- VII - Vị khách đeo mặt nạ Guy Fawkes
“Tất nhiên giờ thì chúng tôi biết đó không phải Pettis,” Mangan tiếp tục, giận dữ lấy bật lửa ra châm thuốc cho cô gái, “Pettis chỉ cao khoảng 1,6 mét. Ngoài ra, giờ khi nhớ lại, hắn bắt chước Pettis cũng không giống lắm. Nhưng hắn ta gọi rất to và sử dụng những từ Pettis thường dùng…”
Tiến sĩ Fell cau mặt. “Nhưng cậu không thấy lạ khi một người sưu tập truyện ma lại ăn mặc như một kẻ đi tham dự lễ hội ngày Năm tháng Mười một à? Ông ta là người thích dùa à?” Rosette Grimaud giật mình ngước lên. Cô ta cầm ngang điếu thuốc và ngồi im, cứ như đang chỉ gì đó, rồi quay lại nhìn Mangan. Khi cô ta quay lại, đôi mắt dài của cô ta lóe lên, hơi thở sâu hơn vì giận dữ, hay tàn nhẫn, hay vì cô ta đã nhận ra điều gì đó. Họ có chung một suy nghĩ – và Mangan lo lắng về suy nghĩ đó nhiều hơn. Anh ta trông có vẻ như một người luôn cố làm người tốt và sống ôn hòa với thế giới, nếu thế giới cho phép anh ta làm thế. Rampole có cảm giác là bí mật này chẳng hề liên quan gì đến Pettis, bởi Mangan ngắc ngứ trước khi trả lời câu hỏi của tiến sĩ Fell.
“Thích đùa ư?” anh ta lặp lại, và đưa tay vuốt mái tóc đen và cứng một cách hoang mang. “Ô! Pettis ư? Chúa ơi, không!
Ông ấy nghiêm túc và kiểu cách đúng như người ta đồn đại. Nhưng các ông phải hiểu, chúng tôi không thấy mặt hắn ta. Hoàn cảnh lúc đó thế này: Chúng tôi ngồi ở phòng khách kể từ sau khi ăn tối…”
“Dừng lại một chút,” Hadley ngắt lời. “Cửa ra hành lang có mở không?”
“Không. Đóng hết rồi,” Mangan nói với giọng dè dặt, rồi cựa mình. “Ông không ngồi trong một căn phòng có gió lùa trong một buổi tối tuyết rơi mà lại để cửa mở, trừ khi trong nhà có hệ thống sưởi ấm trung tâm. Tôi biết chúng tôi có thể nghe thấy tiếng chuông nếu có ai đến. Ngoài ra… nói thật lòng, tôi không nghĩ là sẽ có chuyện gì xảy ra. Trong bữa ăn tối, giáo sư khiến chúng tôi nghĩ mọi chuyện chỉ là một trò lừa bịp, hoặc là nó đã được hòa giải bằng cách nào đó, hoặc là ông ấy đã bị kích động vì một chuyện không đâu…”
Hadley nhìn anh ta bằng đôi mắt sáng và cứng rắn. “Cô cũng có cảm giác đó hả cô Grimaud?”
“Vâng, có vẻ là như vậy… tôi không biết nữa! Rất khó để biết chính xác,” cô ta trả lời, với một sự giận dữ (hay nổi loạn) yếu ớt, “rằng ông khó chịu hay thích thú hay giả vờ cả hai. Cha tôi cỏ một khiếu hài hước rất lạ, và ông thích gây kịch tính. Ông coi tôi như đứa trẻ. Tôi không nghĩ mình đã từng nhìn thấy ông sợ hãi bao giờ, nên tôi không chắc. Nhưng trong ba ngày qua, ông cư xử cực kì lạ lùng đến nỗi khi Boyd kể cho tôi về gã ở quán rượu đó…” Cô ta nhấc vai lên.
“Ông ấy cư xử lạ lùng nghĩa là sao?”
“À, ví dụ như lẩm bẩm một mình. Và bất thần nổi khùng lên vì những chuyện vặt vãnh. Rất hiếm khi ông như thế. Rồi ông cũng lại cười quá nhiều. Nhưng chủ yếu là những lá thư đó. Ngày nào chúng cũng được gửi đến cho ông. Đừng hỏi tôi bên trong có gì, ông đã đốt hết rồi. Thư đựng trong phong bì loại một xu bình thường… đáng ra tôi sẽ không để ý đến chúng nếu không vì thói quen của ông.” Cô ta ngập ngừng. “Có lẽ các ông sẽ hiểu. Cha tôi thuộc kiểu người không thể đọc thư khi có sự có mặt của người khác mà không nói ngay về người gửi hoặc nội dung bức thư. Ông thường nổi khùng lên: ‘Bọn lừa đảo khốn nạn!’ hoặc ‘Đồ láo xược!’ hay nhẹ nhàng hơn: ‘Chà, chà, đây là thư của ông nọ bà kia gửi!’ – với giọng ngạc nhiên, cứ như ông nghĩ Liverpool hay Birmingham ở trên mặt trăng vậy. Tôi không biết các ông có hiểu…”
“Chúng tôi hiểu. Nói tiếp đi.”
“Nhưng khi nhận được những lá thư… những thứ này, ông không nói gì cả. Ông còn không hề động đậy một cơ bắp. Vậy mà, các ông thấy đấy, ông không công khai tiêu hủy lá thư nào trừ lá thư nhận được trong bữa ăn sáng hôm qua. Vừa liếc qua là ông đã vò nát nó, đứng phắt dậy, bước đến lò sưởi và ném nó vào đó với vẻ trầm tư. Đúng lúc đó dì…” Rosette liếc nhanh Hadley, nhận ra mình đang ngập ngừng, rồi ấp úng hẳn “Bà, ồ, ý tôi là dì Ernestine! Đúng lúc đó dì hỏi ông có muốn ăn thêm thịt lợn xông khói không. Bỗng nhiên ông xoay người lại và hét lên, ‘Xuống địa ngục đi!’ Hành động đó bất ngờ đến nỗi chúng tôi chưa kịp định thần thì ông ấy đã đùng đùng bước ra khỏi phòng, càu nhàu rằng không ai để cho ông được yên. Trông ông rất ác. Cũng chính hôm đó ông mang bức tranh đó về. Khi về ông lại thoải mái, đi lại ồn ào, cười khúc khích, và giúp người lái xe và một người khác mang nó lên tầng. Tôi… tôi không muốn các ông nghĩ…” Rõ ràng những kí ức đang tràn về trong đầu cô Rosette phức tạp này. Cô ta bắt đầu nghĩ ngợi, và điều đó rất tệ. Cô ta bổ sung, giọng run rẩy, “tôi không muốn các ông nghĩ là tôi không thích ông.”
Hadley lờ đi câu nói đó. “Ông ấy có bao giờ nhắc đến gã ở quán rượu không?”
“Có, khi tôi hỏi ông, nhưng ông có vẻ không thoải mái. Ông nói đó là một trong những gã thùng rỗng kêu to thường đe dọa ông mỗi khi ông chế giễu… lịch sử của phép thuật. Tất nhiên tôi biết mọi việc không chỉ đơn thuần là như thế.”
“Tại sao, cô Grimaud?”
Trong lúc dừng lại cô ta nhìn ông không chớp mắt. “Vì tôi cảm thấy chuyện này có thật. Và vì tôi thường tự hỏi liệu có chuyện gì đó trong quá khứ của ông lại có thể đem đến cho ông hậu quả như thế này.”
Câu nói đó là một thách thức trực tiếp. Trong sự im lặng kéo dài họ có thể nghe thấy tiếng cót két ở xa xa và tiếng chân nặng nề trên mái nhà. Cảm xúc trên mặt cô gái thay đổi như ánh lửa: sợ hãi, hay căm ghét, hay đau khổ, hay nghi ngờ. Cảm giác hoang dã đã quay lại, bộ áo lông chồn đáng ra phải là lông báo. Cô gái ngồi vắt chân và tựa lưng, ngọ nguậy trên ghế một cách khêu gợi. Cô ta nghiêng đầu về phía sau dựa vào lưng ghế, làm cho ánh lửa lập lòe ở cổ họng và đôi mắt đang nhắm hờ của cô. Cô ta nhìn họ với một nụ cười mơ hồ và bất động, đôi gò má chìm trong bóng tối. Mặc dù vậy, Rampole thấy cô đang run rẩy. Tại sao, bỗng nhiên khuôn mặt của cô ta trông có vẻ rộng hơn?
“Thế nào?” cô giục.
Hadley có vẻ hơi ngạc nhiên. “Đem lại hậu quả cho ông ta? Tôi không hiểu lắm. Cô có lí do nào để nghĩ như vậy không?”
“Ồ, không có lí do nào cả! Tôi không nghĩ có lí do, thật đấy… Chỉ là những tưởng tượng…” Cô ta phủ nhận rất nhanh, nhưng bộ ngực của cô đã bớt phập phồng. “Có lẽ là vì sống với những sở thích của cha tôi. Và mẹ tôi… bà ấy đã chết, các ông biết đấy, qua đời khi tôi còn khá nhỏ… người ta cho rằng mẹ tôi có trực giác.” Rosette lại nhấc điếu thuốc lên. “Nhưng ông đang hỏi gì tôi cơ?”
“Trước hết là về chuyện tối nay. Nếu cô nghĩ tìm hiểu quá khứ của cha cô có thể giúp ích gì, Sở Cảnh sát chắc chắn sẽ làm theo đề nghị của cô.”
Cô ta kéo điếu thuốc ra khỏi môi.
“Nhưng,” Hadley tiếp tục, vẫn với giọng đều đều, “hãy nói tiếp câu chuyện cậu Mangan đang kể. Hai người đang ở trong phòng khách sau bữa tối, và cửa ra hành lang bị đóng. Nào, giáo sư Grimaud có nói cho hai người biết là ông ta đợi vị khách nguy hiểm này đến lúc mấy giờ không?”
“Ờ… có,” Mangan nói. Anh ta lấy khăn tay ra lau trán. Trong ánh sáng lò sưởi, nhìn từ một phía, ta có thể thấy rất nhiều nếp nhăn nhỏ trên vầng trán của khuôn mặt gầy gò, hốc hác và góc cạnh của Mangan. “Đó cũng là lí do tại sao tôi không nhào ra xem ai. Hắn đến quá sớm. Giáo sư nói là 10 giờ, và gã này đến lúc 10 giờ kém 15.”
“10 giờ. Tôi hiểu. Cậu có chắc ông ấy nói thế không?”
“Ờ… Có chứ! Ít ra là tôi nghĩ thế. Khoảng 10 giờ. Có đúng không. Rosette?”
“Tôi không biết. Ông ấy không nói gì với tôi cả.”
“Tôi hiểu. Tiếp tục đi, cậu Mangan.”
“Chúng tôi mở đài lên. Thật sai lầm, vì tiếng nhạc quá to. Và chúng tôi ngồi chơi bài bên lò sưởi. Rồi tôi nghe thấy tiếng chuông cửa. Tôi nhìn lên đồng hồ trên lò sưởi, và thấy là 10 giờ kém 15. Tôi đứng lên thì nghe tiếng cửa trước mở. Rồi tôi nghe giọng bà Dumont nói gì đó như, ‘Đợi đấy, để tôi xem,’ và cửa vừa mới sập lại tôi đã gọi ra, ‘Ai ở ngoài kia đấy?’ Nhưng tiếng đài quá to khiến tôi phải ra tắt nó. Và sau đó tôi nghe tiếng Pettis – rất tự nhiên cả hai chúng tôi đều nghĩ đó là Pettis – gọi vào: ‘Chào các bạn trẻ! Pettis đây. Đến gặp Thống đốc mà cần lễ nghi thế này để làm gì? Tôi sẽ lên phòng ông ấy.’”
“Đó chính xác là những lời hắn ta nói.”
“Vâng. Pettis luôn gọi tiến sĩ Grimaud là Thống đốc, không người nào khác có gan gọi như thế, trừ Burnaby, và Burnaby gọi ông ấy là Ông nội… Nên chúng tôi nói, ‘Được thôi.’ và không quan tâm đến hắn ta nữa. Chúng tôi lại ngồi xuống. Nhưng tôi để ý là đã gần đến 10 giờ, và tôi bắt đầu cảnh giác và cảm thấy bồn chồn, vì sắp đến 10 giờ…”
Hadley vẽ gì đó lên lề cuốn sổ tay.
“Vậy người tự nhận mình là Pettis đó,” ông đăm chiêu, “nói chuyện qua cửa mà không nhìn thấy mặt hai người? Cậu nghĩ tại sao ông ta lại biết hai người đang ở trong đó?”
Mangan cau mày. “Tôi đoán là ông ta thấy chúng tôi qua cửa sổ. Khi đi lên những bậc thang trên cùng ông có thể nhìn thẳng vào phòng của chúng tôi qua cửa sổ gần nhất. Tôi lúc nào cũng để ý điều đó. Thật ra, nếu tôi thấy có ai ngồi trong phòng khách, tôi thường nghiêng qua gõ vào cửa sổ thay vì bấm chuông.”
Ngài chánh thanh tra cấp cao vẫn vẽ vời với vẻ trầm ngâm. Có vẻ như ông định đặt câu hỏi, nhưng dừng lại. Rosette nhìn ông không chớp mắt. Hadley chỉ nói:
“Tiếp đi. Cậu đang đợi đến 10 giờ…”
“Và chẳng có chuyện gì xảy ra,” Mangan nhấn mạnh. “Nhưng, buồn cười là ở chỗ, sau 10 giờ cứ mỗi phút qua đi tôi lại càng cảm thấy lo lắng. Tôi đã bảo ông là tôi không nghĩ hắn ta sẽ đến, hoặc sẽ không có rắc rối gì xảy ra. Nhưng tôi cứ liên tục hình dung ra cái hành lang tối tăm ngoài đó và bộ giáp kì dị đeo mặt nạ ở đó, và càng nghĩ tôi lại càng không thích nó…”
“Tôi biết chính xác ý anh ấy định nói,” Rosette nói. Cô ta nhìn Mangan một cách kì lạ và sửng sốt. “Tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng tôi không muốn nói ra vì sợ ông gọi tôi là đồ ngốc.”
‘Tôi cũng hay có linh cảm như vậy. Đó,” Mangan cay đắng nói, “chính là lí do vì sao tôi bị sa thải nhiều đến thế, và có lẽ đó cũng là lí do tôi sẽ bị sa thải vì không chịu báo cáo sự việc tối nay. Kệ xác gã biên tập tin tức. Tôi không phải Judas.” Anh cựa mình. “Dù sao thì, đến lúc 10 giờ 10 thì tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi ném mấy lá bài lên bàn và nói với Rosette. ‘Nghe này, ta hãy đi lấy cái gì để uống và bật đèn hành lang hay làm gì đó.’ Tôi đang định gọi Annie thì tôi nhớ ra hôm nay là thứ bảy, ngày cô ấy ra ngoài chơi vào buổi tối…”
“Annie? Cô hầu gái phải không? Đúng, tôi quên khuấy mất cô ta. Rồi sao?”
“Rồi tôi ra mở cửa, và thấy nó đã bị khóa ngoài. Cảm giác như thế này! Ông để một vật gì đó lồ lộ trong phòng ngủ, như một bức tranh hay một món trang sức, mà ông nhìn quen mắt đến nỗi không để ý nó nữa. Rồi một ngày ông bước vào và có cảm giác mơ hồ là có gì đó không ổn trong phòng. Nó khiến ông khó chịu và bực mình, bởi ông không biết lí do tại sao. Rồi bỗng nhiên ông chợt nhận ra, và rất sốc khi phát hiện vật đó đã biến mất. Hiểu chứ? Tôi cảm thấy y như vậy. Tôi biết là có gì đó không ổn, tôi đã cảm thấy thế từ khi hắn ta gọi từ hành lang vào, nhưng chỉ đến khi phát hiện ra cánh cửa bị khóa tôi mới bàng hoàng nhận ra. Đúng lúc tôi đang giật cái tay nắm cửa một cách ngu ngốc thì chúng tôi nghe thấy tiếng súng.
“Tiếng súng nổ trong nhà rất lớn, và thậm chí chúng tôi còn nghe thấy nó nổ ở tầng trên cùng. Rosette hét lên…”
“Tôi không hét!”
“Rồi cô ấy chỉ vào tôi và nói ra điều tôi đang nghĩ trong đầu. Cỏ ấy nói, ‘Đó không phải là Pettis. Hắn đã lọt vào được rồi.’ ”
“Cậu có thể xác định rõ lúc đó là mấy giờ không?”
“Vâng. Đó là lúc 10 giờ 10 phút. Tôi đã cố gắng phá cửa.” Mặc dù đang hồi tưởng lại, nhưng mắt của Mangan vẫn ánh lên vẻ chế giễu. Dường như anh ta ghét phải nói ra, nhưng không thể không bình luận. “Các ông đã bao giờ để ý là trong các câu chuyện, cửa bị phá dễ dàng thế nào không? Mấy câu chuyện đó đúng là thiên đường của các ông thợ mộc. Chỉ cần có một lí do con con, như khi người trong phòng không trả lời một câu hỏi đơn giản, là có vô số cánh cửa bị phá. Nhưng hãy thử phá một trong những cái cửa này mà xem!… Thế đấy. Tôi xô vai vào nó một hồi lâu, rồi tôi nghĩ ra là có thể thoát ra ngoài qua cửa sổ và vào nhà qua cửa chính. Tôi đụng phải các ông, và các ông biết chuyện gì xảy ra tiếp theo rồi đấy.” Hadley lấy bút chì gõ vào quyển sổ tay. “Thường thì cửa chính có để mở thế không, cậu Mangan?”
“Ôi Chúa ơi! Tôi không biết! Nhưng đó là điều duy nhất tôi có thể nghĩ ra. Dù sao thì nó cũng không khóa.”
“Đúng, nó không khóa. Cô có muốn bổ sung gì không, cô Grimaud?”
Mí mắt cô ấy rủ xuống. “Không có gì, mà không hẳn thế. Boyd đã kể với các ông mọi chuyện đúng như nó diễn ra. Nhưng các ông luôn muốn hỏi những điều kì quái phải không? Kể cả khi nó chẳng liên quan gì? Chuyện này có lẽ không có ý nghĩa gì, nhưng tôi sẽ kể… Không lâu trước khi chuông cửa vang len, tôi ra cái bàn gần cửa sổ để lấy vài điếu thuốc lá. Đài vẫn đang mở, như Boyd nói. Nhưng tôi nghe thấy từ đâu đó ngoài đường, hay ở vỉa hè trước cửa, có một âm thanh rất lớn, một tiếng thịch, như thể có một vật nặng rơi từ trên cao xuống vậy. Trên phố thường không có âm thanh như thế, ông thấy đấy. Nghe giống như có người ngã xuống.”
Rampole cảm thấy bồn chồn. Hadley hỏi:
“Cô nói một tiếng thịch à? Hừm. Cô có nhìn ra ngoài xem là gì không?”
“Có. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả. Đương nhiên, tôi chỉ kco màn ra nhìn hé, nhưng tôi có thể thề là con phố vắng…” Cô ấy bỗng dừng phắt lại. Môi trễ xuống một chút và đôi mắt bất chợt cứng đơ. “Ôi Chúa ơi!” cô ấy nói.
“Vâng, cô Grimaud,” Hadley nói, không đổi giọng, “màn đã hạ hết xuống, như cô nói. Tôi đặc biệt để ý thấy điều đó, vì cậu Mangan đã bị vướng vào một cái màn khi nhảy ra ngoài. Đó là lí do tôi tự hỏi không biết vị khách đó làm sao có thể nhìn qua cửa sổ vào phòng được. Phải chăng lúc đó màn chưa được hạ xuống?”
Im lặng bao trùm căn phòng, trừ vài tiếng ồn trên mái nhà. Rampole liếc nhìn tiến sĩ Fell đang dựa lưng vào một trong những cái cửa không thể phá nổi của Mangan, tay chống cằm, chiếc mũ rộng vành hạ xuống che mắt. Rampole nhìn sang Hadley, người vẫn đang bình thản, rồi quay lại nhìn cô gái.
“Ông ta nghĩ chúng ta nói dối, Boyd,” Rosette Grimaud điềm tĩnh nói. “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta không nên nói gì nữa.”
Và Hadley mỉm cười. “Tòi không hề nghĩ như thế, cô Grimaud. Tôi sẽ nói cho cô vì sao, vì cô là người duy nhất có thể giúp chúng tôi. Tôi còn có thể kể cho cô nghe chuyện gì đã thực sự diễn ra nữa… Fell!”
“Hả?” tiến sĩ Fell kêu to, giật mình ngước nhìn lên.
“Tôi muốn ông nghe chuyện này,” ngài chánh thanh tra cấp cao tiếp tục nói một cách dứt khoát. “Lúc nãy ông đã rất khoái trá và bí hiểm khi nói ông tin vào những câu chuyện nghe có vẻ rất phi thường mà anh Mills và bà Dumont kể lại, mà không hề giải thích lí do vì sao ông tin họ. Tôi sẽ trả lễ ngay đây. Tôi xin tuyên bố là tôi không những chỉ tin vào câu chuyện của họ, mà còn tin cả câu chuyện do hai người này kể lại nữa. Và từ việc giải thích lí do tôi tin họ, tôi cũng sẽ giải thích luôn tình huống bất khả thi này.”
Giờ thì tiến sĩ Fell mới thực sự bị kéo ra khỏi cơn lơ đãng. Ông phùng mang trợn má chăm chú nhìn Hadley như thể đang chuẩn bị nhảy vào một cuộc chiến.
“Tôi không giải thích hết được, tôi thừa nhận,” Hadley tiếp tục, “nhưng đủ để thu hẹp danh sách nghi phạm xuống còn vài người, và giải thích vì sao không có dấu chân nào trên tuyết.”
“Ô, cái đó!” Tiến sĩ Fell nói khinh khỉnh. Ông làu bàu gì đó rồi dịu giọng. “Trong giây lát tôi đã hi vọng ông tìm ra được điều gì đó. Nhưng phần đó thì rõ ràng rồi.”
Hadley cố gắng hết sức để không nổi nóng. “Kẻ chúng ta cần tìm,” ông nói tiếp, “không để lại dấu chân nào trên vỉa hè hay trên cầu thang vì hắn chưa bao giờ đặt chân lên vỉa hè và cầu thang – sau khi tuyết ngừng rơi. Hắn đã ở trong nhà ngay từ đầu. Hắn đã ở trong nhà được một thời gian. Do đó hoặc hắn là (a) người trong nhà, hoặc (b) có lẽ đã trốn trong nhà, dùng chìa khóa để vào bằng cửa trước vào lúc trời chưa tối hẳn. Điều đó giải thích vì sao lời khai của mọi người mâu thuẫn với nhau. Đợi đến lúc thích hợp, hắn mặc bộ đồ hoành tráng đó vào, bước ra bậc cửa đã được quét sạch tuyết, và rung chuông. Điều đó giải thích việc hắn biết cậu Mangan và cô Grimaud đang ở trong phòng khách ngay cả khi màn đã đóng – hắn thấy họ đi vào đó. Nó cũng giải thích việc mặc dù bị đóng sầm cửa vào mặt và bắt đợi ở ngoài, nhưng hắn vẫn có thể đi vào – hắn có chìa khóa.”
Tiến sĩ Fell chậm rãi lắc đầu và lầm bầm với chính mình. Ông khoanh tay thể hiện sự không đồng ý.
“Hừm, đúng. Nhưng tại sao hắn lại phải kì công bày trò như vậy, kể cả khi hắn hơi điên? Nếu hắn sống trong nhà thì còn có lí, vì hắn muốn kẻ thủ ác trông như người ngoài. Nhưng nếu hắn thật sự từ bên ngoài vào, thì việc gì phải mạo hiểm trốn trong nhà lâu đến thế trước khi hành động? Tại sao không đến nhà vào giờ đã định?”
“Đầu tiên,” Hadley cẩn thận nói, giơ tay lên đếm, “hắn phải biết người trong nhà ở đâu, để không bị ai gây trở ngại. Thứ hai, quan trọng hơn, hắn muốn hoàn tất trò biến mất của mình bằng cách không để lại vết chân nào, ở bất cứ đâu trên tuyết. Trò biến mất rất có ý nghĩa với bộ óc điên cuồng của – cứ cho là của gã em trai Henri này đi. Hắn lọt vào nhà khi tuyết đang rơi mạnh, và đợi đến khi nó ngừng rơi.”
“Ai,” Rosette hỏi, giọng gay gắt, “là em trai Henri?”
“Đó chỉ là một cái tên thôi, cô gái của tôi,” tiến sĩ Fell trả lời nhã nhặn. “Tôi đã bảo là cô không biết hắn ta đâu mà… Giờ, Hadley, đây là lúc tôi phản đối câu chuyện kì khôi của ông một cách ôn hòa nhưng kiên quyết. Chúng ta đã nói nhiều về việc tuyết rơi và ngừng rơi, cứ như thể chúng ta có thể điều khiển nó dễ như đóng mở một cái vòi nước. Nhưng tôi muốn biết là thế quái nào mà một người có thể biết khi nào tuyết sẽ rơi hay ngừng rơi? Hiếm có ai tự nói với chính mình rằng, ‘À ha! Thứ bảy này mình sẽ gây ra một tội ác. Vào đêm đó, mình nghĩ, tuyết sẽ rơi lúc 5 giờ đúng, và ngừng rơi đúng 9 rưỡi. Như thế sẽ cho mình dư dả thời gian để đột nhập vào nhà, và chuẩn bị thủ đoạn của mình trước khi tuyết ngừng rơi.’ Thấy chưa! Lời giải thích của ông còn đáng kinh ngạc hơn vấn đề ông nêu ra. Việc một người có thể đi trên tuyết mà không để lại dấu chân còn dễ tin hơn việc hắn ta biết chính xác khi nào tuyết rơi.”
Ngài chánh thanh tra cấp cao cáu kỉnh. “Tôi đang cố,” ông nói, “để đi vào vấn đề chính. Nhưng nếu ông muốn tranh cãi về chuyện này – ông không thấy là nó giải thích được vấn đề trước đó sao?”
“Vấn đề nào?”
“Cậu bạn Mangan của chúng ta nói rằng vị khách đe dọa sẽ đến lúc 10 giờ. Bà Dumont và anh Mills nói 9 rưỡi. Đợi đã!” Ông kiểm tra lại câu chuyện của Mangan. “A hay B nói dối? Đầu tiên, có lí do hợp lí nào để A hay B phải nói dối về thời điểm kẻ thủ ác đến không? Thứ hai, nếu A nói 10 giờ và B nói 9 rưỡi, vậy dù vô tội hay không, một trong hai người phải biết từ trước thời điểm vị khách đó thực sự sẽ đến. Và ai đã đúng?”
“Cả hai đều không,” Mangan nói và nhìn chằm chằm Hadley. “Là giữa hai mốc thời gian đó. Lúc 9 giờ 45.”
“Đúng. Dấu hiệu đó cho thấy cả hai đều không nói dối. Nó chỉ ra rằng thời điểm kẻ đó định đến gặp Grimaud là không xác định, kiểu như ‘9 rưỡi hoặc 10 giờ hoặc trong khoảng thời gian đó’. Và Grimaud, người đang rất cố gắng để làm ra vẻ mình không dễ bị dọa nạt, rất cẩn thận khi nhắc đến cả hai mốc thời gian để đảm bảo tất cả mọi người đều ở nhà. Vợ tôi cũng làm thế khi mời khách đến chơi bài bridge… Nhưng tại sao gã em trai Henri lại không thèm nói rõ thời gian? Bởi, như Fell nói, hắn không thể điều khiển tuyết như một cái vòi nước. Hắn có thể đánh cuộc rằng tối nay tuyết sẽ rơi, vì tuyết cũng đã rơi mấy hôm rồi, nhưng hắn phải đợi đến khi nó ngừng rơi, dù cho có phải đợi đến nửa đêm. Hắn không cần phải đợi lâu. Tuyết ngừng rơi lúc 9 rưỡi. Và rồi hắn hành động y như một kẻ tâm thần – hắn đợi 15 phút để sau đó không ai tranh cãi được nữa, rồi rung chuông.”
Tiến sĩ Fell mở miệng ra định nói, nhưng sau khi khôn khéo nhìn khuôn mặt chăm chú của Rosette và Mangan, ông dừng lại.
“Giờ thì,” Hadley vươn vai nói. “Tôi đã cho thấy tôi tin lời hai người nói, vì tôi cần sự trợ giúp của hai người trong vấn đề quan trọng nhất chúng ta rút ra được… Kẻ chúng ta cần tìm không phải là người giáo sư Grimaud quen biết sơ sơ. Hắn biết rõ ngôi nhà này như lòng bàn tay – phòng ốc, công việc hằng ngày và thói quen của những người trong nhà. Hắn biết những câu mọi người thường nói và biệt danh của mọi người. Hắn biết cách ông Pettis nói chuyện với tiến sĩ Grimaud, và với cả hai người nữa. Do đó hắn không phải là một người bạn làm ăn bình thường mà mọi người chưa gặp bao giờ. Nên tôi muốn biết tất cả những người thường xuyên đến thăm ngôi nhà này, tất cả những ai đủ thân thiết với tiến sĩ Grimaud và khớp với những mô tả đó.”
Cô gái cựa quậy bứt rứt, giọng sửng sốt. “Ông nghĩ… một người như thế… Ôi, không thể nào! Không, không, không!” (Giọng cô ta giống mẹ đến kì lạ) “Không có người nào như thế dâu!”
“Sao cô lại nói thế?” Hadley cao giọng hỏi. “Cô biết người nào đã bắn cha mình à?”
Lời nói đột ngột của Hadley làm cô ta nhảy dựng lên. “Không, tất nhiên là không!”
“Hay cô có nghi ngờ ai không?”
“Không. Trừ việc,” hàm răng của cô ta lóe lên, “tôi không hiểu tại sao các ông cứ đi tìm ở ngoài. Bài học về suy luận rất bổ ích, tôi xin cảm ơn. Nhưng nếu thủ phạm là người trong nhà, và hành động như ông nói, thì sẽ rất hợp lí dúng không? Sẽ có lí hơn nhiều nếu là người trong nhà.”
“Là ai?”
“Để xem nào! Đó là việc của các ông, phải không?” (Bằng cách nào đó Hadley đã kích động một con hổ cái khôn ngoan, và cô ta đang thích thú với điều đó.) “Tất nhiên là ông chưa gặp tất cả những người trong nhà. Nhắc mới nhớ, ông còn chưa gặp cô Annie, hay ông Drayman. Nhưng ý tưởng kia của ông thì cực kì nực cười. Trước hết, cha tôi có rất ít bạn. Trừ những người trong nhà này, chỉ có hai người đáp ứng được mô tả của ông, và cả hai người đều không thể là người ông cần tìm. Đơn giản là vì ngoại hình của họ không phù hợp. Một người chính là Anthony Pettis, ông ấy không cao hơn tôi, mà tôi không phải là chiến binh Amazon. Người còn lại là Jerome Burnaby, người họa sĩ đã vẽ bức tranh kì dị đó. Ông ấy hơi dị dạng một chút, nhưng không ai giả dạng được và ai cũng có thể phát hiện từ xa. Dì Ernestine và Stuart sẽ nhận ra ông ấy ngay lập tức.”
“Mặc dù vậy, cô biết gì về họ?”
Cô gái nhún vai. “Cả hai ở tuổi trung niên, giàu có, và luôn theo đuổi sở thích của mình. Pettis hói đầu và khó tính… Tôi không có ý nói ông ấy giống như bà già, người ta nói ông ấy là người tốt, và cực kì thông minh. Hừ! Tại sao họ không chịu động não làm gì đó thay vì ngồi không!” Cô ta nắm chặt hai lay lại. Rồi cô ta ngước lên nhìn Mangan, vẻ mặt dịu đi, chậm rãi, uể oải, nhưng đầy toan tính. “Burnaby… đúng, Jerome là người thành đạt, theo ý nghĩa nào đó. Ông ấy là một họa sĩ khá có tiếng, mặc dù ông ấy muốn được biết tới với danh nghĩa là một chuyên gia tội phạm học hơn. Ông ấy rất to lớn và cục mịch, thích nói về tội phạm và khoe khoang về sức khỏe của mình. Jerome cuốn hút theo cách đó. Ông ấy rất thích tôi, và Boyd thì ghen tuông khủng khiếp.” Nụ cười của cô ta mở rộng ra.
“Tôi không thích ông ta,” Mangan lặng lẽ nói. “Thật ra, tôi ghét ông ta như xúc đất đổ đi. Nhưng ít ra Rosette đã đúng về một điều. Ông ta không bao giờ làm một việc như vậy.”
Hadley lại nguệch ngoạc vào sổ tay. “Ông ta bị tật gì?”
“Dị tật ở chân. Ông sẽ thấy là ông ấy không thể che giấu được nó.”
“Cảm ơn. Bây giờ,” Hadley nói, đóng quyển sổ tay lại, “chỉ đến đây thôi. Tôi khuyên cô nên đến nhà dưỡng lão ngay. Trừ khi có câu hỏi nào không, Fell?”
Tiến sĩ ì ạch đi về phía trước. Ông đứng sừng sững trước mặt cô gái, đầu hơi nghiêng về một bên nhìn cô gái.
“Một câu hỏi cuối thôi,” ông nói, vẩy hai sợi dây đeo kính màu đen như đuổi ruồi. “Hừm! Ha! Cô Grimaud, tại sao cô lại chắc chắn thủ phạm là ông Drayman vậy?”