Chương 13 VỊ KHÁCH
Saul Williams thức giấc trong buổi sáng tĩnh lặng. Anh mệt mỏi nhìn ra ngoài lều và nghĩ xem Trái đất đang ở cách bao xa. Hàng triệu cây số, anh thầm nghĩ. Nhưng biết làm sao được? Phổi anh đầy “gỉ máu”. Anh ho không ngừng.
Sáng nay Saul thức giấc lúc bảy giờ. Anh là một người cao, mảnh khảnh, gầy còm vì bệnh tật. Đó là một buổi sáng yên tĩnh trên sao Hỏa, biển chết phẳng lì im lặng - không một hơi gió. Mặt trời sáng trong và lạnh lẽo trên bầu trời trống rỗng. Anh rửa mặt rồi ăn sáng.
Sau đó anh hết sức muốn được quay về Trái đất. Suốt ngày anh cố thử đủ mọi cách để có thể quay về thành phố New York. Đôi khi, nếu anh ngồi đúng tư thế và giơ tay ra đúng cách, thì anh làm được. Anh gần như có thể ngửi thấy mùi New York. Nhưng phần lớn Thời gian thì không thể.
Đến gần trưa thì Saul tìm cách chết. Anh nằm ra trên cát và bắt tim mình dừng lại. Nhưng nó vẫn tiếp tục đập. Anh tưởng tượng ra mình nhảy từ trên vực xuống hay rạch cổ tay, nhưng rồi lại cười một mình - anh biết anh không đủ dũng cảm để thực hiện bất kỳ hành động nào như thế.
Có lẽ nếu mình nhắm mắt thật chặt và cứ nghĩ về nó đủ lâu, mình sẽ ngủ và không bao giờ tỉnh dậy nữa, anh tự nhủ. Anh thử xem. Một tiếng sau anh thức dậy, miệng đầy máu. Anh ngồi dậy nhổ máu ra, rồi thấy thương thân vô cùng. Cái thứ gỉ máu này, nó tràn đầy miệng mũi ta; nó chảy ra từ tai và móng tay ta; và phải mất một năm nó mới giết ta. Cách chữa duy nhất là đẩy ta lên phi thuyền đày ta đi sao Hỏa. Trên Trái đất không có cách chữa, ai ở lại đó sẽ làm lây bệnh và giết những người khác. Thế là anh ở đây, chảy máu suốt ngày, và cô đơn.
Mắt Saul nheo lại. Ở đằng xa, bên tàn tích của một thành phố cổ xưa, anh thấy một người khác đang nằm trên một tấm chăn cáu bẩn.
Khi Saul lại gần, người đàn ông nằm trên chăn yếu ớt cựa quậy.
“Chào anh, Saul,” anh ta nói.
“Lại một buổi sáng nữa,” Saul nói. “Chúa ơi, tôi cô đơn quá!”
“Đó là nỗi khổ của những người bị bệnh gỉ,” người nằm trên chăn nói, không nhúc nhích, cả người tái nhợt, như thể nếu ta chạm vào là anh ta sẽ biến mất.
“Tôi thầm mong với Chúa là ít ra anh cũng có thể trò chuyện được,” Saul nói, nhìn xuống người đàn ông nọ. “Tại sao người trí thức lại không bao giờ mắc bệnh gỉ máu và phải lên đây nhỉ?”
“Đó là âm mưu chống lại anh, Saul ạ,” người đàn ông nói, nhắm mắt lại, mệt đến độ không còn sức giữ cho mắt mở. “Có thời tôi còn đủ sức để làm người trí thức. Giờ thì chỉ suy nghĩ thôi cũng đủ mệt rồi.”
“Giá mà chúng ta có thể trò chuyện,” Saul Williams nói.
Người kia chỉ hờ hững nhún vai.
“Ngày mai quay lại. Có lẽ khi đó tôi sẽ đủ sức bàn luận về Aristotle. Tôi sẽ cố. Thật đấy.” Người kia gục xuống dưới gốc cây mòn mỏi. Anh ta mở một bên mắt ra. “Nhớ không, chúng ta đã từng bàn về Aristotle một lần, cách đây sáu tháng, vào cái hôm tôi thấy khỏe ấy.”
“Tôi nhớ chứ,” Saul đáp, nhưng không để tai nghe. Anh nhìn mặt biển cạn. “Ước gì tôi ốm nặng như anh, có lẽ khi đó tôi sẽ không phải lo về chuyện làm người trí thức nữa. Có lẽ khi đó tôi sẽ được yên tĩnh một chút.”
“Khoảng sáu tháng nữa là anh cũng sẽ nặng như tôi thôi,” người đàn ông đang hấp hối nói. “Khi đó anh sẽ không quan tâm tới bất kỳ cái gì khác ngoài ngủ và ngủ thêm nữa. Giấc ngủ đối với anh sẽ như một mỹ nhân. Anh sẽ luôn quay lại với nàng, vì nàng tươi mới, tốt lành, chung thủy, và nàng sẽ luôn đối xử tử tế với anh. Anh chỉ tỉnh giấc để có thể nghĩ đến chuyện ngủ trở lại. Đó là một ý nghĩ tuyệt vời.” Giọng anh ta chỉ còn là một tiếng thì thào. Giờ nó ngừng bặt và anh ta chuyển sang thở nhè nhẹ.
Saul bỏ đi.
Dọc bờ biển cạn, như những cái chai rỗng bị những đợt sóng đã biến mất từ lâu đánh dạt lên, là những người đàn ông co ro nằm ngủ. Saul nhìn thấy họ dọc suốt đường cong bờ biển cạn. Một, hai, ba - bọn họ đều ngủ một mình, phần lớn đều ốm nặng hơn anh, mỗi người đều có một kho lương thực dự trữ nhỏ, mỗi người đều khép mình, vì trò chuyện xã giao khiến họ kiệt sức, còn ngủ thì lại thật dễ chịu.
Mới đầu cũng có vài đêm họ tập trung quanh những đống lửa trại chung. Và tất cả họ đều nói về Trái đất. Đó là điều duy nhất họ nói tới. Trái đất và dòng chảy trong những lạch nước ở thị trấn, mùi vị bánh nhân dâu tây, hình ảnh New York dưới ánh nắng sớm khi ta đi tới trên phà Jersey trong hơi gió biển.
Mình muốn quay về Trái đất, Saul thầm nghĩ. Mình muốn đến mức đau đớn. Mình muốn một điều mình không bao giờ có lại được nữa. Tất cả họ đều muốn nó, và họ đau đớn khi không có được nữa. Hơn cả thức ăn, phụ nữ hay bất cứ gì khác, mình chỉ muốn Trái đất thôi. Căn bệnh này khiến ta không bao giờ có thể gần gũi phụ nữ được nữa; có thèm muốn họ cũng chẳng ích gì. Nhưng Trái đất thì có. Đó là liều thuốc cho trí não chứ không phải cơ thể héo mòn.
Một tia sáng lóe lên trên bầu trời.
Saul ngước lên.
Tia sáng lại lóe lên một lần nữa.
Một phút sau, phi thuyền hạ cánh xuống đáy biển. Một cái van mở ra, một người đàn ông bước ra, xách theo hành lý. Hai người đàn ông khác mặc đồ bảo hộ khử trùng đi theo anh ta, vác theo các thùng đồ ăn lớn và dựng lều cho anh ta.
Một phút sau, phi thuyền trở lại với bầu trời. Kẻ bị đày ải kia đứng một mình.
Saul vùng chạy. Đã mấy tuần rồi anh không chạy, và anh rất mệt, nhưng anh vẫn vừa chạy vừa gọi to.
“Xin chào, xin chào!”
Chàng trai nhìn Saul từ đầu đến chân khi anh chạy đến nơi.
“Xin chào. Thì ra sao Hỏa là đây. Tên tôi là Leonard Mark.”
“Tôi là Saul Williams.”
Họ bắt tay. Leonard Mark còn rất trẻ - mới mười tám; tóc vàng hoe, mặt ửng hồng, mắt xanh biếc, và vẫn tươi roi rói bất chấp bệnh tật.
“Mọi việc ở New York thế nào?” Saul hỏi.
“Như thế này này,” Leonard Mark đáp. Và cậu ta nhìn Saul. New York từ sa mạc mọc lên, xây bằng đá và tràn ngập gió tháng Ba. Đèn neon tỏa sáng rực rỡ. Những chiếc taxi vàng lướt qua trong màn đêm tĩnh lặng. Nhũng cây cầu vươn lên và tàu kéo ngân nga như hát trong bến cảng nửa đêm. Những tấm màn vén lên trên những vở nhạc kịch phủ đầy trang kim.
Saul vòng tay ôm chặt đầu.
“Khoan đã, khoan đã!” anh kêu lên. “Chuyện gì đang xảy ra với tôi thế này? Tôi làm sao thế này? Tôi đang phát điên rồi!”
Lá non đâm chồi trên những cành cây trong Công viên Trung tâm, xanh mướt, tươi mới. Saul tản bộ trên lối đi, hít hà bầu không khí.
“Dừng lại, dừng lại, đồ ngốc!” Saul tự quát mình. Anh ép chặt hai bàn tay lên trán. “Chuyện này là không thể!”
“Có thể đấy,” Leonard Mark nói.
Các tòa tháp New York mờ dần. Sao Hỏa trở lại. Saul đứng trên đáy biển, đờ đẫn nhìn chàng trai mới đến.
“Cậu,” anh nói, chìa tay về phía Leonard Mark. “Chính cậu đã làm điều đó. Cậu đã dùng trí não của cậu.”
“Đúng thế,” Leonard Mark nói.
Họ đứng lặng, đối diện nhau. Cuối cùng Saul run rẩy nắm lấy bàn tay của chàng trai cũng bị lưu đày kia và liên tục siết chặt, miệng nói, “Ôi, tôi rất mừng vì cậu đã đến. Cậu không biết tôi mừng đến mức nào đâu!”
Họ cùng uống cà phê nâu đậm đựng trong ca thiếc.
Đã giữa trưa. Họ đã nói chuyện suốt cả buổi sáng ấm áp ấy.
“Thế còn cái khả năng này của cậu?” Saul nói, nhìn chăm chăm Leonard Mark trẻ tuổi ở phía bên kia miệng cái ca.
“Từ khi sinh ra tôi đã có khả năng đó rồi,” Mark nói, nhìn vào ca cà phê của mình. “Hồi London bị nổ năm 1957 thì mẹ tôi đang ở đấy. Mười tháng sau tôi ra đời. Tôi không biết khả năng này gọi là gì nữa. Thần giao cách cảm và truyền ý nghĩ, chắc vậy. Tôi đã từng đi biểu diễn. Tôi đi khắp thế giới. Leonard Mark, thần đồng trí não, người ta đề trên biển quảng cáo như vậy. Tôi kiếm cũng khá. Phần lớn mọi người đều nghĩ tôi chỉ là đồ bịp. Anh biết người ta thường nghĩ gì về diễn viên rồi đấy. Chỉ có tôi mới biết tôi có khả năng thật, nhưng tôi không cho ai biết cả. Không lan truyền nó rộng rãi thì an toàn hơn. Ừm, cũng có một số bạn thân của tôi biết về khả năng thật của tôi. Tôi có nhiều tài mà ở trên sao Hỏa này sẽ rất có ích.”
“Đúng là cậu đã làm tôi sợ chết khiếp,” Saul nói, tay siết chặt cái ca. “Hồi nãy New York đội đất mọc lên như thế, tôi tưởng như mình đã hóa rồ.”
“Đó là một dạng thôi miên ảnh hưởng đến tất cả các giác quan cùng một lúc - mắt, tai, mũi, miệng, da, tất cả. Giờ anh ao ước được làm gì nhất?”
Saul đặt ca xuống. Anh cố giữ cho tay mình không run. Anh liếm môi. “Tôi muốn được ở trong dòng suối con ở thị trấn Mellin, Illinois nơi tôi thường bơi hồi nhỏ. Tôi muốn được trần như nhộng bơi dưới suối.”
“Được,” Leonard Mark nói và khẽ nghiêng đầu.
Saul ngã vật ra nền cát, mắt nhắm lại.
Leonard Mark ngồi nhìn anh.
Saul nằm trên cát. Thỉnh thoảng tay anh lại cựa quậy, giật giật vẻ phấn khích. Miệng anh giật giật mở ra; những âm thanh phát ra từ cổ họng lúc co lúc giãn của anh.
Saul bắt đầu cử động hai tay, ra trước rồi ra sau, ra trước rồi ra sau, há miệng đồng thời đầu ngoảnh sang một bên, hai cánh tay từ từ vung ra sau rồi khoát tới trước luồng không khí ấm, khuấy động lớp cát vàng dưới thân anh, cơ thể anh xoay chầm chậm.
Leonard Mark lặng lẽ uống nốt cà phê. Vừa uống, cậu ta vừa dán mắt vào Saul đang nằm cử động, thì thầm trên đáy biển cạn.
“Thôi được rồi,” Leonard Mark nói.
Saul ngồi dậy, xoa mặt.
Một lát sau, anh nói với Leonard Mark, “Tôi đã thấy dòng suối. Tôi chạy dọc bờ suối rồi cởi quần áo ra,” anh hổn hển nói với một nụ cười sững sờ. “Rồi tôi lao xuống nước bơi!”
“Tôi rất mừng,” Leonard Mark nói.
“Đây!” Saul thò tay vào túi lấy ra thanh sô cô la cuối cùng. “Cho cậu đây.”
“Cái gì đây?” Leonard Mark nhìn món quà. “Sô cô la ư? Vớ vẩn, tôi làm việc này không phải để được trả công. Tôi chỉ làm cho anh vui thôi. Cất lại vào túi đi kẻo tôi biến nó thành rắn chuông đớp cho anh một miếng bây giờ.”
“Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu!” Saul cất thanh kẹo đi. “Cậu không biết nước suối mát thế nào đâu.” Anh nhấc bình cà phê lên. “Uống thêm cà phê chứ?”
Saul rót cà phê và nhắm mắt lại một thoáng.
Mình đã có Socrates ở đây, anh thầm nghĩ; Socrates và Plato, cả Nietzsche và Schopenhauer nữa. Chàng trai này, nếu đúng như cậu ta nói, thì quả là một thiên tài. Tài năng của cậu ta thật phi thường! Chúng ta sẽ có những ngày dài thư thái và những đêm mát mẻ để trò chuyện, cứ nghĩ mà xem. Sẽ là một năm không tệ chút nào.
Không hề.
Anh đánh đổ cà phê.
“Sao thế?”
“Không có gì.” Saul giật mình bối rối.
Chúng ta sẽ đến Hy Lạp, anh thầm nghĩ. Đến Athens. Chúng ta sẽ đến Rome nếu muốn, khi nghiên cứu các nhà văn La Mã. Chúng ta sẽ đứng ở Parthenon và Acropolis. Sẽ không chỉ nói chuyện suông; chúng ta sẽ đến hẳn đó. Người này có thể làm được. Cậu ta có quyền năng đó. Khi chúng ta bàn luận về các vở kịch của Racine, cậu ta có thể tạo ra cho mình một sân khấu, diễn viên và mọi thứ. Chúa ơi, cuộc sống chưa bao giờ tuyệt vời đến thế này! Bị bệnh trên sao Hỏa này tuyệt vời hơn nhiều so với khỏe mạnh trên Trái đất mà không có khả năng này! Bao nhiêu người đã được xem một vở kịch Hy Lạp cổ đại biểu diễn ở một hí trường Hy Lạp vào năm 31 TCN?
Và nếu mình yêu cầu, một cách thật nhẹ nhàng và thành thật, thì liệu chàng trai này có thể tạo ra hình ảnh của Schopenhauer, Darwin và Bergson cùng tất cả các nhà tư tưởng của mọi Thời đại không…? Phải, tại sao lại không chứ? Được ngồi đàm đạo với chính Nietzsche, với chính Plato…!
Chỉ có một vấn đề thôi. Saul cảm thấy mình lảo đảo. Những người khác. Những kẻ bệnh tật khác nằm dọc đáy biển cạn này.
Từ đằng xa, mọi người đang di chuyển, tiến về phía họ.
Họ đã thấy phi thuyền lóe sáng, hạ cánh, thả xuống một hành khách. Giờ họ đang đến, chậm rãi, khổ sở, để đón chào người mới đến.
Saul lạnh ngắt cả người. “Nghe này,” anh nói.
“Mark, tôi nghĩ chúng ta lên núi thì hơn.”
“Vì sao?”
“Thấy những người đang đến kia không? Một số họ bị điên đấy.”
“Thật ư?”
“Thật.”
“Họ bị như vậy vì bị cô lập quá lâu ư?”
“Ừ, đúng thế đấy. Chúng ta nên đi thôi.”
“Trông họ không nguy hiểm lắm. Họ di chuyển rất chậm.”
“Cậu sẽ bất ngờ đấy.”
Mark nhìn Saul. “Anh đang run kìa. Sao thế?”
“Không còn thời gian nói chuyện nữa đâu,” Saul nói, vội vàng đứng dậy. “Đi nào. Cậu không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra khi họ phát hiện ra khả năng của cậu ư? Họ sẽ tranh giành cậu. Họ sẽ giết lẫn nhau - giết cậu - để có quyền sở hữu cậu.”
“Ồ, nhưng tôi không thuộc về ai cả,” Leonard Mark nói. Cậu ta nhìn Saul. “Không. Kể cả anh cũng không.”
Saul hất đầu. “Tôi còn không nghĩ đến chuyện đó.” “Thật không?” Mark cười.
“Không còn thời gian bàn cãi nữa đâu,” Saul đáp, mắt chớp lia lịa, má đỏ ửng. “Đi nào!”
“Tôi không muốn. Tôi sẽ ngồi ngay đây cho tới khi những người đó đến nơi. Anh hơi bị khư khư giữ cho mình đấy. Cuộc sống của tôi là của riêng tôi.”
Saul cảm thấy sự hèn hạ đang dâng lên trong mình. Mặt anh bắt đầu méo đi. “Cậu nghe tôi nói rồi đấy.”
“Anh biến từ bạn thành thù nhanh đấy nhỉ,” Mark nhận xét.
Saul đánh cậu ta. Đó là một cú đánh nhanh, gọn ghẽ, thẳng từ trên xuống. Mark cười và né sang bên. “Đừng hòng!” Họ đang đứng giữa quảng trường Thời Đại. Ô tô gầm rú, bóp còi, lao về phía họ. Các tòa nhà nóng rực mọc lên giữa bầu trời xanh thẳm.
“Đây là dối trá!” Saul kêu lên, lảo đảo dưới sức mạnh của những hình ảnh đó. “Vì Chúa, đừng làm thế, Mark! Những người kia đang đến đấy. Cậu sẽ chết mất!”
Mark ngồi trên vỉa hè, cười với trò đùa của mình. “Cứ để họ đến. Tôi có thể đánh lừa tất cả bọn họ!”
New York làm Saul bị sao nhãng. Mục đích của nó là khiến anh sao nhãng - để thu hút sự chú ý của anh vào vẻ đẹp khủng khiếp của nó, sau bao nhiêu tháng xa cách. Thay vì tấn công Mark, anh chỉ có thể đứng đó, hứng trọn khung cảnh xa lạ mà quen thuộc đó.
Anh nhắm mắt lại. “Không.” Rồi cúi đầu xuống, kéo Mark theo. Còi xe ré trong tai anh. Phanh xe rít lên và dừng lại kin kít. Anh giáng một cú đấm vào cằm Mark.
Im lặng.
Mark nằm rũ trên đáy biển.
Vác chàng trai bất tỉnh trên tay, Saul bắt đầu loạng choạng chạy.
New York đã biến mất. Chỉ còn lại mặt biển chết mênh mông im phăng phắc. Đám người kia đang tiến lại gần. Anh vác món hàng quý giá của mình về phía rặng đồi, vác New York, vùng quê xanh tươi, mùa xuân trong lành và những người bạn cũ trong tay. Anh khuỵu xuống một lần nhưng lại hì hục đứng dậy. Anh không ngừng chạy.
***
Đêm tràn vào hang. Gió lùa vào rồi lại rút ra, giằng kéo đống lửa nhỏ, làm tro bụi bắn tứ tung.
Mark mở mắt ra. Cậu ta đã bị trói chặt bằng dây thừng và đặt tựa vào vách hang khô, đối diện đống lửa.
Saul đặt một que củi nữa vào đống lửa, chốc chốc lại liếc cửa hang vẻ bồn chồn như mèo.
“Anh là đồ ngốc.”
Saul giật mình.
“Đúng thế,” Mark nói, “anh là đồ ngốc. Họ sẽ tìm ra chúng ta. Dù có phải săn tìm suốt sáu tháng họ cũng sẽ tìm ra chúng ta. Họ đã nhìn thấy New York ở đằng xa như một ảo ảnh. Và chúng ta ở giữa cảnh đó. Chớ có nghĩ rằng họ không sinh lòng tò mò mà bám theo chúng ta.”
“Nếu thế thì tôi sẽ đưa cậu đi tiếp,” Saul nói, nhìn vào đống lửa.
“Thì họ sẽ bám theo.”
“Im đi!”
Mark mỉm cười. “Ai lại nói với vợ mình như thế?”
“Cậu nghe tôi nói rồi đấy!”
“Ồ, thật là một cuộc hôn nhân hay ho - lòng tham của anh và khả năng trí não của tôi. Giờ anh muốn thấy gì nào? Tôi có thể cho anh thấy thêm vài cảnh tượng thuở thơ ấu không?”
Saul cảm thấy mồ hôi rịn ra trên trán. Anh không biết chàng trai kia đang nói đùa hay thật. “Được,” anh nói.
“Được thôi,” Mark nói, “xem đây!”
Lửa phun ra từ vách đá. Mùi lưu huỳnh bóp nghẹt họng anh. Những mẩu đá nổ tung, cả hang rung chuyển. Saul nhỏm dậy ho sù sụ, lảo đảo, bị địa ngục thiêu đốt!
Địa ngục biến mất. Cái hang trở lại như cũ.
Mark đang cười lớn.
Saul đứng bên trên cậu ta. “Cậu,” anh lạnh lùng cúi xuống nói.
“Anh còn chờ đợi điều gì nữa?” Mark kêu lên. “Bị trói, bị vác đi, bị biến thành cô dâu trí não của một kẻ đã phát điên vì cô độc - anh nghĩ tôi thích thú chuyện này lắm à?”
“Tôi sẽ cởi trói cho cậu nếu cậu hứa không bỏ chạy.”
“Tôi không thể hứa như vậy. Tôi là người tự do. Tôi không thuộc về ai cả.”
Saul quỳ xuống. “Nhưng cậu phải thuộc về tôi, cậu nghe không? Cậu phải thuộc về tôi. Tôi không thể để cậu đi được!”
“Anh bạn thân mến, anh càng nói những điều như thế thì tôi càng xa lánh anh hơn. Nếu anh có chút lương tri và hành động thông minh một chút thì chúng ta đã có thể làm bạn. Tôi hẳn sẽ rất vui lòng thỉnh thoảng thôi miên giúp anh. Dù sao thì với tôi cũng chẳng nhọc nhằn gì. Thậm chí còn thích thú là đằng khác. Nhưng anh đã làm hỏng bét cả. Anh muốn giành tôi cho riêng mình. Anh sợ những người khác sẽ cướp mất tôi. Ôi chao, anh nhầm lẫn biết bao. Tôi có đủ quyền năng để khiến tất cả bọn họ vui vẻ. Các anh lẽ ra có thể chia sẻ tôi như một căn bếp chung. Tôi sẽ như một vị thần giữa những đứa trẻ, một vị thần nhân từ ban phát ân huệ, để đáp lại các anh có thể đem đến cho tôi những món quà nho nhỏ, chút thức ăn ngon.”
“Tôi xin lỗi, tôi xin lỗi!” Saul kêu lên. “Nhưng tôi biết quá rõ những người này.”
“Anh có khác gì đâu? Chẳng hơn gì! Hãy ra ngoài xem họ có đang đến không. Hình như tôi nghe có tiếng động.”
Saul vùng chạy. Đến cửa hang, anh đưa tay lên che mắt, nhìn xuống khe đá chìm trong màn đêm. Những hình dáng lờ mờ di chuyển. Đó có phải chỉ là gió đang thổi những cụm cỏ dại không? Anh bắt đầu run - một con run rẩy nhẹ, nhức nhối.
“Tôi không thấy gì cả.” Anh quay lại cái hang trống.
Anh trố mắt nhìn đống lửa. “Mark!”
Mark đã biến mất.
Không còn gì khác ngoài lòng hang đầy đá tảng, đá cuội, sỏi, đống lửa đơn độc bập bùng, gió thở than. Và Saul đứng đó, đờ đẫn, sững sờ.
“Mark! Mark! Quay lại đi!”
Cậu ta đã thoát khỏi dây trói, một cách chậm rãi, thận trọng, và bằng cách giả vờ cậu ta nghe thấy những người khác đến gần, cậu ta đã trốn đi - đi đâu?
Hang rất sâu, nhưng cuối hang là một vách đá trống trơn. Và Mark không thể lẻn qua mặt anh để trốn vào màn đêm. Vậy cậu ta đã làm cách nào?
Saul bước quanh đống lửa. Anh rút dao ra tiến về phía một tảng đá lớn nằm dựa vào vách hang. Anh mỉm cười áp dao vào tảng đá. Rồi anh khẽ gõ gõ dao lên đó.
Rồi anh vung dao lên để chuẩn bị đâm vào tảng đá.
“Dừng lại!” Mark hét lên.
Tảng đá biến mất. Mark đang ngồi đó.
Con dao trong tay Saul dừng lại. Lửa nhảy nhót trên má anh. Mắt anh điên dại.
“Không có tác dụng đâu,” anh thì thầm. Anh thò tay xuống siết lấy cổ Mark. Mark không nói gì, nhưng sợ hãi ngọ nguậy trong vòng tay siết chặt, mắt đầy vẻ mỉa mai, nói với Saul những điều anh đã biết.
Nếu anh giết tôi, những giấc mơ của anh sẽ đi đâu? đôi mắt đó nói.
Nếu anh giết tôi, những dòng suối và những con cá hồi sẽ đi đâu?
Giết tôi là anh sẽ giết cả Plato, cả Aristotle, cả Einstein; phải, tất cả chúng tôi!
Cứ việc siết cổ tôi đi. Tôi thách anh đấy.
Những ngón tay Saul buông cổ họng cậu ta ra.
Những cái bóng dịch chuyển vào cửa hang.
Cả hai người quay đầu lại.
Những người khác đã đến nơi. Năm người cả thảy, hốc hác vì đi đường, thở hổn hển, đứng đợi bên rìa quầng sáng.
“Chào buổi tối,” Mark cười lớn, gọi to. “Vào đi, vào đi các anh!”
Đến bình minh, những cãi vã và hành vi hung bạo vẫn tiếp tục. Mark ngồi giữa những người đàn ông mắt trừng trừng, xoa xoa hai cổ tay mới được cởi trói. Cậu ta đã tạo ra một phòng họp tường ốp gỗ mun và một cái bàn cẩm thạch nơi họ đang ngồi, những người đàn ông râu ria xồm xoàm, hôi hám, mồ hôi đầm đìa, những kẻ tham lam, mắt dán chặt vào kho báu của họ.
Cuối cùng Mark lên tiếng:
“Cách giải quyết là mỗi người trong các anh sẽ có một buổi hẹn với tôi vào một giờ nhất định trong một ngày nhất định. Tôi sẽ đối xử với các anh như nhau. Tôi sẽ là tài sản chung, được tự do đi lại. Như thế là công bằng. Còn Saul đây, anh ta sẽ bị án treo. Khi anh ta chứng tỏ được mình lại có thể là người văn minh thì tôi sẽ cho anh ta một hai buổi. Từ giờ tới đó, tôi sẽ không dính dáng gì đến anh ta nữa.”
Những kẻ bị lưu đày khác nhăn nhở cười với Saul.
“Tôi xin lỗi,” Saul nói. “Lúc đó tôi không biết mình đang làm gì. Giờ tôi ổn rồi.”
“Rồi chúng ta sẽ xem,” Mark nói. “Cứ đợi một tháng xem sao, được chứ hả?”
Những người khác nhe răng cười với Saul.
Saul không nói gì. Anh ngồi dán mắt xuống sàn hang.
“Để xem nào,” Mark nói. “Thứ Hai là lượt của anh nhé, Smith.”
Smith gật đầu.
“Thứ Ba tôi sẽ gặp Peter đây, khoảng một tiếng.”
Peter gật đầu.
“Còn thứ Tư tôi sẽ gặp nốt Johnson, Holtzman và Jim đây.”
Ba người còn lại nhìn nhau.
“Những ngày còn lại trong tuần thì tôi phải được yên, các anh nghe chưa?” Mark bảo họ. “Một chút còn hơn là không có gì. Nếu các anh không nghe lời thì tôi sẽ không diễn trò gì hết.”
“Có lẽ chúng tôi sẽ bắt cậu phải diễn,” Johnson nói. Anh ta nhìn vào mắt những người kia. “Nhìn này, chúng ta có năm người còn cậu ta chỉ có một mình. Chúng ta có thể bắt cậu ta làm bất kỳ điều gì chúng ta muốn. Nếu hợp tác cùng nhau, chúng ta sẽ có được một điều rất tuyệt.”
“Đừng ngốc thế,” Mark cảnh báo những người khác.
“Để tôi nói,” Johnson gạt đi. “Cậu ta đang nói với chúng ta là cậu ta sẽ làm gì. Tại sao chúng ta không cho cậu ta biết chúng ta sẽ làm gì! Chúng ta có to con hơn cậu ta không vậy? Vậy mà cậu ta còn dám dọa sẽ không diễn trò nữa chứ! Hừ, cứ để tôi cắm một mảnh gỗ vào dưới móng chân cậu ta và có lẽ lấy giũa sắt đốt ngón tay cậu ta một chút, rồi xem cậu ta có dám không diễn không! Tôi muốn biết tại sao chúng ta lại không được có trò diễn hằng đêm chứ?”
“Đừng nghe anh ta!” Mark nói. “Anh ta điên rồi. Không thể tin anh ta được đâu. Các anh biết anh ta sẽ làm gì rồi chứ? Anh ta sẽ lợi dụng lúc các anh sơ hở mà giết các anh, từng người một; phải, giết hết các anh, để khi xong xuôi anh ta sẽ chỉ còn có một mình - chỉ còn anh ta và tôi thôi! Anh ta là loại người như thế đấy!”
Những người kia chớp chớp mắt. Đầu tiên họ nhìn Mark, kế đó nhìn Johnson.
“Thực ra, chẳng ai trong các anh có thể tin người khác cả,” Mark nhận xét. “Đây là cuộc họp của những kẻ ngốc. Ngay khi anh quay lưng lại, một trong những người khác sẽ giết anh chết tươi. Tôi xin nói là đến cuối tuần này, các anh sẽ chết hết, không thì cũng sắp chết.”
Một làn gió lạnh buốt thổi vào căn buồng ốp gỗ mun. Căn buồng tan biến và lại trở thành cái hang. Mark đã chán trò đùa của mình. Cái bàn cẩm thạch lả tả rơi xuống như một cơn mưa và biến mất.
Những người kia nghi ngờ nhìn nhau bằng cặp mắt sáng rỡ như mắt thú. Điều vừa được thốt lên là sự thật. Họ mường tượng ra nhau trong những ngày sắp tới, rình rập nhau, giết nhau - cho tới khi chỉ còn lại kẻ may mắn cuối cùng để tận hưởng kho báu trí tuệ đang ở giữa họ.
Saul quan sát họ, cảm thấy cô độc và lo lắng vô cùng. Một khi ta đã phạm sai lầm thì thật khó lòng thừa nhận sai lầm của mình, quay trở về, bắt đầu lại từ đầu. Họ đều đã sai lầm. Họ đã lạc lối suốt một thời gian dài. Giờ họ còn khốn khổ hơn là lạc lối.
“Và để khiến mọi chuyện càng trầm trọng hơn,” cuối cùng Mark nói, “một người trong các anh có súng. Những người khác chỉ có dao. Nhưng tôi biết một trong các anh có súng.”
Mọi người đứng bật dậy. “Lục soát đi!” Mark nói. “Hãy tìm ra người có súng không thì các anh chết cả nút bây giờ!”
Chỉ cần có thế. Những người đàn ông điên cuồng vật lộn, không biết phải lục soát ai trước. Tay ghì níu lấy nhau, họ kêu to, trong lúc Mark nhìn họ đầy khinh bỉ.
Johnson lùi lại, sờ soạng trong túi áo. “Thôi được,” anh ta nói. “Xử lý luôn cho xong đi! Đây, Smith.”
Và anh ta bắn vào ngực Smith. Smith khuỵu xuống. Những người khác thét lên. Họ giãn ra. Johnson ngắm bắn và nổ súng thêm hai lần nữa.
“Dừng lại!” Mark quát.
New York vươn lên quanh họ, xuyên qua nền đá, trần hang và bầu trời. Mặt trời lấp lánh trên những tòa tháp chọc trời. Tàu chạy rầm rập qua đường sắt trên cao; tàu kéo nổi còi trên bến cảng. Nữ thần xanh đứng nhìn qua vịnh, một ngọn đuốc trong tay.
“Nhìn đi, lũ ngốc!” Mark nói. Những chùm hoa xuân nở bừng khắp Công viên Trung tâm. Gió đua đến chỗ họ mùi cỏ mới cắt.
Và, giữa trung tâm New York, những người đàn ông sững sờ lảo đảo. Johnson nổ thêm ba phát súng. Saul lao tới trước. Anh đâm sầm vào Johnson, đẩy anh ta ngã xuống rồi giật khẩu súng đi. Khẩu súng nổ một phát nữa.
Những người đàn ông ngừng loạng choạng.
Họ đứng yên. Saul nằm vắt ngang người Johnson. Họ không vật lộn nữa.
Im lặng khủng khiếp trùm lên tất cả. Những người đàn ông trố mắt nhìn. New York chìm xuống đáy biển. Với tiếng rin rít, lép bép, thở dài, với tiếng kẽo kẹt của những thanh sắt cũ kỹ và thời gian cổ xưa, các tòa nhà khổng lồ vẹo đi, cong queo, tan chảy và sụp đổ.
Mark đứng giữa những tòa nhà. Rồi, cũng như những tòa nhà ấy, với một cái lỗ tròn xoe đỏ thắm xuyên qua ngực, cậu ta ngã gục xuống, không nói một lời.
Saul nằm đó, nhìn những người kia, nhìn cái xác.
Anh đứng dậy, khẩu súng cầm trong tay.
Johnson không nhúc nhích - anh ta sợ quá không dám nhúc nhích.
Tất cả bọn họ nhắm mắt rồi lại mở mắt, ngỡ rằng làm thế có thể làm chàng trai nằm sõng soài trước mặt họ sống lại.
Cái hang lạnh buốt.
Saul đứng lên, đờ đẫn nhìn khẩu súng trong tay. Anh cầm nó ném thật xa vào thung lũng mà không nhìn nó rơi xuống.
Họ nhìn xuống cái xác như không tin nổi điều đó. Saul cúi xuống nắm lấy một bàn tay mềm nhũn. “Leonard!” anh khẽ gọi. “Leonard ơi!” Anh lắc lắc bàn tay đó. “Leonard!”
Leonard Mark không cử động. Mắt cậu ta nhắm nghiền; lồng ngực cậu ta đã thôi nhấp nhô. Cậu ta đang lạnh dần.
Saul đứng dậy. “Chúng ta đã giết cậu ta,” anh nói, không nhìn những người khác. Miệng anh đắng chát. “Người duy nhất chúng ta không muốn giết thì chúng ta lại giết mất.” Anh đưa bàn tay run rẩy lên mắt. Những người khác đứng chờ đợi.
“Đi lấy cái xẻng,” Saul nói. “Chôn cậu ta đi.” Anh quay đi. “Tôi không muốn dính dáng gì đến các người nữa.”
Ai đó đi ra tìm xẻng.
***
Saul cảm thấy yếu ớt đến độ không di chuyển nổi. Chân anh đã cắm rễ xuống đất, những cái rễ hút lấy sự cô đơn, nỗi sợ và hơi lạnh của màn đêm. Đống lửa đã sắp tắt, giờ chỉ còn ánh trăng kép chiếu trên rặng núi xanh.
Có tiếng ai đó đào đất bằng xẻng.
“Dù sao thì chúng ta cũng chẳng cần cậu ta,” ai đó nói, quá to.
Tiếng đào đất tiếp tục. Saul chầm chậm bước, để mặc cho mình trượt dọc một thân cây đen sẫm cho tới khi anh xuống đến bờ cát, ngồi ngẩn ngơ ở đó, hai bàn tay buông thõng trên lòng.
Ngủ đi, anh thầm nghĩ. Giờ chúng ta sẽ đi ngủ. Dù sao chúng ta cũng còn giấc ngủ. Hãy ngủ và cố mơ về New York cùng tất cả những thứ khác.
Anh mệt mỏi nhắm mắt lại, máu đọng dần trong mũi, trong miệng, trong cặp mắt run rẩy của anh.
“Cậu ta đã làm cách nào vậy?” anh hỏi bằng giọng kiệt quệ. Đầu anh gục xuống ngực. “Sao cậu ta có thể đem New York đến đây cho chúng ta dạo quanh? Thử xem nào. Chắc không khó lắm đâu. Nghĩ đi! Hãy nghĩ về New York,” anh thì thầm, dần chìm vào giấc ngủ. “New York và Công viên Trung tâm rồi sau đó là Illinois vào mùa xuân, với hoa táo và cỏ xanh.”
Không có tác dụng. Không thể giống trước được. New York đã biến mất và anh không thể làm gì để đưa nó trở lại. Sáng sáng anh thức giấc và lại đi trên đáy biển chết để tìm kiếm nó, cứ đi hoài đi mãi quanh sao Hỏa mà không bao giờ tìm thấy. Và cuối cùng, khi đã quá mệt không đi tiếp được nữa, anh nằm xuống, cố gắng tìm kiếm New York trong tâm trí mình, nhưng cũng không được.
Điều cuối cùng anh nghe thấy trước khi chìm vào giấc ngủ là tiếng xẻng lên lên xuống xuống, đào một cái hố, nơi mà, giữa những tiếng ầm vang của kim loại, bụi vàng, mùi vị, màu sắc và âm thanh, New York đã sụp đổ, nằm yên, bị chôn vùi.
Suốt cả đêm anh khóc trong giấc ngủ.