“Tuyệt vời!” Susan chuyển sang bàn bên cạnh.
Simms đang trừng mắt nhìn họ từ bên kia phòng ăn. Cô nhăn mặt với ông ta.
Simms tiến đến qua dãy bàn.
“Anh chị Travis,” ông ta gọi. “Tôi tưởng chúng ta sẽ cùng nhau ăn sáng một mình cơ mà.”
“Xin lỗi,” William nói.
“Ngồi đi, ông bạn,” Melton nói. “Bạn của họ cũng là bạn của tôi.”
Simms ngồi xuống. Đoàn làm phim nói chuyện oang oang, và trong lúc họ nói chuyện, Simms khẽ nói, “Tôi hy vọng anh chị ngủ ngon.”
“Còn ông thì sao?”
“Tôi không quen nằm đệm lò xo,” Simms nói vẻ giễu cợt. “Nhưng có nhiều điều để bù lại. Tôi thức đến nửa đêm để thử các loại thuốc lá và thức ăn mới. Thật lạ lùng, thật kỳ diệu. Cả một loạt những cảm giác mới, nhờ có những thói xấu cổ xưa này.”
“Chúng tôi không hiểu ông đang nói gì,” Susan nói.
“Lúc nào cũng giả vờ.” Simms bật cười. “Không ích gì đâu. Cả cái mưu mẹo về đám đông này cũng thế. Rồi tôi sẽ bắt được hai người một mình thôi. Tôi kiên nhẫn hết sức mà.”
“Này,” Melton xen vào, mặt đỏ lựng, “người này đang làm phiền anh chị à?”
“Không sao đâu.”
“Chỉ cần anh chị nói là tôi tống khứ ông ta liền.”
Melton quay lại hét lên với các cộng sự của mình. Giữa tiếng cười, Simms nói tiếp, “Chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề nhé. Tôi đã mất một tháng lần theo dấu vết hai người suốt các thành phố và thị trấn mới tìm ra hai người, và mất cả ngày hôm qua thì mới biết chắc được. Nếu hai người chịu yên lặng đi theo tôi, tôi có thể giúp hai người thoát tội, nếu anh đồng ý quay về để làm việc với quả bom hyđrô cộng.”
“Đang bữa sáng mà ông ta lại nói chuyện khoa học à!” Melton nhận xét, chỉ nghe được chữ được chữ mất.
Simms nói tiếp, không hề nao núng, “Cứ suy nghĩ đi. Hai người không thể trốn thoát đâu. Nếu hai người giết tôi, vẫn còn nhiều người khác sẽ đi theo.”
“Chúng tôi không hiểu ông đang nói gì.”
“Thôi đi!” Simms bực tức kêu lên. “Hãy động não đi! Hai người biết chúng tôi không thể để các người trốn thoát được. Những người khác trong năm 2155 có thể cũng nảy ra ý tưởng tương tự và làm theo. Chúng tôi đang thiếu người.”
“Người để chiến đấu trong cuộc chiến của các người,” cuối cùng William cũng thốt lên.
“Bill!”
“Không sao đâu, Susan, giờ chúng ta sẽ nói chuyện theo điều kiện của ông ta. Chúng ta không thể chạy trốn.”
“Tuyệt,” Simms nói. “Quả thực là hai người đã lãng mạn hết sức khi chạy trốn khỏi trách nhiệm của mình.”
“Chạy trốn khỏi nỗi kinh hoàng.”
“Vớ vẩn. Chỉ là một cuộc chiến thôi mà.”
“Mấy người đang nói gì vậy?” Melton hỏi.
Susan muốn cho ông ta biết. Nhưng ta chỉ có thể nói chung chung. Vật cản tâm lý trong não chỉ cho phép như vậy. Những điều chung chung như Simms và William giờ đang nói.
“Chỉ là một cuộc chiến,” William nói. “Cả nửa thế giới đã chết vì bom bệnh phong!”
“Dù thế,” Simms khẳng định, “người dân Tương lai hận hai người vì trốn ở một hòn đảo nhiệt đới như thế này, trong khi họ tuột khỏi vách đá rơi xuống địa ngục. Thần Chết chỉ yêu cái chết chứ không yêu sự sống. Người hấp hối muốn biết những người khác cũng chết cùng mình. Họ thấy được an ủi khi biết mình không đơn độc trong lò nung, trong nấm mồ. Tôi là người giám hộ cho lòng hận thù chung của họ dành cho hai người.”
“Nhìn người giám hộ của lòng hận thù này!” Melton nói với các cộng sự của mình.
“Hai người càng bắt tôi chờ đợi lâu thì mọi chuyện sẽ càng khó khăn hơn thôi. Chúng tôi cần anh làm việc trong dự án bom, anh Travis. Hãy quay về ngay bây giờ - hai người sẽ không bị tra tấn. Nếu quay về sau, chúng tôi sẽ vẫn bắt anh làm việc, và sau khi anh đã hoàn thành quả bom, chúng tôi sẽ thử một số thiết bị phức tạp mới với chính anh đấy.”
“Tôi có một đề nghị thế này,” William nói. “Tôi sẽ quay về với ông nếu vợ tôi được ở lại đây, an toàn, tránh xa cuộc chiến đó.”
Simms cân nhắc. “Được thôi. Mười phút nữa gặp tôi dưới quảng trường. Hãy đón tôi bằng xe của anh.
Chở tôi tới một địa điểm không người ở vùng quê. Tôi sẽ cho Máy Thời gian đón chúng ta ở đó.”
“Bill!” Susan túm chặt tay anh.
“Đừng tranh luận nữa.” Anh nhìn sang cô. “Đã xong rồi.” Anh nói với Simms, “Còn một việc. Tối qua ông có thể vào phòng chúng tôi và bắt cóc chúng tôi. Tại sao ông không làm thế?”
“Có thể nói là tôi đang tận hưởng quãng Thời gian này được không?” Simms uể oải nói, rít điếu xì gà mới. “Tôi ghét phải từ bỏ bầu không khí tuyệt vời này, vầng mặt trời này, kỳ nghỉ này. Tôi tiếc khi phải bỏ lại chỗ rượu và thuốc lá. Ôi chao, tôi tiếc lắm. Vậy mười phút nữa ta gặp nhau ở quảng trường nhé. Vợ anh sẽ được bảo vệ và có thể ở lại bao lâu tùy ý. Hai người tạm biệt nhau đi.”
Simms đứng lên đi ra.
“Ngài Lắm Mồm đi rồi!” Melton hét với theo người đàn ông đang đi khỏi. Ông ta quay lại nhìn Susan. “Kìa. Ai đang khóc kìa. Bữa sáng đâu phải là lúc để khóc. Đúng không nào?”
Lúc chín giờ mười lăm, Susan đứng trên ban công buồng, nhìn xuống quảng trường. Simms đang ngồi ở đó, đôi chân gọn gàng bắt tréo, trên một cái ghế băng bằng đồng mảnh dẻ. Ông ta cắn đầu một điếu xì gà và nhẹ nhàng châm lửa.
Susan nghe thấy tiếng động cơ xe nổ xình xịch, rồi thì, xa tít trên đầu phố, đang tiến ra khỏi ga ra và chầm chậm di chuyển xuôi ngọn đồi đá cuội, là William ngồi trong chiếc ô tô.
Chiếc xe đi nhanh dần. Năm mươi, sáu mươi lăm, rồi tám mươi cây số giờ. Gà qué chạy tan tác trước mũi xe.
Simms cởi chiếc mũ rộng vành trắng ra lau vầng trán đỏ ửng rồi lại đội mũ vào, và khi đó ông ta mới thấy chiếc xe.
Nó đang lao đi với tốc độ hơn chín mươi cây số giờ, xông thẳng vào quảng trường.
“William!” Susan thét lên.
Chiếc xe đâm vào vỉa hè thấp trên quảng trường đánh rầm một cái; nó nhảy bật lên, lao qua lớp gạch lát về phía chiếc ghế đồng xanh nơi Simms thả rơi điếu xì gà, thét lên, tay vung loạn xạ, và rồi bị đâm trúng. Thân mình ông ta bắn tung lên không trung rồi rơi xuống mặt đường, nom thật quái dị.
Ở phía bên kia quảng trường, với một bánh xe bị hỏng, chiếc ô tô dừng lại. Mọi người đổ xô đến.
Susan đi vào và đóng cửa ban công lại.
Họ cùng nhau đi xuống bậc thang ở Tòa Thị chính, tay trong tay, mặt tái mét, vào lúc mười hai giờ trưa.
“Adiós, señor,” thị trưởng nói sau lưng họ. “Señora.”
Họ đứng trên quảng trường nơi đám đông đang chỉ trỏ vũng máu.
“Liệu họ có muốn gặp anh nữa không?” Susan hỏi.
“Không, anh đã nói đi nói lại rồi. Đó là một tai nạn. Anh bị mất lái. Anh đã khóc trước mặt họ. Có Chúa biết, anh cũng phải giải tỏa bằng cách nào đó chứ. Anh muốn khóc. Anh ghét chuyện phải giết ông ta. Cả đời anh chưa bao giờ muốn làm điều gì tương tự.”
“Họ sẽ không buộc tội anh chứ?”
“Họ có nói đến chuyện đó, nhưng không. Anh nói nhanh hơn. Họ tin anh. Đó là một tai nạn. Mọi chuyện qua rồi.”
“Chúng ta sẽ đi đâu đây? Thành phố Mexico? Uruapan?”
“Cái xe đang ở tiệm sửa chữa. Đến bốn giờ chiều nay sẽ xong. Rồi chúng ta sẽ biến khỏi nơi này.”
“Liệu họ có bám theo chúng ta không? Simms chỉ làm việc một mình thôi sao?”
“Anh không biết. Chúng ta sẽ đi trước họ chút ít, anh nghĩ vậy.”
Đoàn làm phim đang ra khỏi khách sạn. Melton chạy đến bên họ, trán cau lại. “Này, tôi vừa nghe chuyện. Tệ quá. Tất cả ổn rồi chứ? Anh chị có muốn khuây khỏa không? Chúng tôi sắp quay thử trên phố. Nếu muốn xem thì anh chị cứ tự nhiên. Đi nào, sẽ tốt cho anh chị đấy.”
Họ đi theo ông ta.
Họ đứng trên con phố rải sỏi trong khi người ta xếp đặt máy quay. Susan nhìn con đường dẫn từ trên đồi xuống ra khỏi thị trấn, và đường cao tốc đi về phía Acapulco và biển, đi qua những kim tự tháp, những tàn tích và những thị trấn nhỏ toàn nhà đất nện với những bức tường vàng, xanh, tím và những cây hoa giấy rực lửa, và cô thầm nghĩ, Chúng mình sẽ đi theo những con đường ấy, đi theo nhóm, theo hội, đi vào những khu chợ, những tiền sảnh, đút tiền cho cảnh sát để họ ngủ gần bên, khóa cửa bằng khóa đôi, nhưng luôn ở giữa đám đông, không bao giờ ở một mình, luôn luôn sợ rằng người tiếp theo đi qua sẽ là một lão Simms nữa. Không bao giờ biết liệu chúng mình đã đánh lừa được nhóm Do thám và thoát khỏi họ chưa. Và trong Tương lai, họ sẽ không ngừng đợi chúng mình bị dẫn về, chờ đợi với những quả bom để đốt chúng mình, bệnh tật để làm chúng mình mục rữa, cảnh sát để ra lệnh cho chúng mình lăn tròn, quay lại, nhảy qua vòng! Vì vậy chúng mình sẽ cứ tiếp tục chạy trốn qua khu rừng, và cả đời chúng mình sẽ không bao giờ dừng lại hoặc ngủ một đêm ngon giấc nữa.
Một đám đông tập trung lại xem quay phim. Và Susan quan sát đám đông cùng những con phố.
“Có thấy ai đáng nghi không?”
“Không. Mấy giờ rồi?”
“Ba giờ. Chắc xe sửa sắp xong rồi.”
Đến ba giờ bốn mươi lăm phút thì đoạn phim thử được quay xong. Họ cùng đi về khách sạn, vừa đi vừa trò chuyện. William ghé qua ga ra. “Phải đến sáu giờ mới sửa xong xe kia,” anh nói khi đi ra, vẻ lo lắng.
“Nhưng không muộn hơn chứ?”
“Sẽ xong thôi, em đừng lo.”
Trong tiền sảnh, họ nhìn quanh, tìm kiếm những người đàn ông đi một mình, những người nhìn giống Simms, với mái tóc mới cắt, người nồng nặc mùi thuốc lá và nước hoa, nhưng tiền sảnh không có ai. Melton đi lên cầu thang và nói, “Đúng là một ngày vừa dài vừa vất vả. Ai muốn làm tí rượu cho tỉnh người nào? Anh chị thì sao? Martini? Bia?”
“Có lẽ một ly thôi.”
Cả đoàn chen vào buồng của Melton và bắt đầu cuộc chè chén.
“Để ý Thời gian nhé,” William nói.
Thời gian, Susan thầm nghĩ. Giá mà họ có Thời gian. Cô chỉ muốn được ngồi ở quảng trường suốt một ngày tháng Mười dài rực nắng, không chút lo lắng hay suy tư, mặt trời rọi xuống mặt và cánh tay mình, mắt nhắm lại, mỉm cười dưới hơi ấm, và không phải nhúc nhích. Cứ thế thiếp đi dưới vầng mặt trời Mexico, một giấc ngủ ấm áp, dễ dàng, uể oải và sung sướng suốt thật nhiều, thật nhiều ngày…
Melton mở chai sâm banh.
“Nâng cốc vì một cô nương hết sức xinh đẹp, đủ đẹp để lên phim,” ông ta nói, hướng về phía Susan. “Có khi tôi sẽ quay thử chị đấy.”
Cô bật cười.
“Tôi nói thật mà,” Melton nói. “Chị rất đẹp. Tôi có thể biến chị thành một minh tinh.”
“Và đưa tôi đến Hollywood ư?” Susan kêu lên.
“Biến khỏi Mexico này, chắc chắn rồi!”
Susan liếc nhìn William, anh liền nhướng một bên mày rồi gật đầu. Việc đó sẽ cho họ thay đổi không khí, quần áo, địa điểm, có lẽ cả họ tên nữa; và họ sẽ đi cùng tám người khác, một tấm khiên chắn tốt trước bất kỳ sự can thiệp nào từ Tương lai.
“Nghe tuyệt lắm,” Susan nói.
Cô đang ngà ngà say sâm banh. Buổi chiều đang trôi qua; bữa tiệc quay tít xung quanh cô. Cô cảm thấy an toàn, tốt lành, đầy sức sống và thật sự hạnh phúc lần đầu tiên trong suốt bao nhiêu năm.
“Vợ tôi có thể đóng được kiểu phim nào?” William hỏi, tự rót rượu vào ly của mình.
Melton ngắm Susan. Những người còn lại ngừng cười nói và lắng nghe.
“Tôi thích làm phim ly kỳ hồi hộp,” Melton nói. “Một câu chuyện về một cặp vợ chồng, như hai người vậy.”
“Ông nói tiếp đi.”
“Có lẽ là một câu chuyện Thời chiến,” nhà đạo diễn nói, ngắm màu ly rượu của ông ta dưới ánh mặt trời.
Susan và William chờ đợi.
“Câu chuyện kể về hai vợ chồng sống trong một căn nhà nhỏ trên một con phố nhỏ trong năm 2155, có lẽ vậy,” Melton nói. “Tôi chỉ đang ứng tác thôi nhé. Nhưng hai vợ chồng này phải đối mặt với một cuộc chiến khủng khiếp, những quả bom hyđrô cực mạnh, kiểm duyệt, chết chóc, và - cái hay của câu chuyện là ở đây này - họ chạy trốn vào Quá khứ, và bị một người mà họ nghĩ là xấu xa một mực bám theo, nhưng chỉ là ông ta đang cố cho họ thấy bổn phận của họ là gì thôi.”
William buông rơi chiếc ly xuống sàn.
Melton nói tiếp, “Và đôi vợ chồng này lánh nạn cùng một đoàn làm phim mà họ đã tin tưởng. Càng đông càng an toàn, họ tự nhủ như vậy.”
Susan cảm thấy mình khuỵu xuống một cái ghế. Tất cả mọi người đang dồn mắt vào nhà đạo diễn. Ông ta nhấm một ngụm rượu vang. “Chà, vang ngon thật. Thế đấy, đôi vợ chồng này hình như không nhận ra họ quan trọng đến mức nào đối với Tương lai. Đặc biệt là người chồng, anh ta là chìa khóa cho một thứ kim loại làm bom mới. Vậy là nhóm Do thám, tạm gọi là như vậy, đã không tiếc tiền của và vất vả để tìm bắt đôi vợ chồng này dẫn về nhà, một khi họ chỉ có một mình, trong một buồng khách sạn, nơi không ai có thể nhìn thấy. Mưu mẹo đấy. Những người Do thám làm việc một mình, hoặc đi theo nhóm tám người. Cách này hay cách kia rồi cũng sẽ thành công. Chị có nghĩ đó sẽ là một bộ phim tuyệt vời không, Susan? Anh thì sao, Bill?” Ông ta uống cạn ly rượu.
Susan ngồi nhìn thẳng về phía trước.
“Làm một ly nhé?” Melton hỏi.
William rút súng ra nổ ba phát, và một người đàn ông gục xuống, những người khác lao tới trước. Susan thét lên. Một bàn tay bịt miệng cô. Khẩu súng rơi xuống sàn, William giãy giụa nhưng đã bị giữ chặt.
Melton nói, “Xin hai người,” vẫn đứng nguyên tại chỗ, trên tay vấy máu. “Đừng làm mọi chuyện tệ hơn nữa.”
Ai đó đấm lên cửa ngoài hành lang.
“Cho tôi vào!”
“Viên quản lý đấy,” Melton nói cộc lốc. Ông ta hất đầu. “Mọi người, đi thôi!”
“Cho tôi vào! Tôi sẽ gọi cảnh sát!”
Susan và William nhìn nhau thật nhanh, rồi nhìn ra cửa.
“Viên quản lý muốn vào,” Melton nói. “Nhanh lên!”
Một chiếc máy quay được đem ra. Từ đó phóng ra một tia sáng xanh bao phủ cả căn phòng trong nháy mắt. Tia sáng tỏa rộng ra và mọi người trong bữa tiệc biến mất, từng người một.
“Nhanh lên!”
Ngoài cửa sổ, trong khoảnh khắc trước khi cô biến mất, Susan nhìn thấy mặt đất xanh tươi, thấy những bức tường tím, vàng, xanh, đỏ, thấy con đường rải cuội uốn lượn như một dòng sông, một người đàn ông cưỡi lừa đi về phía rặng đồi nóng ấm, một chú bé uống soda cam, cô có thể cảm thấy thứ nước ngọt lịm đó trong họng, một người đàn ông đứng dưới bóng cây dưới quảng trường với cây đàn ghi ta, cô có thể cảm thấy tay mình trên những sợi dây đàn, và xa tít là mặt biển, mặt biển xanh êm ả, cô có thể cảm thấy biển cuốn cô đi và đón nhận cô vào lòng.
Rồi cô biến mất. Chồng cô cũng biến mất.
Cửa buồng bật mở. Viên quản lý và nhân viên của ông lao vào.
Căn buồng trống trơn.
“Nhưng họ vừa mới ở đây mà! Tôi đã thấy họ đi vào, thế mà giờ thì biến mất rồi!” viên quản lý kêu lên. “Cửa sổ có chấn song sắt. Họ không thể chui ra đường đó được!”
Đến cuối chiều hôm đó linh mục được mời đến và họ lại mở cửa buồng cho thoáng khí, rồi mời linh mục vẩy nước thánh vào tất cả các góc nhà và ban phép cho căn buồng.
“Chúng tôi phải làm gì với những thứ này đây?” bà lao công nói.
Bà chỉ vào tủ, nơi có 67 chai rượu sactorơ, cô nhắc, rượu sô cô la, rượu ngải, rượu vecmut, rượu tequila, 106 hộp thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ và 198 hộp xì gà Havana nguyên chất năm mươi phần trăm màu vàng…