- III - Mặt nạ
“Đứng nguyên ở cửa, cả hai người,” Hadley nói cộc lốc. “Và ai yếu bóng vía thì đừng có nhìn.”
Tiến sĩ Fell ì ạch bước vào. Rampole vẫn đứng ở cửa, dang hai tay ra chặn không cho ai vào. Giáo sư Grimaud rất nặng, nhưng Hadley không dám lật ông ta lại. Trong lúc cố gắng bò ra cửa, Grimaud đã mất rất nhiều máu, mặc dù ông ta đã nghiến chặt răng lại để ngăn không cho máu chảy ra. Hadley quỳ một gối xuống nhấc ông ta lên. Mặt ông ta hơi xanh dưới bộ râu đem xám, mắt ông nhắm nghiền và trũng sâu xuống. Ông ta đang cố ấn cái khăn tay ướt đẫm vào vết đạn trên ngực. Họ nghe thấy tiếng hơi thở của ông ta yếu dần. Mặc dù có gió lùa vào, không khí vẫn đặc khói thuốc súng.
“Chết rồi à?” tiến sĩ Fell thì thầm.
“Đang hấp hối,” Hadley nói. “Thấy sắc mặt của ông ấy không? Ông ấy bị đạn bắn vào phổi.” Ông quay ra nhìn người đàn ông nhỏ thó ngoài hành lang. “Gọi cấp cứu. Nhanh lên! Không cứu kịp ông ấy nữa rồi, nhưng có thể ông ấy sẽ nói gì đó trước khi…”
“Đúng,” tiến sĩ Fell nói, giọng vô cùng ảm đạm, “đó là điều chúng ta quan tâm nhất nhỉ?”
“Đó là điều duy nhất chúng ta có thể làm,” Hadley bình tĩnh trả lời. “Vâng. Lấy cho tôi mấy cái gối trên cái ghế sofa đằng kia. Phải cho ông ấy nằm thoải mái nhất có thể.” Khi Grimaud ngả đầu lên gối, Hadley cúi xuống gần và nói. “Tiến sĩ Grimaud! Tiến sĩGrimaud! Ông nghe thấy tôi nói chứ?”
Hai mi mắt nhợt nhạt run rẩy. Mắt Grimaud chỉ mở hé, di chuyển một cách kì quặc, vô lực và bối rối, như mắt của một đứa trẻ trên khuôn mặt của một người có thể được mô tả là “hiểu biết” hoặc “văn minh”. Có vẻ như ông ta không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cặp kính của ông ta treo lủng lẳng trên áo choàng mặc trong nhà. Ông ta giật giật ngón tay một cách yếu ớt như thể muốn giơ chúng lên. Bộ ngực vạm vỡ vẫn phập phồng.
“Tôi là cảnh sát đây, tiến sĩ Grimaud. Ai đã làm chuyện này? Đừng cố trả lời nếu không được. Gật đầu thôi. Có phải gã Pierre Fley không?”
Gương mặt Grimaud thoáng chút nhận thức nhưng rồi lại càng trở nên bối rối hơn. Rồi Grimaud lắc đầu một cách dứt khoát.
“Vậy thì là ai?”
Grimaud rất nóng vội, và chính sự nóng vội đã hại ông ấy. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, ông ấy lên tiếng. Môi ông mấp máy nói những từ mà sau này không ai có thể giải thích rành rọt được. Rồi ông ta ngất di.
Cửa sổ bên trái mở lên khoảng chục phân, và một cơn gió lạnh thổi vào. Rampole rùng mình. Một con người thông tuệ lúc này lại đang nằm bất động trên mấy cái gối, thê thảm như một cái bao tải rách, với cái gì đó đập đều đều ở bên trong người cho thấy rằng ông ta vẫn còn sống, nhưng không còn tỉnh táo. Có quá nhiều máu trong căn phòng yên tĩnh và sáng sủa này.
“Chúa ơi!” Rampole không nén được, “chúng ta không thể làm gì được sao?”
Hadley nói gay gắt. “Không, ngoại trừ bắt tay vào việc, ‘vẫn còn ở trong nhà?’ Đúng một lũ ngốc! Ôi, cả tôi cũng ngốc không kém.” Ông chỉ vào cửa sổ đang mở một phần. “Dĩ nhiên là gã đó đã thoát ra ngoài từ trước cả khi chúng ta vào được trong nhà. Chắc chắn bây giờ hắn không còn ở đây đâu.”
Rampole nhìn xung quanh. Khói thuốc súng bị gió thổi đi ra khỏi phòng và không còn che lấp tầm nhìn của anh nữa. Lần đầu tiên anh có thể tập trung nhìn khắp phòng.
Căn phòng hình vuông, mỗi chiều dài khoảng 4,5 mét, tường ốp gỗ sồi và dưới sàn trải thảm đen dày. Ở bức tường bên trái (đứng ở cửa nhìn vào) là một cửa sổ có rèm nhung màu nâu đang bay phần phật. Hai bên cửa sổ là hai giá sách cao. Trên nóc giá sách là các pho tượng nửa người bằng đá cẩm thạch. Ngay bên cạnh là một cái bàn làm việc chân quỳ lớn, được đặt sao cho ánh sáng rọi vào bên trái bàn. Một cái ghế đệm đã bị đẩy ra xa khỏi bàn. Trên bàn ở phía xa bên trái là một cái đèn kính khảm nhiều màu, và một cái gạt tàn bằng đồng trên đó có một điếu xì gà đã cháy hết để lại một vệt tro dài. Trên tấm lót bàn, ngoài một quyển sách bằng da dê đã gấp lại chỉ có một khay bút, và một đống giấy rời nằm dưới một bức tượng nhỏ kì lạ: một con trâu bằng đá hoàng ngọc.
Rampole nhìn sang phía đối diện với cửa sổ. Ở đó có một lò sưởi đá lớn cũng nằm giữa các giá sách và tượng. Trên lò sưởi có hai thanh liễu kiếm gác chéo nhau ở đằng sau một cái huy hiệu mà Rampole chưa xem xét kĩ ngay được. Chỉ ở phía bên đó của căn phòng, đồ đạc mới bị xáo trộn. Ngay trước lò sưởi là một cái ghế sofa bằng da màu nâu bị xô lệch và một cái ghế cũng bằng da ngã ngửa trên tấm thảm bị lật lên. Trên ghế sofa có máu.
Và cuối cùng, trên bức tường đối diện cửa phòng, Rampole thấy bức tranh. Những giá sách đã được dời đi, để lại một mảng tường trống rất rộng. Dấu hằn trên thảm cho thấy giá sách chỉ mới được dời đi vài ngày trước. Một chỗ trên tường đã dược dọn sẵn cho bức tranh, nhưng Grimaud sẽ không có cơ hội treo nó lên nữa. Bức tranh được đặt ngửa trên sàn không xa chỗ Grimaud nằm, nó đã bị rạch hai nhát bằng dao. Tính cả khung thì bức tranh cao đến 2 mét và rộng 1,2 mét. Nó to đến nỗi Hadley phải vần nó ra khoảng trống giữa phòng trước khi có thể dựng nó lên để quan sát.
“Và đây,” Hadley nói, dựng bức tranh dựa vào lưng ghế sofa, “là bức tranh ông ta mua để ‘tự vệ’ đúng không? Nhìn này, Fell, ông có nghĩ Grimaud cũng khùng chẳng kém gã Fley không?”
Đang chăm chú xem xét cái cửa sổ, tiến sĩ Fell chậm chạp quay lại. “Gã Pierre Fley,” ông vừa nói với giọng ồm ồm, vừa đẩy ngược cái mũ rộng vành ra sau, “người không gây ra tội ác này. Hừm. Hadley này, anh có thấy hung khí không?”
“Tôi không thấy. Đầu tiên là không có khẩu súng nào – một khẩu tự động cỡ nòng lớn là cái chúng ta cần tìm – và giờ còn chẳng thấy con dao nào đã cắt tan hoang bức tranh ra. Nhìn này! Tôi thấy nó giống như một bức tranh phong cảnh bình thường thôi.”
Không hẳn là bình thường, Rampole nghĩ. Ở bức tranh toát ra sức mạnh, như thể người họa sĩ đã vẽ nó trong một cơn thịnh nộ và dùng sơn dầu để nắm bắt cơn gió đang quật vào những cái cây xiêu vẹo này. Nó khiến ta cảm thấy ảm đạm và khiếp sợ. Mô tip của nó u ám, đầy sắc xanh thấp thoáng sau xám và đen, trừ dãy núi thấp màu trắng vươn lên ở xa xa. Ở phần tiền cảnh, qua những cành cây cong vẹo, ta có thể thấy ba bia mộ giữa bụi cỏ um tùm. Không hiểu sao không khí của bức tranh cũng giống như không khí trong căn phòng này: hơi xa lạ, nhưng rất khó để xác định rõ, giống như một mùi hương thoang thoảng vậy. Những tấm bia mộ đang lung lay, tùy vào góc nhìn ta dường như có thể thấy các nấm mồ bắt đầu nhô lên và đất xung quanh đã rạn nứt ra. Những vết rạch cũng không làm bức tranh biến dạng.
Rampole hơi giật mình khi nghe thấy tiếng bước chân lên cầu thang. Boyd Mangan xông vào, trông gầy và lôi thôi hơn Rampole nhớ. Cả mái tóc đen, xếp thành từng lọn rũ xuống đầu, trông cũng rối bời. Anh ta ngó nhanh xuống người đàn ông đang nằm trên sàn nhà, lông mày rậm phủ bóng lên mắt, và bắt đầu xoa lên gò má khô. Anh chàng thật ra chỉ ngang tuổi Rampole, nhưng những nếp nhăn dưới mắt khiến anh ta trông già hơn đến 10 tuổi.
“Mills đã báo cho tôi,” anh ta nói. “Có phải ông ấy…?” Anh ta gật đầu nhanh về phía Grimaud.
Hadley phớt lờ câu hỏi của anh ta. “Cậu đã gọi cấp cứu chưa?”
“Người ta sắp mang cáng đến rồi. Khu này đầy bệnh viện, nên không ai biết phải gọi điện cho chỗ nào cả. Tôi nhớ ra một ông bạn của giáo sư có một nhà dưỡng lão ở gần đây. Họ đang…” Anh ta đứng sang một bên cho hai người mặc đồng phục đi vào, và đi sau họ là một người đàn ông đầu hói, mày râu nhẵn nhụi trông có vẻ điềm tĩnh. “Đây là bác sĩ Peterson… ờm… họ là cảnh sát. Và đó là bệnh nhân của ông.”
Bác sĩ Peterson hít một hơi khiến má ông hóp lại rồi vội vã đi vào. “Cáng, các chàng trai,” ông ta nói, sau khi khám nhanh. “Tôi không lấy nó ra ở đây. Đỡ ông ấy nhẹ thôi.” Ông ấy nhíu mày và nhìn quanh một cách tò mò khi cáng được mang ra.
“Có cơ hội nào không?” Hadley hỏi.
“Ông ấy có thể còn vài tiếng, không hơn, và có lẽ là ít hơn. Nếu ông ấy không khỏe như trâu thì đã chết lâu rồi. Có vẻ như trong lúc gắng sức, ông ấy đã làm cho tổn thương trong phổi trở nên nặng hơn – xé toạc nó ra.” Bác sĩ Peterson cho tay vào túi. “Ông sẽ cho bác sĩ pháp y đến chứ? Đây là danh thiếp của tôi. Tôi sẽ giữ viên đạn khi nào lấy được nó ra. Tôi đoán là một viên cỡ 38, bắn ra từ khoảng 3 mét. Tôi có thể hỏi đã xảy ra chuyện gì không?”
“Giết người,” Hadley nói. “Cử một y tá ở bên ông ấy, và nếu ông ấy có nói gì, hãy ghi lại từng từ một.” Khi ông bác sĩ vội vã đi ra ngoài, Hadley viết nguệch ngoạc vào sổ tay và xé tờ giấy đưa cho Mangan. “Cậu đã bình tĩnh lại chưa? Tốt. Tôi muốn cậu gọi điện cho đồn cảnh sát phố Hunter với chỉ dẫn này, họ sẽ liên lạc với sở. Kể lại cho họ sự việc nếu họ yêu cầu. Bác sĩ Watson sẽ đến nhà dưỡng lão đó, và những người còn lại đến đây… Ai ở ngoài cửa thế?”
Người đang đứng ở cửa phòng chính là chàng trai trẻ lúc nãy đã đứng đập cửa khi họ xông lên. Anh ta nhỏ bé, gầy gò, phần thân trên to hơn hẳn phần thân dưới. Dưới ánh sáng đèn, Rampole có thể thấy rõ mái tóc dày đỏ thẫm như của một con yêu tinh. Anh thấy cặp mắt nâu đất được phóng đại phía sau chiếc kính gọng vàng, và khuôn mặt xương xẩu bạnh ra hai bên cùng cái miệng lớn và rộng mấp máy nhịp nhàng khi nói, để lộ ra hàm răng thưa, và đôi môi cong lên như môi cá. Cái miệng trông có vẻ rất linh hoạt do nói nhiều. Mỗi khi anh ta nói, trông anh ta như thể đang phát biểu trước đám đông. Đầu ngẩng lên cúi xuống như đang đọc bài viết sẵn từ giấy, anh ta thường nhìn vào một điểm phía trên đầu đám đông tưởng tượng, và nói với một giọng trầm bổng the thé. Nếu có ai đoán anh ta có bằng cử nhân Vật lí và có xu hướng theo chủ nghĩa xã hội, thì người đó đúng. Anh ta mặc quần áo có họa tiết ca rô đỏ, và đan các ngón tay vào nhau đưa ra trước, vẻ kinh hãi trước đó của anh ta giờ đã được thay bằng một sự bình tĩnh không thể nhìn thấu được. Anh ta cúi nhẹ đầu chào và trả lời một cách lãnh đạm: “Tôi là Stuart Mills. Tôi là, hay đã từng là, thư kí của tiến sĩ Grimaud.” Đôi mắt to của anh ta đảo một vòng. “Tôi có thể hỏi điều gì đã xảy ra với… kẻ thủ ác?”
“Chúng tôi đoán chừng,” Hadley nói, “là hắn đã thoát ra ngoài qua cửa sổ trong khi chúng ta chắc chắn hắn không thể nào đi qua cửa chính được. Giờ, anh Mills…”
“Thứ lỗi cho tôi,” giọng nói trầm bổng đó hờ hững chen ngang. “Nếu làm được thế, chắc hẳn hắn phải là người phi thường. Các ông đã khám xét cửa sổ chưa?”
“Anh ta nói đúng, Hadley,” tiến sĩ Fell nói, thở khò khè một cách nặng nhọc. “Hãy nhìn đi! Vụ này bắt đầu làm tôi thấy lo lắng. Tôi nói chân thành với ông, nếu gã này không chạy ra theo đường cửa chính…”
“Hắn không đi đường đó.” Mills tuyên bố, và mỉm cười, “Tôi không phải là nhân chứng duy nhất có thể khẳng định điều đó. Tôi đã quan sát từ đầu đến cuối.”
“… thì chắc hắn phải nhẹ hơn không khí thì mới ra ngoài qua đường cửa sổ được. Mở cửa sổ ra và nhìn xem. Hừm… Đợi dã! Chúng ta phải khám xét căn phòng trước.”
Không có ai trốn trong phòng. Sau đó, Hadley vừa gầm gừ vừa đẩy cửa sổ lên. Tuyết bám vào khung cửa sổ và lấp kín ngưỡng cửa bên ngoài, nguyên vẹn và không có dấu tích nào của con người. Rampole nhoài người ra ngoài và nhìn xung quanh.
Mặt trăng rực sáng ở hướng tây, và mọi chi tiết đều hiện rõ như in. Từ cửa sổ xuống đến mặt đất phải hơn 15 mét, rìa tường là những tảng đá ướt và trơn trượt. Ngay bên dưới là sân sau được bao quanh bởi tường thấp, như các nhà khác trong dãy phố này. Tuyết ở dưới sân, cũng như ở tất cả các sân khác mà họ có thể thấy được, và cả ở trên bờ tường, đều vẫn còn nguyên, không có dấu hiệu cho thấy có ai đó đã giẫm lên. Các tầng dưới không có cửa sổ nào khác ở bên này. Chỉ có tầng này mới có cửa sổ, và cái cửa gần với cái cửa sổ này nhất nằm ở hành lang bên trái, cách đó phải hơn 9 mét. Cửa sổ gần nhất bên phải thì cũng ở nhà bên cạnh, với khoảng cách tương tự. Trước mặt là một loạt các sân sau của những ngôi nhà nằm cạnh nhau ở rìa quảng trường, khoảng cách đến ngôi nhà gần nhất là hơn vài trăm mét. Cuối cùng, bên trên cửa sổ là đường bao bằng đá, trải dài 4 mét rưỡi lên tận nóc nhà. Đường bao này dốc đến nỗi dù có dùng tay bám hay buộc dây thừng vào cũng không leo lên được.
Nhưng Hadley vẫn nghển cổ ra ngoài chỉ trỏ. “Mặc dù vậy, vẫn có thể,” ông tuyên bố. “Nhìn kìa! Cứ cho là đầu tiên hắn đã buộc dây thừng lên ống khói hay gì đó, và thả nó lơ lửng ngoài cửa sổ khi hắn trèo vào phòng. Sau đó hắn giết Grimaud, nhảy ra ngoài, leo lên mái nhà, bò lên tháo dây thừng khỏi ống khói, và chuồn đi. Chắc chắn sẽ để lại rất nhiều dấu vết, đúng thế. Nên…”
“Đúng,” giọng Mills vang lên. “Vì thế tôi phải nhấn mạnh là không có dấu vết nào.”
Hadley nhìn xung quanh. Mills vốn đang xem xét lò sưởi, nhưng bây giờ anh ta đang quay mặt về phía họ, chìa hàm răng thưa và nở nụ cười dửng dưng, mặc dù ánh mắt của anh ta trông có vẻ lo lắng và mồ hôi lấm tấm trên trán.
“Ông thấy đấy,” anh ta tiếp tục, giơ ngón tay trỏ lên, “khi vừa mới nhận ra rằng kẻ đeo mặt nạ đó đã biến mất…”
“Kẻ gì cơ?” Hadley hỏi.
“Kẻ đeo mặt nạ. Tôi nói đã rõ chưa?”
“Chưa. Lát nữa chúng ta sẽ làm rõ vài vấn đề, anh Mills. Còn bây giờ, chuyện cái mái nhà thì sao?”
“Chẳng có bất kì dấu vết gì trên đó cả, ông thấy đấy,” Mills trả lời, đôi mắt mở to và sáng lên. Đây là một thói quen nữa của anh ta: cười nói như thể đang tràn đầy cảm hứng, mặc dù đôi khi trông anh ta có vẻ ngờ nghệch khi làm thế. Anh ta lại giơ ngón tay trỏ lên. “Tôi nhắc lại, thưa các quý ông, khi tôi nhận ra rằng kẻ đeo mặt nạ đã biến mất, tôi đã thấy trước khó khăn cho bản thân…”
“Tại sao?”
“Bởi chính bản thân tôi đã theo dõi rất kĩ cửa chính, và tôi buộc phải cam đoan rằng hắn không đi ra bằng cửa đó. Cũng tốt. Do đó ta có thể suy luận rằng hắn chắc chắn đã trốn ra ngoài bằng cách (a) leo dây thừng lên mái nhà, hoặc (b) trèo theo ống khói lên mái nhà. Nó cũng như một phép toán đơn giản thôi. Nếu PQ = (p + ɑ)(q + β), từ đó rõ ràng là PQ = pq + pβ + qɑ + ɑβ.”
“Thật thế ư?” Hadley nói một cách kiềm chế. “Rồi sao nữa?”
“Ở cuối hành lang các ông thấy – đúng ra là các ông sẽ thấy nếu cửa mở,” Mills tiếp tục, chắc chắn như đinh đóng cột, “có phòng làm việc của tôi. Từ đó có một cánh cửa dẫn lên gác xép, và trên đó có một cửa sập thông lên mái nhà. Từ căn phòng này, chỉ cần mở cửa sập là tôi có thế thấy rõ ràng cả hai bên mái nhà. Không hề có vết tích gì trên tuyết cả.”
“Anh không leo lên đó chứ?” Hadley hỏi.
“Không. Nếu có ra tôi cũng không đứng vững nổi. Thật ra, tôi thấy dù thời tiết có khô ráo thì cũng không thể thực hiện điều đó được.”
Nét mặt tiến sĩ Fell trở nên hớn hở. Trông ông như đang cố cưỡng lại ham muốn được cầm anh chàng bí ẩn này lên và đung đưa anh ta trước mặt như một món đồ chơi tinh xảo.
“Và sau đó thì sao, chàng trai của tôi?” ông ân cần hỏi. “Ý tôi là, anh nghĩ sao khi đẳng thức của anh tan tành mây khói?”
Mills vẫn tươi cười thâm thúy, không mảy may lung lay. “À, điều đó còn phải xem xét. Tôi là một nhà toán học, thưa các ông. Tôi không bao giờ cho phép mình nghĩ ngợi lung tung.” Anh ta khoanh tay lại. “Nhưng tôi muốn các quý ông chú ý đến điều đó, dù cho tôi có khẳng định rằng hắn không thoát ra bằng cửa chính.”
“Đấy là trong trường hợp anh đã kể lại chính xác những gì đã diễn ra ở đây đêm nay,” Hadley nhấn mạnh, đưa tay lên vuốt trán. Ông ngồi xuống bàn và lấy quyển sổ ghi chép của mình ra. “Bình tĩnh nào! Từ từ chúng ta sẽ nói đến chuyện đó. Anh đã làm việc cho giáo sư Grimaud được bao lâu rồi?”
“Ba năm và tám tháng,” Mills nói, răng va vào nhau lập cập. Rampole nhận thấy rằng vì thấy lời khai của mình được ghi lại trong cuốn sổ mang tính pháp lí, nên anh ta ép mình phải đưa ra những câu trả lời ngắn gọn.
“Nhiệm vụ của anh là gì?”
“Một phần là xử lí thư từ và làm nhiệm vụ của một thư kí nói chung. Phần lớn là hỗ trự ông ấy trong việc chuẩn bị công trình nghiên cứu mới, Nguồn gốc và lịch sử của những hiện tượng mê tín dị doan Trung Âu, cùng với…”
“Được rồi. Có bao nhiêu người sống trong ngôi nhà này?”
“Ngoài tôi và tiến sĩ Grimaud ra thì còn có 4 người khác.”
“Được rồi, được rồi, sao nữa?”
“À, tôi hiểu rồi! Ông muốn hỏi tên họ. Rosette Grimaud, con gái của tiến sĩ. Bà quản gia Dumont. Một người bạn già của tiến sĩ Grimaud tên là Drayman. Một cô hầu gái lo mọi việc trong nhà mà tôi chưa biết họ, nhưng tên cô ta là Annie.”
“Có bao nhiêu người ở đây tối nay khi sự việc xảy ra?”
Mills chìa mũi giày ra trước, lấy thăng bằng, rồi chăm chú xem xét nó – lại một thói quen khác của anh ta. “Điều đó thì rõ ràng là tôi không thể nói một cách chắc chắn được. Tôi sẽ kể cho các ông nghe những gì tôi biết.” Anh ta đung đưa người từ trước ra sau. “Lúc bữa ăn tối kết thúc, khoảng 7 rưỡi tối, tiến sĩ Grimaud lên đây để làm việc. Đây là thói quen của ông ấy vào mỗi tối thứ bảy. Ông ấy bảo tôi rằng ông không muốn bị làm phiền cho đến 11 giờ, đó cũng là một thói quen bất di bất dịch của tiến sĩ. Mặc dù vậy, ông nói…” những giọt mồ hôi bỗng nhiên lại xuất hiện trên trán chàng trai trẻ này, mặc dù anh ta đã cố giữ vẻ điềm tĩnh, “mặc dù vậy, ông ấy nói rằng có thể ông ấy sẽ có khách đến thăm vào khoảng 9 rưỡi.”
“Ông ấy có nói người khách đó là ai không?”
“Ông ấy không nói.”
Hadley nghiêng người về phía trước. “Thôi nào, anh Mills! Anh không biết ông ấy đang bị đe dọa à? Anh đã nghe chuyện xảy ra vào tối thứ tư chưa?”
“Tôi… tôi có trước thông tin về việc đó, tất nhiên rồi. Thật ra, chính tôi cũng có mặt ở quán Warwick lúc sự việc xảy ra. Tôi cho là anh Mangan đã kể với các ông?”
Anh ta ngắc ngứ thuật lại câu chuyện một cách sinh động đáng kinh ngạc. Trong lúc đó, tiến sĩ Fell đã đi cà nhắc ra chỗ khác và đang thực hiện một trong những cuộc khám xét của ông trong đêm hôm đó. Ông có vẻ hứng thú nhất với cái lò sưởi. Rampole đã biết những điểm chính của chuyện xảy ra ở quán rượu nên thay vì nghe Mills kể, anh quan sát tiến sĩ Fell. Vị tiến sĩ xem xét những vết máu bắn lên phía trên và tay ghế bên phải của chiếc sofa. Trên thảm lò sưởi còn nhiều vết máu khác, mặc dù rất khó nhìn trên thảm đen. Có một cuộc vật lộn ở đó chăng? Vậy mà, Rampole nhìn thấy, những que cời lửa vẫn đặt ngay ngắn trên giá, ở vị trí mà nếu có một cuộc vật lộn xảy ra thì chắc chắn chúng sẽ phải va vào nhau kêu loảng xoảng. Một đống lửa than nhỏ đã gần như bị dập tắt dưới một đống giấy cháy đen.
Tiến sĩ Fell lẩm bẩm một mình. Ông ngẩng lên để xem xét cái huy hiệu. Với Rampole, một người không chuyên nghiên cứu huy hiệu, nó trông như một cái khiên được chia làm ba phần màu đỏ, xanh nước biển và bạc, với một con đại bàng đen và trăng lưỡi liềm ở phần trên, còn ở phần dưới là những hình thù trông giống như những con xe trên bàn cờ vua. Mặc dù màu sắc đã sạm lại, nhưng cái huy hiệu vẫn nổi bật vẻ thô kệch trong căn phòng thô kệch một cách kì quặc. Tiến sĩ Fell làu bàu.
Nhưng ông không nói gì cho đến khi bắt đầu xem xét giá sách bên trái lò sưởi. Như một con mọt sách đích thực, ông nhảy sổ vào. Rồi ông bắt đầu kéo từng quyển một ra, liếc qua trang bìa, rồi lại đẩy vào. Có vẻ như ông nhắm đến những quyển trông có vẻ nhảm nhí nhất trên giá. Ông làm bụi bốc lên, và gây ồn ào đến nỗi làm phiền đến cả Mills đang ngồi kể chuyện. Rồi ông đứng lên và vẫy mấy quyển sách về phía mọi người một cách hăm hở.
“Tôi nói này, Hadley, tôi không muốn chen ngang, nhưng chi tiết này rất kì lạ và nói lên nhiều điều đây. Gabriel Dobrentei, Yorick és Eliza levelei, hai tập. Shakspere Minden Munkái chín tập gồm các phiên bản khác nhau. Và ở đây có viết cái tên…” Ông dừng lại. “Hừm. Ha. Anh có biết gì về những quyển sách này không, anh Mills? Chúng là những quyển duy nhất trong tủ không được phủi bụi.”
Mills giật mình. “Tôi… tôi không biết. Tôi tin đó là những quyển sách tiến sĩ Grimaud định đưa lên gác xép. Tối hôm qua, khi chúng tôi dọn tủ sách để lấy chỗ treo bức tranh, ông Drayman đã thấy chúng đằng sau những quyển khác… Tôi nói đến đâu rồi nhỉ, ông Hadley? À, đúng rồi! Khi tiến sĩ Grimaud nói với tôi rằng ông ấy có thể có khách đến thăm, tôi chẳng có lí do nào để nghĩ rằng vị khách đó lại là người đàn ông ở quán rượu Warwick. Ông ấy không nói thế.”
“Vậy chính xác là ông ấy đã nói gì?”
“Tôi… ông thấy đấy, sau bữa tối tôi đang làm việc trong thư viện lớn ở tầng dưới. Ông ấy bảo tôi lên phòng làm việc của tôi ở tầng trên vào lúc 9 rưỡi, để cửa mở và “để mắt sang” bên này, phòng khi…”
“Phòng khi gì?”
Mills hắng giọng. “Ông ấy không nói cụ thể.”
“Ông ta nói như thế,” Hadley ngắt lời, “mà anh vẫn không mảy may nghi ngờ ai sẽ đến à?”
“Tôi nghĩ,” tiến sĩ Fell chen vào, thở khò khè, “tôi có thể giải thích điều anh bạn trẻ này muốn nói. Chắc anh ấy phải đấu tranh tư tưởng ghê lắm. Ý anh ấy là mặc dù có lí trí kiên định của một cử nhân khoa học trẻ tuổi nhất, mặc dù được bảo vệ bởi cái khiên chắc chắn nhất được hình thành từ công thức x2 + 2xy + y2, trí tưởng tượng của anh ấy vẫn đủ bay bổng để khiến anh ấy lo lắng trước sự việc xảy ra ở quán rượu Warwick. Và anh ấy không muốn biết nhiều hơn những gì cần biết cho công việc của anh ấy. Đúng không?”
“Tôi không có ý đó, thưa các ông,” Mills phản bác lại, nhưng anh ta trông có vẻ đã bớt căng thắng hơn. “Động cơ của tôi không liên quan gì đến những gì đã thực sự xảy ra. Ông thấy là tôi đã thực hiện đúng như yêu cầu. Vào đúng 9 giờ 30 tôi lên nhà…”
“Vậy những người khác ở đâu? Bình tĩnh nào!” Hadley thúc giục. “Đừng nói là anh không thể khẳng định chắc chắn, cứ nói cho chúng tôi biết anh nghĩ họ ở đâu.”
“Theo như những gì tôi biết, cô Rosette Grimaud và anh Mangan đang chơi bài trong phòng khách. Ông Drayman bảo tôi là sẽ đi ra ngoài, tôi không thấy ông ấy.”
“Còn bà Dumont?”
“Tôi gặp bà ấy khi đi lên đây. Bà ấy đi ra với cốc cà phê sau bữa tối của tiến sĩ Grimaud, đúng ra là những gì còn thừa… Tôi vào phòng làm việc của mình, để cửa mở, và kéo bàn máy đánh chữ ra để có thể nhìn ra hành lang khi đang làm việc. Vào đúng…” anh ta nhắm mắt, rồi lại mở mắt ra, “10 giờ kém 15 phút, tôi nghe thấy tiếng chuông cửa. Chuông điện đặt trên tầng hai và tôi nghe thấy rất rõ.”
“Hai phút sau bà Dumont lên cầu thang. Bà ấy mang một trong những cái khay dùng để đặt danh thiếp. Bà ấy chuẩn bị gõ cửa thì tôi giật mình khi thấy… ờm… một người đàn ông cao lớn đi lên cầu thang ngay sau lưng bà ấy. Bà ấy quay lại và nhìn thấy hắn ta. Bà ấy thốt lên điều gì đó mà tôi không thể nhắc lại nguyên văn, nhưng mục đích là dể hỏi tại sao hắn ta không đợi dưới nhà, và bà ấy có vẻ bị kích động. Người… ờm… đàn ông cao lớn đó không trả lời. Hắn ta bước tới cánh cửa và chậm rãi kéo cổ áo khoác xuống, bỏ mũ ra, và đút mũ vào trong túi áo khoác ngoài. Tôi nghĩ là hắn ta đã cười, rồi bà Dumont hét lên gì đó, co người lại dựa lưng vào tường, và vội vã mở cửa. Tiến sĩ Grimaud xuất hiện ở ngưỡng cửa, rõ ràng là cảm thấy bực mình, ông ấy nói nguyên văn là, ‘Làm cái quái quỷ gì mà om sòm thế?’ Rồi ông ấy đứng chết lặng, nhìn người đàn ông cao lớn, và nói, ‘Chúa ơi, ngươi là ai?’ ”
Giọng nói trầm bổng của Mills trở nên nhanh hơn. Nụ cười của anh trở nên tái mét, mặc dù anh ta vẫn cố tỏ ra tươi tỉnh.
“Bình tĩnh nào, anh Mills. Anh có nhìn rõ người đàn ông cao lớn đó không?”
“Tôi nhìn khá rõ. Khi hắn ta đứng dưới vòm cầu thang, hắn ta có liếc về phía tôi.”
“Rồi sao?”
“Cổ áo hắn ta dựng lên, và hắn ta đội một cái mũ kê pi. Nhưng tôi được trời phú cho cái gọi là chứng “viễn thị”, thưa các quý ông, và tôi có thể quan sát rõ hình dáng và màu sắc của mũi và miệng hắn ta. Hắn ta đeo một cái mặt nạ trẻ con, loại mặt nạ được làm bằng giấy bồi. Tôi nhận thấy rằng nó dài, có màu hồng và có miệng rất rộng. Và theo như tôi quan sát thì hắn ta không tháo nó ra. Tôi nghĩ tôi có thể khẳng định…”
“Thường thì anh luôn đúng mà, phải vậy không?” một giọng nói lạnh lẽo vang lên từ ngoài cửa. “Đó là một cái mặt nạ. Và rất tiếc là hắn không tháo nó ra.”