← Quay lại trang sách

Sư Bác Chma Kênh

Chùa Kênh ở trên đỉnh một cái đồi cao, quạnh hiu vô chừng. Đường lên uốn khúc, rải rác một vài hòn đá núi tim tím nằm trên sườn cỏ xanh, trơ trơ đã mấy nghìn đời như để chứng kiến những sự đổi thay của trời đất. Chùa cũng cổ lắm, chung quanh có một vài cây thông gió hắt hiu. Về buổi chiều lên đồi, thấy cái chùa đó, giá lòng người tê tái, thế sự thờ ơ, tưởng có thể đem tấm thân suy mòn mà nghìn năm gửi cùng cỏ cây chốn này được.

Tu hành trong chùa đó, có một ông sư cụ đã ngoài bảy mươi tuổi, một ông sư bác trạc độ tứ tuần và một vài chú tiểu ngây ngô ngày ngày quét lá cửa chùa.

Sư bác chùa Kênh đã nổi tiếng khắp vùng ấy, là một ông sư chân tu; ông học thâm lắm, bao nhiêu sách Phật, thiên kinh vạn quyển ông đều xem cả. Ông càng xem càng hiểu thấu lẽ Phật, càng biết đời là cõi hư vô, bể khổ mông mênh, không bờ không bến. Suốt ngày ông ngồi tụng kinh gõ mõ, nét mặt đăm đăm, không lúc nào nhãng, khi nào mệt thời lại nằm trong giường mà niệm Phật. Người ông xanh lướt như cây cỏ, hai con mắt ông sáng quắc như hai ngôi sao. Bao nhiêu các sư ở vùng quanh đây đều tôn trọng ông lắm, thường đến nghe ông giảng thuyết về sách Phật.

Chiều chiều ông lê gậy trúc quanh chùa đứng rũ tay mà nhìn xuống thế gian khổ sở điên cuồng; làng mạc luẩn quất xa gần, tiếng gà gáy chó sủa, người đời sao mà sống nhỏ nhen, nhỏ nhen thế? Ông nghĩ đến câu "nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn là nước trong bốn bể" mà ông đem lòng thương chung cho muôn vạn con người dưới chân ông đương xâu xé, đâm giết nhau; ông thương nên ông muốn ra tay cứu vớt kẻ đắm chìm trong bể khổ.

Đêm đến ông ngồi tĩnh tọa, rồi lại niệm Phật đến gà gáy tỉnh quá nửa đêm mới đi nghỉ. Ông tập tĩnh tọa đã ngoài mười năm, đêm nào cũng không bỏ, thành ra trí sáng suốt thâu hút mọi lẽ ở đời. Ngày nào cũng như thế mà không bao giờ chán nản, trong lòng lúc nào cũng thảnh thơi, không buồn không vui như đã đến được cõi Nát Bàn rồi vậy.

Trước cửa chùa Kênh có một cái tượng đá cao hai thước, không biết ai tạc nên mà để vào đấy, chỉ thấy nói của một người Tàu đem cúng vào chùa từ đời hậu Lê. Một hôm sư bác thơ thẩn, chợt nhìn thấy trên chính giữa đỉnh đầu pho tượng có một lỗ thủng to bằng đồng hào, gõ vào tượng thời thấy kêu biết là tượng rỗng.

Ông nghĩ cũng kỳ cho bức tượng bằng đá mà cũng rỗng được nhưng cũng không để ý. Tối hôm ấy ông ngồi tĩnh tọa, thấy không được tĩnh tâm như mọi khi, phảng phất cái lỗ đen trước mặt, trước còn to bằng cái lỗ thủng trên đầu pho tượng rồi cứ to dần, to mãi, lâu lâu bằng cái miệng bát, bằng cái mâm, cái nong, cứ to mãi rồi thì chỉ thấy bóng tối như ban đêm mông mênh vô hạn, một lúc thấy lờ mờ như có ánh lửa lòe ra tắt đi, dần dần trông rõ một cái vạc dầu, tiếng người than khóc, có hai đứa quỷ sứ, tay cầm đinh ba đương đứng nhìn ông chòng chọc một lúc thì... biến mất... Ông hơi có ý sợ thành thử phải cố ý nghĩ xem tại sao pho tượng đá ấy lại rỗng và có cái lỗ thủng trên đầu; ông cứ tự hỏi tại làm sao cho đến sáng mới nghĩ ra. Ngày hôm ấy ông ra xem lại thời quả nhiên ở chỗ rốn pho tượng lại có một cái lỗ thủng nữa nhưng bé lắm, thật đúng như trong trí ông đoán cả. Cũng vì ông tĩnh tọa đã lâu, nghiền ngẫm câu "tự giác nhi giác tha" nên mới có cái trí sáng suốt nghĩ ngay ra được như thế. Tối đến ông lại tĩnh tọa một lần nữa thời trăm phần không còn phần nào sai được.

Tối hôm ấy là ngày mồng hai tháng chạp, trời rét như cắt, tối đen như mực, ông đợi cho sư cụ và các tiểu ngủ kỹ rồi, mới trở dậy cầm cây đèn, một cái thuổng và một vò nước lớn, mở cửa ra ngoài chùa, hơi thấy tiếng động thời lại đứng dừng ngay lại lắng tai nghe. Tiếng thạch thùng kêu, tiếng chuột chạy trên mái chùa, ngày thường những lúc ông tụng kinh ông vẫn nghe thấy luôn mà bây giờ như dọa ông, làm ông run sợ không khác gì kẻ gian nghe thấy tiếng động vậy. Khó nhọc lắm mới đến được chỗ pho tượng. Ông lấy vòi nước đổ vào cái lỗ thủng trên đầu tượng rồi soi đèn vào chỗ lỗ ở rốn xem thời quả nhiên có một tia nước phụt mạnh ra hai thước. Ông mừng quá, nhận xem tia nước ra xa đến đâu, đánh dấu lấy chỗ ấy, rồi cầm thuổng đào đất. Đào đã sâu mới gặp một viên gạch, bật lên thời thấy một cái chum có cái vung to đậy lên. Nhà sư chân tay run lẩy bẩy cúi xuống nhấc cái vung ra, giơ đèn nhìn vào thời quả nhiên thấy một chum đầy vàng cốm dưới ánh đèn chói lọi, nhà sư lúc bấy giờ mắt hoa lên cho hai tay vào chum mà quờ mà bốc!

Dưới chân đồi, làng mạc ngủ yên cả thỉnh thoảng thấy có ngọn đèn sáng, một vài tiếng chó sủa xa xa. Êm đềm thay! Suốt ngày khó nhọc, người nào người nấy cuốn chăn ngủ kỹ, nhưng trong cái nhà có đèn sáng kia biết đâu không có hai vợ chồng nhà ai, trai tài, gái sắc, dưới ánh đèn xanh, đương chung bóng cùng nhau câu chuyện ân tình... biết đâu.

Nhà sư cho vàng vào bao, đậy chum lại rồi lấp đất y nguyên như cũ.

Sáng hôm sau thấy mâm cơm mấy quả cà mà ngao ngán, trông đến các tượng ngồi mà tênh sự đời.

Được mấy ngày khắp suốt vùng ấy, ai ai cũng hỏi nhau ngơ ngác không biết sư bác chùa Kênh lên tiên hay đi đâu mà biệt vô âm tín.

Ba năm sau, ký giả thấy ông ra ứng cử nghị viên thành phố Hà Nội.