← Quay lại trang sách

- II - Cánh cửa

Đó là một đêm náo nhiệt quanh lò sưởi trong thư viện của tiến sĩ Fell ở số 1 phố Adelphi. Tiến sĩ với sắc mặt hồng hào đang ngồi oai phong trên chiếc ghế lớn nhất, thoải mái nhất, và cũ kĩ nhất. Chiếc ghế này đã võng xuống và đệm đã rạn ra làm người ngồi được thoải mái hơn, nhưng vì một lí do nào đó, những cái ghế cũ kĩ như thế luôn khiến các bà vợ phát khùng. Với khuôn mặt rạng rỡ đằng sau cặp kính có sợi dây đeo kính đen, tiến sĩ Fell nhịp cái gậy lên thảm mỗi khi bật cười. Ông đang mở tiệc. Tiến sĩ Fell rất thích mở tiệc khi có bạn bè đến thăm. Đúng hơn là ông thích mở tiệc khi có bất cứ dịp gì. Và tối nay có đến tận hai lí do để ăn mừng.

Một là, những người bạn trẻ của ông, Ted và Dorothy Rampole, vừa ở Mỹ sang với tinh thần sảng khoái nhất. Hai là, ông bạn Hadley của ông – giờ đã là ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley của Phòng Điều tra Tội phạm – vừa mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong vụ án giả mạo ở khu Bayswater, và đang ngồi nghỉ ngơi. Ted Rampole ngồi một bên lò sưởi, và Hadley ngồi phía bên kia, vị tiến sĩ ngồi chủ tọa ở giữa với tô rượu pân đang bốc khói nghi ngút. Ở tầng trên, các phu nhân Fell, Hadley và Rampole đang bàn bạc về chuyện gì đó, còn ở dưới này hai ông chồng Fell và Hadley lại đang tranh luận gay gắt về chuyện khác. Ted Rampole cảm thấy thoải mái như ở nhà.

Ngả hẳn lưng vào ghế một cách lười nhác, anh hồi tưởng lại những chuyện ngày xưa. Ngồi đối diện anh, ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley, với bộ ria mép được cắt tỉa gọn gàng và mái tóc xám như màu thép, đang cười đùa và buông những lời châm biếm qua chiếc tẩu thuốc. Còn tiến sĩ Fell thì đang vung vẩy dữ dội cái muôi múc rượu.

Có vẻ như họ đang tranh cãi về khoa học trong nghiên cứu tội phạm, cụ thể là về vấn đề chụp ảnh. Rampole nhớ là đã loáng thoáng nghe về chủ đề này, vốn từng khiến cả Phòng Điều tra Tội phạm ré lên cười ầm ĩ. Một dạo, khi tiến sĩ Fell đang ngồi không vì chưa tìm được thú vui mới, ông bị bạn của mình là Giám mục Mappleham dụ dỗ đọc sách của Gross, Jeserich và Mitchell. Và ông đã bị nghiện. May mắn thay, tiến sĩ Fell không hề có cái gọi là “não bác học”. Những nghiên cứu hóa học của ông vẫn chưa làm sập mái nhà, bởi thật may là ông luôn làm vỡ hết dụng cụ trước khi thí nghiệm bắt đầu. Ngoài việc làm cháy rèm cửa bằng đèn Bunsen, ông không gây thiệt hại nào đáng kể. Còn sự nghiệp nhiếp ảnh của ông (như ông nói) rất thành công. Ông đã mua một cái máy ảnh hiển vi Davontel với thấu kính tiêu sắc, rồi vứt bừa bãi khắp phòng những thứ trông như ảnh chụp X quang của một cái dạ dày bị chứng khó tiêu nặng. Ngoài ra, ông còn tuyên bố rằng mình đã hoàn thiện phương pháp giải mã chữ viết trên giấy bị cháy của tiến sĩ Gross.

Vừa ngồi nghe Hadley chế giễu tiến sĩ Fell về chuyện này, Rampole vừa mơ màng. Anh thấy ánh lửa bập bùng rọi lên những bức tường phủ đầy sách và nghe thấy tiếng tuyết đập vào cửa sổ sau tấm rèm đóng kín. Anh cười một mình, đầy mãn nguyện. Trong thế giới tuyệt vời này không có gì khiến anh phải khó chịu. Có không nhỉ? Xoay mình, anh quay sang nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Như con rối bất ngờ bật ra khỏi hộp, những chuyện lặt vặt thường xuất hiện đột ngột và thọc mạnh vào xương sườn của ta vào những lúc ta thấy dễ chịu nhất.

Vụ án hình sự! Đương nhiên là vụ đó chẳng nghiêm trọng gì. Mangan chỉ muốn thêm mắm dặm muối cho câu chuyện mà thôi. Mặc dù vậy…

“Tôi cóc thèm quan tâm Gross nói gì,” Hadley tuyên bố, đập đen đét vào tay ghế. “Các người toàn nghĩ ông ấy nói đúng chỉ bởi vì ông ấy nghiên cứu kĩ lưỡng. Trong hầu hết các vụ án, những chữ trên giấy đã bị cháy không hề hiện ra…”

Rampole hắng giọng một cách ôn hòa. “Nhân tiện,” anh nói, “cụm từ ‘ba cỗ quan tài’ có ý nghĩa gì với hai người không?”

Mọi người bỗng nhiên im lặng, đúng như Rampole hi vọng. Hadley nhìn anh đầy nghi ngờ. Tay cầm cái muôi múc rượu, tiến sĩ Fell chớp mắt một cách bối rối, như thể ông mơ hồ liên hệ cụm từ đó với một loại thuốc lá hay một quán rượu vậy. Rồi mắt ông sáng lên tinh quái.

“Hê.” Ông nói, xoa hai bàn tay vào nhau. “Chà, chà, chà! Muốn dàn hòa hả? Hay là cậu định hỏi thật? Quan tài nào?”

“Chà,” Rampole nói, “tôi không nghĩ nên gọi đây là một vụ án hình sự…”

Hadley huýt sáo.

“…nhưng nó rất kì lạ, trừ khi Mangan phóng đại vấn đề lên. Tôi biết Boyd Mangan khá rõ: anh ấy sống cạnh nhà tôi mấy năm. Anh ấy là người tốt, đã đi nhiều nơi trên thế giới và có một trí tưởng tượng… quá Celtic.” Anh ngập ngừng, nhớ lại nước da ngăm đen, cách ăn mặc luộm thuộm, vẻ đẹp trai phóng đãng, tác phong chậm chạp mặc dù tính khí rất dễ bị kích động, cũng như sự hào phóng và điệu cười toét miệng không kiểu cách của Mangan. “Dù sao thì, hiện giờ anh ấy đang ở London, làm việc cho báo Evening Banner. Sáng nay tôi tình cờ gặp anh ấy ở Haymarket. Anh ấy kéo tôi vào quán bar và trút ra toàn bộ mọi thứ. Rồi…” Rampole nói, với vẻ tâng bốc, “khi anh ấy biết tôi quen tiến sĩ Fell lừng danh…”

“Vớ vẩn,” Hadley nói, nhìn Rampole một cách sắc lẹm và thận trọng. “Vào thẳng vụ án đi.”

“Chà chà chà,” tiến sĩ Fell nói, vô cùng vui sướng. “Im đi cho tôi nhờ được không, Hadley? Vụ này nghe có vẻ thú vị đấy, anh bạn trẻ của tôi. Rồi sao nữa?”

“Chà, anh ấy có vẻ rất ngưỡng mộ một giảng viên hay nhà văn mang họ Grimaud. Hơn nữa anh ta còn chết mê chết mệt con gái của Grimaud, và điều đó càng khiến anh ta ngưỡng mộ ông già đó. Ông già đó và một vài người bạn có thói quen lui tới một quán rượu gần Bảo tàng Anh, và ít hôm trước, có một việc xảy ra đã làm Mangan rúng động còn hơn bất cứ trò đùa nào mà một gã lập dị bình thường có thể gây ra. Khi ông già đó đang nói về các xác chết đội mồ sống dậy hay những chủ đề tươi sáng tương tự như vậy, thì một gã cao lớn trông có vẻ kì dị bước vào và lảm nhảm những điều vô nghĩa về việc hắn và anh em hắn có thể bật nắp quan tài và bay lơ lửng trong không khí như một cọng rơm.” (Đến đây Hadley hừ lên một tiếng đầy khinh bỉ và không thèm tập trung nữa, nhưng tiến sĩ Fell tiếp tục nhìn Rampole với vẻ tò mò.) “Thật ra, có vẻ như hắn đã buông lời đe dọa giáo sư Grimaud. Vào phút cuối, gã lạ mặt hăm dọa là anh em hắn sẽ đến gặp Grimaud sớm thôi. Điều kì lạ là, mặc dù Grimaud vẫn ngồi yên, nhưng Mangan quả quyết rằng ông ấy sợ xanh mặt.”

Hadley hừ lên một tiếng. “Đúng là khu Bloomsbury. Nhưng thế thì sao? Một kẻ với đầu óc của một mụ già…”

“Vấn đề là ở chỗ đó,” tiến sĩ Fell quắc mắt lên, gầm gừ. “Ông ta không phải người như vậy. Tôi biết Grimaud khá rõ. Hadley, anh không biết chuyện này lạ thường đến đâu trừ khi anh biết Grimaud kì quặc đến thế nào. Hừm… Nói tiếp đi, con trai. Cuối cùng thì sao?”

“Grimaud không nói gì cả. Ông ấy xem nó như một trò đùa và xua tan bầu không khí căng thẳng đó khá nhanh. Ngay sau khi kẻ lạ mặt rời khỏi, một nhạc công đường phố đến trước cửa quán rượu và biểu diễn bài ‘Chàng trai trẻ gan dạ trên Xà treo’. Cả đám đông phá lên cười và thế là bình yên trở lại. Grimaud cười và nói, ‘Chà, các quý ông, xác chết sống lại của chúng ta sẽ phải khéo léo hơn thế nhiều nếu muốn bay vào cửa sổ phòng làm việc của tôi.’

“Đến đó thì họ quên luôn kẻ lạ mặt kia. Nhưng Mangan vẫn tò mò muốn tìm hiểu xem vị khách ‘Pierre Fley’ đó là ai. Fley đã đưa cho Grimaud một tấm danh thiếp, trên đó có ghi tên của một nhà hát. Vì thế ngày hôm sau Mangan lần theo địa chỉ trên đó tìm đến nhà hát dưới danh nghĩa để viết báo. Hóa ra đó là một nhà hát xập xệ và tai tiếng ở khu East End, chuyên tổ chức các chương trình tạp kĩ vào buổi tối. Mangan không muốn chạm mặt Fley. Anh ấy tán chuyện với ông gác cửa, người giới thiệu anh ấy cho ông nghệ sĩ nhào lộn biểu diễn trước tiết mục của Fley. Gã nghệ sĩ nhào lộn này tự gọi mình – có Chúa mới biết vì sao – là ‘Pagliacci Vĩ đại’, mặc dù thật ra ông ta đến từ Ireland và là một gã Ireland rất ranh ma. Ông ta kể lại những gì mình biết cho Mangan.

“Ở nhà hát người ta gọi Fley là ‘Lão Khùng’. Họ chẳng biết gì về hắn ta, hắn cũng chẳng chịu nói chuyện với ai và lẩn mất tăm sau khi biểu diễn xong. Nhưng – đây mới là điểm quan trọng – hắn rất giỏi. Gã nghệ sĩ nhào lộn nói ông ta không hiểu vì sao những ông bầu khu West End không phát hiện ra hắn, trừ khi Fley đơn giản là không có tham vọng gì. Tiết mục của hắn là một dạng ảo thuật, chuyên về những trò khiến mọi thứ biến mất…”

Hadley lại hừ mũi chế nhạo.

“Không,” Rampole khăng khăng, “cho đến giờ theo như tôi biết thì tiết mục của hắn không phải những trò cũ rích đâu. Mangan nói hắn biểu diễn mà không cần trợ lí, và tất cả những đạo cụ của hắn đều có thể nhét vừa vào một cái hộp to bằng một cỗ quan tài. Nếu ông am hiểu về những ảo thuật gia, ông mới thấy điều này phi thường đến cỡ nào. Thật ra, hắn ta hình như bị những cỗ quan tài ám ảnh. Có lần Pagliacci Vĩ đại hỏi hắn nguyên do, và nhận dược một câu trả lời ông ta không ngờ tới. Fley quay lại, cười toét ra đến mang tai và nói: ‘Ba người chúng tôi từng bị chôn sống. Chỉ có một người thoát ra được!’ Pagliacci hỏi: ‘Và ông thoát ra bằng cách nào?’ Fley trả lời một cách bình thản, ‘Tôi không thoát ra được, ông thấy đấy. Tôi là một trong hai người không thoát ra được.’ ”

Hadley giật mạnh dái tai. Giờ thì ông có vẻ nghiêm túc.

“Nghe này,” ông nói, không thoải mái, “chuyện này có vẻ quan trọng hơn tôi nghĩ. Rõ ràng là gã này bị điên rồi. Nếu hắn có mối thù tưởng tượng nào đó – cậu nói hắn là người ngoại quốc à? Tôi sẽ gọi về Bộ Nội vụ và bảo họ tìm kiếm hắn. Sau dó, nếu hắn định gây rắc rối cho bạn của cậu…”

“Hắn đã thử gây rắc rối chưa?” tiến sĩ Fell hỏi.

Rampole quay sang phía vị tiến sĩ. “Kể từ thứ tư vừa rồi, cứ mỗi ngày lại có một lá thư được gửi tới cho giáo sư Grimaud. Ông ấy luôn xé thư mà không nói một lời nào, nhưng ai đó đã nói với con gái của ông ấy về chuyện ở quán rượu hôm trước, và cô nàng đang bắt đầu lo lắng. Cuối cùng, như giọt nước tràn li, hôm qua chính Grimaud bắt đầu cư xử kì quặc.”

“Là sao?” tiến sĩ Fell hỏi. Ông bỏ bàn tay đang che trên mắt xuống và nhìn Rampole bằng đôi mắt nhỏ sắc lẹm đến ghê người.

“Hôm qua ông ấy gọi điện cho Mangan, và nói: ‘Tôi muốn cậu có mặt ở nhà tôi vào tối thứ bảy. Có kẻ dọa sẽ đến thăm tôi.’ Tất nhiên, Mangan khuyên Grimaud nên gọi cảnh sát, nhưng ông ấy không chịu nghe. Rồi Mangan nói: ‘Nhưng đợi đã, thưa giáo sư, kẻ này rõ ràng là đã phát cuồng rồi, và có thể hắn rất nguy hiểm. Ông không chuẩn bị gì để tự vệ sao?’ Ông giáo sư trả lời: ‘Ồ có, đương nhiên. Tôi sẽ mua một bức tranh.’”

“Một… gì cơ?” Hadley ngồi thẳng lên hỏi.

“Một bức tranh để treo lên tường. Không, tôi không đùa đâu. Có vẻ như ông ta đã mua nó thật: một bức tranh phong cảnh kì quặc, với cây cối và bia mộ, và bức tranh đó to kinh khủng, phải cần tới hai người mới bê được nó lên nhà. Mà tôi nói ‘to kinh khủng’ cũng là theo lời kể lại thôi, vì tôi chưa nhìn thấy bức tranh đó. Nó do một họa sĩ tên là Burnaby vẽ. Ông ta là một thành viên trong hội và một nhà tội phạm học nghiệp dư… Dù sao thì đó cũng là ý tưởng ‘tự vệ’ của Grimaud.” Hadley lại một lần nữa nhìn Rampole với vẻ nghi hoặc, và nhắc lại lời của anh một cách cộc cằn. Cả hai đều quay sang nhìn tiến sĩ Fell. Ông thở khò khè làm rung cái cằm nung núc thịt, đầu tóc ông rối bù và hai tay khoanh lại trên cái gậy ba toong. Ông gật gù, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Khi ông nói, căn phòng bỗng trở nên bớt ấm cúng hơn hẳn.

“Cậu có địa chỉ nhà ông ấy không, chàng trai?” ông hỏi, giọng không biểu lộ cảm xúc gì. “Tốt. Khởi động xe đi thôi, Hadley.”

‘“Được, nhưng nghe này…”

“Khi một kẻ được cho là điên đe dọa một người tỉnh táo,” tiến sĩ Fell nói, lại gật gù, “thì ta có thể quan tâm hoặc khóng. Nhưng khi một người tỉnh táo bắt đầu cư xử y hệt như một kẻ điên, thì tôi biết là mình nhất định phải nhúng tay vào rồi. Cũng có thể những hành động đó không có ý nghĩa gì cả. Nhưng tôi không thích chuyện này.” Tiến sĩ Fell thở khò khè và tự nhấc mình đứng lên. “Đi nào, Hadley. Chúng ta sẽ đi xem xét căn nhà đó, hay chỉ đi ngang qua thôi cũng được.”

Một cơn gió lạnh buốt thổi qua con phố Adelphi chật hẹp. Tuyết đã ngừng rơi, chất thành từng đống trắng xóa trên mái nhà và trong những khu vườn Embankment bên dưới nữa. Ở phố Strand – sáng sủa và vắng vẻ khi các nhà hát đang biểu diễn – tuyết bị bánh xe cày xới tạo nên những cái rãnh bẩn thỉu. Đồng hồ chỉ 10 giờ 5 phút khi họ rẽ vào phố Aldwych. Hadley ngồi im lặng bên vô lăng, cổ áo dựng lên. Khi tiến sĩ Fell giục ông tăng tốc, Hadley nhìn sang Rampole rồi sau đó nhìn về phía vị tiến sĩ đang ngồi một đống ở ghế sau.

“Việc này thật vô nghĩa, ông biết đấy,” Hadley bực mình nói. “Và đây không phải là việc của chúng ta. Hơn nữa, nếu giả sử có khách đến thật, thì có lẽ bây giờ hắn cũng đã đi rồi.”

“Tôi biết,” tiến sĩ Fell nói. “Đó mới là điều khiến tôi lo ngại.”

Xe rẽ nhanh vào phố Southampton. Hadley cứ rúc còi inh ỏi như muốn thể hiện sự phản đối, nhưng xe vẫn tăng tốc. Con đường như một hẻm núi ảm đạm, dẫn đến một hẻm núi còn ảm đạm hơn: quảng trường Russell. Phía tây chỉ có vài dấu chân người và ít dấu bánh xe. Nếu biết bốt điện thoại ở phía bắc, khi vừa mới đi ngang qua đường Keppel, thì quý độc giả chắc hẳn đã từng thấy ngôi nhà nằm đối diện ngay cả khi không chú ý. Rampole trông thấy một ngôi nhà ba tầng đơn giản, rộng rãi, có nền đá sơn màu nâu xám phía dưới và gạch đỏ bên trên. Có sáu bậc thang dẫn lên cửa chính lớn có bảng tên viền đồng và nắm đấm cửa cũng bằng đồng. Trừ ánh sáng tỏa ra đằng sau những tấm màn đóng kín từ hai cửa sổ hướng ra mặt đường ở tầng trệt phía trên cửa vào tầng hầm, cả ngôi nhà đều tối đen. Đây dường như là ngôi nhà buồn tẻ nhất trong một khu dân cư cũng buồn tẻ không kém. Nhưng nó không buồn tẻ được lâu.

Một tấm màn được kéo sang một bên. Một trong hai cửa sổ sáng đèn bỗng được kéo sầm lên ngay khi họ đi ngang qua. Một người trèo lên bậc cửa, tỏa bóng lên tấm rèm, do dự, rồi nhảy xuống. Cú nhảy giúp anh ta vượt xa hàng rào nhọn. Anh ta đáp xuống vỉa hè trên một chân, trượt trên tuyết trơn, té xuống đường và suýt nữa bị xe cán phải.

Hadley đạp phanh. Ông nhảy ra khỏi xe khi nó vừa trượt vào lề đường và nắm chặt lấy cánh tay người đàn ông đó trước khi anh ta kịp đứng lên. Nhưng Rampole dã thoáng thấy gương mặt anh ta dưới ánh đèn pha.

“Mangan!” anh nói. “Cái quái gì…!”

Mangan không đội mũ cũng không mặc áo khoác. Mắt anh ta lấp lánh dưới ánh đèn như những bông tuyết trong suốt đang bám thành từng vệt trên cánh tay và bàn tay của anh ta.

“Ai đấy?” anh ta hỏi bằng giọng khàn khàn. “Không, không, tôi không sao! Thả tôi ra, khốn kiếp!” Anh giằng tay thoát khỏi cái nắm chặt của Hadley và bắt đầu chùi tay lên áo. “Ai… Ted! Nghe này. Gọi người đi. Anh cũng đi cùng nữa. Nhanh lên! Hắn khóa cửa nhốt chúng tôi trong phòng – có tiếng súng ở tầng trên – chúng tôi vừa nghe thấy. Hắn khóa cửa không cho chúng tôi ra, anh thấy đấy…”

Nhìn ra sau lưng, Rampole thấy bóng một người phụ nữ hắt lên cửa sổ. Hadley cắt ngang những lời lắp bắp đó.

“Bình tĩnh nào. Ai khóa cửa không cho cậu ra?”

“Hắn ta, Fley. Hắn vẫn ở trong đó. Chúng tôi nghe thấy tiếng súng, nhưng cánh cửa quá dày nên không phá được. Thế nào, các ông có vào không?”

Anh ta đã chạy lên bậc thềm, với Hadley và Rampole theo sau. cả hai người đều không ngờ rằng cửa chính không bị khóa, nó bật ra ngay khi Mangan vặn nắm đấm. Hành lang bên trong tối mù trừ ánh đèn trên cái bàn cuối phòng. Có cái gì đang đứng ở đó, nhìn về phía họ, với khuôn mặt kì dị hơn cả những gì họ tưởng tượng về Pierre Fley. Rồi Rampole nhận ra đó chỉ là một bộ áo giáp Nhật Bản với cái mặt nạ quỷ. Mangan vội vã chạy đến cánh cửa bên phải và xoay chìa khóa đang cắm ở cửa. Một cô gái từ bên trong mở cửa ra – chính bóng của cô đã hắt lên cửa sổ – nhưng Mangan dang tay ra giữ cô ấy lại.

Họ có thể nghe thấy từ trên nhà vọng xuống một tiếng đập cửa mạnh.

“Không sao đâu, Boyd!” Rampole hét lên, cảm thấy như tim đã dâng lên tận cổ họng vì căng thẳng. “Đây là ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley. tôi đã kể với anh về ông ấy. Ở đâu? Cái gì đấy?”

Mangan chỉ vào cầu thang. “Lên đi. Tôi sẽ lo cho Rosette. Hắn vẫn ở trên nhà. Hắn không thoát được đâu. Vì Chúa, hãy cẩn thận!”

Anh ta giật lấy một thứ vũ khí thô kệch treo trên tường trong khi những người còn lại đi lên cầu thang trải thảm dày. Tầng trên cũng tối tăm và dường như không có người. Nhưng từ hốc tường ở cầu thang đi lên tầng trên cùng có ánh sáng tỏa xuống, và những tiếng nện thình thịch giờ đã thay cho tiếng đập cửa.

“Tiến sĩ Grimaud!” một giọng nói rên rỉ. “Tiến sĩ Grimaud! Trả lời tôi đi được không?”

Rampole không có thời gian để ý đến bầu không khí nặng nề và lạ lùng của căn nhà này. Anh vội vã chạy theo Hadley lên cầu thang thứ hai, băng qua một cổng tò vò, và đi vào một hành lang rộng chạy theo chiều ngang chứ không phải chiều dọc của căn nhà. Hành lang được ốp gỗ sồi lên đến trần nhà, với ba cửa sổ có rèm chạy dọc hành lang đối diện với cầu thang, và một tấm thảm đen dày làm giảm bớt tiếng bước chân. Có hai cánh cửa đối diện nhau ở hai đầu hành lang. Cửa ở phía xa bên trái đang mở, còn cửa bên phải, chỉ cách cầu thang khoảng 3 mét, vẫn đóng kín mặc dù có một người đàn ông đang đập cửa thình thình.

Người đàn ông này quay người lại khi thấy họ đến. Mặc dù trong hành lang không có đèn đóm gì, ánh sáng vàng hắt ra từ hốc tường chỗ cầu thang – chính xác là từ bụng của bức tượng Phật lớn bằng đồng trong hốc tường – giúp họ có thể thấy rõ mọi thứ. Hiện rõ trong ánh sáng là một người đàn ông nhỏ thó đang thở hổn hển và vung vẩy tay một cách bối rối. Anh ta có mái tóc lù xù như tóc yêu tinh, cái đầu lớn đằng sau cặp kính to. Mắt anh ta chăm chú nhìn đoàn người đang đi tới.

“Boyd?” anh ta la lên. “Drayman? Có phải ông không? Ai đấy?”

“Cảnh sát đây,” Hadley nói, và sải bước đi về phía cửa khi anh ta lùi lại.

“Không mở cửa được đâu,” người đàn ông nhỏ thó vừa nói vừa bẻ ngón tay răng rắc. “Nhưng chúng ta phải vào. Cửa bị khóa trong. Có người ở trong đó với Grimaud. Rồi tiếng súng vang lên – ông ấy không trả lời. Bà Dumont đâu rồi? Gọi bà Dumont tới đây! Hắn ta vẫn ở trong đó, tôi đảm bảo với ông!”

Hadley quay lại gắt gỏng.

“Đừng nhảy chồm chồm lên nữa và đi tìm cho tôi một cái kìm. Khóa vẫn ở trong ổ, chúng ta sẽ xoay nó từ bên ngoài. Tôi cần một cái kìm. Anh có không?”

“Tôi… tôi thật sự không biết nó ở đâu…”

Hadley nhìn Rampole. “Chạy xuống chỗ hộp dụng cụ trên xe tôi. Nó ở dưới ghế sau. Lấy cái kìm nhỏ nhất cậu tìm được, và mang thêm vài cái cờ lê to nữa. Nếu gã này có súng…”

Rampole quay lại và thấy tiến sĩ Fell đi qua cái cửa tò vò, vừa đi vừa thở nặng nhọc. Vị tiến sĩ không nói gì, nhưng vẻ mặt của ông không còn hồng hào như trước nữa. Nhảy cóc ba bước một xuống cầu thang, Rampole mò mẫm rất lâu mới tìm thấy cái kìm. Khi quay lại, anh nghe thấy tiếng của Mangan phía sau cánh cửa đóng kín ở tầng trệt và âm điệu hoảng loạn của cô gái.

Hadley, vẫn rất điềm tĩnh, nhẹ nhàng luồn cái kìm vào lỗ khóa. Đôi tay khỏe khoắn của ông kẹp chặt kìm, rồi xoay về bên trái.

“Có cái gì đó chuyển động trong đó…” người đàn ông nhỏ thó nói.

“Được rồi,” Hadley nói. “Lùi lại!”

Ông đeo găng tay, chuẩn bị tinh thần, và đẩy cửa vào trong. Cửa đập mạnh vào tường làm cho dàn đèn chùm bên trong cũng rung rinh theo. Không có gì xông ra, nhưng có một thứ gì đó đang tìm cách chạy ra. Ngoài cái thứ đó ra thì căn phòng sáng trưng và trống không. Rampole nhìn thấy cái thứ đó ngập trong vũng máu, và đang cố gắng dùng tay và đầu gối lết một cách khó nhọc trên tấm thảm đen. Thứ đó nghẹn lên, lăn sang một bên, rồi nằm bất động.