← Quay lại trang sách

Người Ca Kỹ Họ Nguyễn (Dịch ở Kiến văn Lục)

Quan Thượng -Thư họ Vũ tên là Khâm-Lân, phong ông quận công, nguyên người làng NGọc-Lại, huyện Tứ-kỳ, cha ông đỗ cử -nhân. Ông sinh ra thông minh lắm, học sách làm văn, dạy khắc biết ngay. Mẹ ông có tội bị bỏ, người dì ghẻ dữ -dội, bắt ông thôi học về chăn trâu. Năm mười lăm, mười sáu tuổi bắt đi cầy bừa gánh phân, cuốc đất, mắng chửi cay nghiệt thậm tệ.

Quần áo đẹp, miếng quà ngon, chỉ phần riêng cho con mình, còn ông thì vận áo rách, ăn cơm đỏ ít khi no ấm, cha cũng không che chở nổi. Ông khổ quá không chịu được, phải bỏ nhà hành khất đi liều. Năm sáu hôm sau đến làng Dịch-Vọng, phủ Từ -Liêm, làng ấy có ông cử ngồi dạy học. Ông lần đến xin ăn và kể nông nỗi khổ sở. Ông cử hỏi:

‘‘ Anh có học và có biết làm thơ không?’’.

Ông thưa ‘‘có’’. Ông cử bấy giờ mời cho ngồi đưa bút giấy, bắt vịnh bài ‘‘Cốc kê sơn thủy’’, ông cầm bút viết xong ngay, câu luận rằng:

Tam Sinh vị phân Chư Cát -Lượng

Nhất không dĩ bốc Quản-di-Ngô.

Nghĩa nôm là:

Ba lần mời mọc Gia chưa dậy,

Một dịp đua quanh Quản trổ tài.

Viết xong đưa lên, ông cử khen ngợi mãi mới cấp cho đến đầu bút giấy, cùng với mọi người học. Được hơn hai năm học hành tấn tới lắm, trong trường không chịu kém ai. Năm ấy trong làng có đám, anh chị rủ nhau đi xem, thật là:

Dập -dìu tài-tử giai-nhân

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Mà ông thì rách rười, lôi thôi đứng tựa cột đình, chỉ sợ người ta trông thấy. Bấy giờ có một người ca kỹ ước mười bẩy mười tám tuổi, vẻ người tư lệ, giọng hát thanh tao, mỗi khi cất tiếng trên sân khấu làm cho người xem mê mẩn tâm thần. Tiền bạc lụa là ném thưởng cho nàng bề bộn. Nàng múa đèn liệng qua góc đình, nhác thấy ông, đưa cặp mắt thu ba mà nhìn ông một lúc, rồi ngẩn người ra, hát không lên giọng được nữa. Người xem tưởng nàng cảm, ai cũng chán nản trở về, ông cũng về. Sáng mai nàng hỏi thăm tới chỗ ông trọ, rồi vỗ -về ông rằng: ‘‘Anh hùng mà phải lưu-lạc đến thế này ư?’’ Mới cho mười quan tiền, vài bộ quần áo trân -trọng mấy lời rồi ra về ; cách sau vài ba tháng lại đến, có khi ngủ đêm ở đấy, vá may thổi nấu cho ông không khác gì là một người nội trợ vậy.

Ông gặp được nàng lấy làm cảm kích, và kính yêu lắm, thật là:

Từ phen đá biết tuổi vàng,

Tình càng thắm thía, dạ càng ngẩn ngơ.

Ông thấy nàng có bụng yêu mình, không khỏi lửa tình khôn đập, có lần chực ngủ chung.

Nàng chính- sắc mà cự lại rằng: ‘‘Thiếp nếu có phải là người trăng hoa, thời thiếu gì trai tơ trong thiên hạ, tự nghĩ phận mình hát xướng khó kiếm được tấm chồng danh giá, nên phải đem con mắt tinh đời mà kén chọn anh hùng từ khi rồng mây chưa gặp, để hòng sau nương gửi tấm thân. Nếu chàng coi thiếp như liễu ngõ hoa tường thời nay xin từ biệt.’’

Được hơn một năm, gần đến khoa thi, ông gói ghém về quê. Nàng đến hậu-tặng và đưa chân ông, lúc sắp biệt cầm tay nàng mà than rằng:

‘‘ Tôi chiếc thân lưu -lạc, tứ cố vô-thân, ngờ đâu lại gặp được nàng nấu cơm may áo cho tôi, ơn nghĩa ấy để đâu cho xiết.

‘‘ Lâu nay muốn hỏi lại đường-đột, vậy xin nàng cho biết phương danh, quí quán nơi nào để sau này biết chốn mà cùng nhau họp mặt’’.

Nàng nói:

- Nếu chàng có lòng không phụ thời thiếp xin tự cầu. Không may mà có xẩy ra thế nào thời chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi, can chi phải hỏi han tường tận.

Khi ông bỏ nhà đi người mẹ ghẻ coi như nhổ được cái đinh trước mắt, mừng rỡ ra mặt, mừng rỡ ra mặt. Cha lại sợ vợ cũng không dám tìm tôi, chỉ nức nở mà thôi, tin tức một ngày một vắng cũng tưởng là chết chợ đâu rồi. Bỗng một hôm ông cưỡi ngựa về ; hỏi ra biết ông đi học, lại tấn tới, cha ông rất làm mừng rỡ.

Đến mùa thu năm ấy, khảo hạch ở huyện đỗ đầu xứ, thi hương và thi đình đều đỗ thủ khoa, cha định giạm vợ cho ông lấy con gái mộT nhà thế phiệt, ông cố từ, sau phải nói thật rằng, không dám phụ ơn nàng. Cha giận lắm, mắng chàng ngỗ nghịch không theo mệnh cha, ông bất đắc dĩ phải nghe.

Sang năm sau, cũng đi thi hội thấy nàng đem lễ vật đến kinh vào nhà tục tiếp kiến, ông thẹn thùng hối hận nói không nên lời. Nàng thưa:

-‘‘Thiếp đã biết cả rồi, chàg không phải nói, tiền trình của chàng còn dài chút thân hèn mọn này không dám nâng khăn sửa túi cho chàng là phận thiếp đó thôi’’.

Rồi từ đây không thấy đâu nữa. Sau ông đỗ vào làm tòa nội các, phụng mệnh sang sứ Tầu lịch duyệt, quan trong quan ngoài, hơn mười năm. Lúc bấy giờ vùng Hải-dương có giặc Hảo, triều đình thấy ông là người thuở trước hiểu biết tình hình quân giặc mới sai đem binh đi đánh. Giặc tan, có quân công được phong làm quận công, giữ chức đầu quan tỉnh. Ông làm tướng văn tướng võ trong mấy năm, tiếng tăm lừng lẫy, cùng người ta nói chuyện trước, cứ thở than, hối hận sai người tìm nàng mà cũng không thấy đâu cả.

Sau có một hôm, ông đi dự tiệc ở nhà một người bạn thân là Đặng-Hầu, thấy người đánh phách trông nhà nàng, hỏi ra quả thật, phong -trần dầy dạn màu da mà phong-vân vẫn ra chiều thanh nhã, hỏi chuyện, nàng nói mười năm trước đây đã lấy người đội tuần ở Thái-Nguyên, được ít lâu chồng mất, cũng chưa có con cái gì cả, có chút vốn liếng về làng, không may bị người em chơi bời cờ bạc hết cả, phải lưu lạc đem bà mẹ ra ở Hà -nội, lại giữ nghề hát cướng ở chốn quyền-môn để kiếm ăn. Ông lấy làm thương mời đón nàng và mẹ nàng về ở một nơi biệt quan, cấp lương cho tử tế. Mẹ nàng mất, ông làm ma chay cho chu đáo xong rồi nàng xin đi, ông giữ the-1 nào cũng không ở, cho nhiều tiền của cũng không nhận, bức mãi nàng thưa rằng:

_ ‘‘Thiếp tủi phận không được làm vợ tướng công, thời tiền của tướng-công thiếp còn phúc nào mà tiêu-thụ được nữa’’ (Nàng người huyện Chương -Đức tỉnh Sơn -Nam tức Hà-Đông bây giờ)

Lời ông Lan-tri Ngư phê-bình.

– Có lòng kiên tính, có khí nghĩa hiệp, có mắt tinh đời, nàng gồm cả ba điểm đó, không cứ trong bọn quần thoa, dẫu trong đám tu-mi cũng ít người sánh kịp, thế mà phải lưu -lạc giang hồ, cùng cực đến thế. Có lẽ những người tài nữ kiêm-bị thời dẫu cho nhi nữ, con tạo kia cũng ruồng -rẫy đi chăng?