- VI - Bảy ngọn tháp
Nghe xong lập luận của vị tiến sĩ, Hadley im lặng ném bao diêm cho ông, và nhìn ông với vẻ ám muội.
“Ông đùa đấy à?” Hadley hỏi. ‘“Hay ông dùng tà thuật à?”
“Về những chuyện thế này thì không. Giá như tôi có thể đùa vào lúc này. Ba cỗ quan tài đó… khốn kiếp, Hadley!” tiến sĩ Fell lẩm bẩm, gõ hai nắm đấm vào thái dương, “tôi ước mình có thể thấy một tia sáng… một cái gì đó…”
“Có vẻ như ông đã làm khá tốt. Ông đang giấu chúng tôi điều gì, hay làm sao ông biết được tất cả những chuyện đó? Dừng lại một chút!” Hadley nhìn xuống quyển sổ tay. “ ‘Hover.’ ‘Bath.’ ‘Rượu vang.’ ‘Muối.’ Nói cách khác, ông định bảo chúng tôi thực ra Grimaud đã nói ‘Horváth’ và ‘mỏ muối’? Bình tĩnh nào! Nếu đó là cơ sở của ông, thì có lẽ chúng ta phải dùng rất nhiều trí tưởng tượng nếu muốn luận ra những từ còn lại.”
“Việc ông nổi đóa,” tiến sĩ Fell nói, “cho thấy ông đồng ý với tôi. Cảm ơn. Như ông đã khôn khéo chỉ ra, người đang hấp hối thường không nói những từ như “bath” hay “muối”. Nếu phiên bản của ông là chính xác, thì có lẽ tất cả chúng ta nên vào trại thương điên cho rồi. Thật sự ông ta đã nói thế, Hadley. Tôi đã nghe thấy. Ông bảo ông ta nêu tên đúng không? Có phải Fley không? Không. Vậy thì là ai? Và ông ta trả lời ‘Horváth.’ ”
“Ông nói đó là họ của ông ta.”
“Đúng. Nhìn này,” tiến sĩ Fell nói, “nếu có thể giúp ông bớt bực tức, thì tôi sẽ vui vẻ thừa nhận rằng tôi đã không điều tra ra việc này một cách công bằng, và tôi đã không cho ông biết tôi lấy thông tin từ đâu trong căn phòng đó. Bây giờ thì tôi sẽ kể cho ông nghe, mặc dù có Chúa chứng giám là lúc đó tôi đã cố chỉ cho ông thấy.
“Là như thế này. Chúng ta nghe Ted Rampole nói về một vị khách kì lạ đến đe dọa Grimaud, và nói rất nhiều về những người bị ‘chôn sống’. Grimaud không xem đây là chuyện đùa, ông ta đã biết người đó từ trước và biết hắn ta nói về cái gì, bởi, vì một lí do nào đó ông ta đã mua bức tranh vẽ ba ngôi mộ. Khi ông hỏi Grimaud ai đã bắn ông ta, ông ta trả lời hắn họ ‘Horváth’ và nói gì đó về mỏ muối. Dù ông có nghĩ là việc một giáo sư người Pháp lại nói như thế thì thật kì quặc, thì điều thật sự kì quặc là việc trên lò sưởi của ông ta lại có một cái huy hiệu hình cái khiên có hình một con đại bàng bán thân rời màu đen, và một mặt trăng bạc ở trên cùng…”
“Tôi nghĩ chúng ta có thể bỏ qua bài học về huy hiệu,” Hadley nói, tự trọng một cách khó chịu. “Cái đó là gì?”
“Đó là quốc huy của xứ Transylvania. Đương nhiên là không còn được sử dụng kể từ sau chiến tranh, và không phổ biến lắm ở Anh (hoặc Pháp) ngay cả trước chiến tranh. Đầu tiên là một cái họ Slav, sau đó là một cái huy hiệu Slav. Tiếp theo là mấy quyển sách tôi cho ông xem. Biết đó là gì không? Đó là sách tiếng Anh được dịch ra tiếng Hungary. Tôi không giả vờ là mình biết đọc nó…”
“Ơn Chúa.”
“… nhưng ít nhất tôi nhận ra bộ Shakespeare toàn tập, và Những bức thư gửi từ Yorick đến Eliza của Sterne, và Tiểu luận về con người của Pope. Tôi sửng sốt đến nỗi phải xem xét tất cả.”
“Tại sao lại sửng sốt?” Rampole hỏi. “Thư viện nhà ai mà không có những quyển sách lạ lùng. Thư viện của ông cũng có nhiều cuốn như thế…”
“Chắc chắn rồi. Nhưng cứ thử hình dung rằng có một người Pháp uyên bác muốn đọc một cuốn sách của tác giả người Anh. Ông ta sẽ đọc bản tiếng Anh, hoặc tìm bản dịch tiếng Pháp. Nhưng ông ta hiếm khi khăng khăng đòi thưởng thức trọn vẹn cuốn sách đó bằng cách đọc bản dịch tiếng Hungary trước tiên. Nói cách khác, đây không phải sách của tác giả người Hungary, đây không phải sách của tác giả người Pháp cho một người Pháp học tiếng Hungary, đây là sách của tác giả người Anh. Có nghĩa là nếu có người nào sở hữu các cuốn sách này, thì tiếng Hungary là tiếng mẹ đẻ của người đó. Tôi đã đọc lướt qua một lượt với hi vọng tìm được một cái tên nào đó. Khi tôi tìm thấy dòng chữ ‘Károly Grimaud Horváth, 1898’ đã mờ trên một trang trắng, thì tôi đã gần như chắc chắn.
“Nếu Horváth là họ thật của ông ấy, tại sao ông ấy phải giấu lâu đến vậy? Những từ ‘chôn sống’ và ‘mỏ muối’ là những manh mối đây. Nhưng khi ông hỏi ai đã bắn ông ấy, thì ấy ông lại trả lời là ‘Horváth’. Khoảnh khắc đó có lẽ là lúc duy nhất người ta không nói về chính mình. Ông ấy không có ý nói về mình mà là về một người khác cũng có họ Horváth. Khi tôi đang suy nghĩ về điều đó, thì anh Mills xuất chúng của chúng ta lại kể cho ông nghe về một người tên Fley ở quán rượu. Mills nói rằng ở Fley có nét gì đó rất quen thuộc, mặc dù anh ta chưa gặp hắn bao giờ, và giọng điệu của hắn nghe như đang nhại lại giọng điệu của Grimaud. Có phải anh ta nhắc đến Grimaud không? Anh em, anh em, anh em! Ông thấy đấy, có ba cỗ quan tài, nhưng Fley chỉ nhắc đến hai anh em. Có vẻ như có một người anh em thứ ba.
“Khi tôi đang suy nghĩ về điều đó, thì bà Dumont – rõ ràng là người Slav – xuất hiện. Nếu tôi có thể chứng minh Grimaud đến từ Transylvania, thì phạm vi tìm kiếm quá khứ của ông ấy sẽ thu hẹp lại. Nhưng ta phải tìm hiểu một cách tế nhị. Để ý thấy con trâu trên bàn Grimaud chứ? Nó khiến ông nghĩ đến điều gì?”
“Không phải Transylvania, tôi khẳng định điều đó,” ngài chánh thanh tra cấp cao gầm gừ. “Nghe có vẻ giống miền Tây hoang dã, Buffalo Bill, và thổ dân da đỏ hơn. Đợi đã! Có phải vì thế mà ông hỏi Grimaud đã từng đến Mỹ chưa?”
Tiến sĩ Fell gật đầu, vẻ có lỗi. “Câu hỏi đó nghe có vẻ vô hại, và bà ta đã trả lời. Ông thấy đấy, câu hỏi ấy là để xem ông ấy có mua nó từ một cửa hàng lưu niệm ở Mỹ không. Hadley, tôi đã từng đến Hungary. Khi tôi còn trẻ trung và nhanh nhẹn, khi vừa đọc xong tác phẩm Dracula. Transylvania là đất nước duy nhất ở châu Âu có nuôi trâu, họ sử dụng chúng như bò. Ở Hungary có rất nhiều tôn giáo hòa lẫn vào nhau, nhưng ở Transylvania thì thuyết nhất thể là thịnh hành nhất. Tôi đã hỏi bà Ernestine và bà ta đã xác nhận diều đó. Sau đó tôi tung ra quả lựu đạn. Nếu Grimaud có liên hệ với mỏ muối một cách trong sáng, thì điều tôi hỏi cũng không quan trọng. Nhưng tôi nêu tên nhà tù duy nhất ở Transylvania nơi tù nhân phải làm việc ở mỏ muối. Tôi nhắc đến cái tên ‘Siebenturmen’ – hay còn gọi là ‘Bảy Ngọn Tháp’ – mà không hề nói đó là nhà tù. Nó gần như đã kết liễu bà ta. Giờ có lẽ ông đã hiểu tại sao tôi lại nói về bảy ngọn tháp và đất nước hiện không còn tồn tại. Và vì Chúa, có ai đó cho tôi que diêm được không?”
“Của ông đây,” Hadley nói. Ông bước những bước dài quanh hành lang, nhận điếu xì gà từ tiến sĩ Fell đang tươi cười lịch sự, và lẩm bẩm với chính mình. “Đúng… cho đến giờ, mọi thứ vẫn có vẻ hợp lí. Trò đánh cược của ông về cái nhà tù đó đã thành công. Nhưng điểm cốt lõi của những suy luận của ông, rằng có ba người anh em, chỉ đơn thuần là phỏng đoán. Thật ra, tôi nghĩ đó là phần yếu nhất trong suy luận của ông…”
“Ồ, tôi thừa nhận. Nhưng rồi sao?”
“Nhưng đó lại là điểm mấu chốt. Giả sử Grimaud không nói đến một người tên Horváth nào đó đã bắn ông ấy, mà đang nói đến chính mình thì sao? Vậy thì kẻ giết người có thể là bất cứ ai. Nhưng nếu có ba anh em, và ông ấy quả thật có ý như thế, thì mọi chuyện rất đơn giản. Chúng ta quay lại với giả thiết rằng Pierre Fley, hoặc người anh em của gã, đã bắn ông ấy. Chúng ta có thể tóm được Fley bất cứ lúc nào, và gã kia cũng thế…”
“Ông có chắc là sẽ nhận ra gã kia,” tiến sĩ Fell trầm ngâm, “nếu ông gặp hắn không?”
“Ý ông là sao?”
“Tôi đang nghĩ về Grimaud. Ông ấy nói giọng Anh hoàn hảo, và trông cũng giống một người Pháp đích thực. Tôi không nghi ngờ là ông ấy đã học ở Paris, và bà Dumont đó từng làm phục trang cho đoàn opera. Dù sao thì ông ấy cũng đã ở Bloomsbury gần 30 năm, cục cằn, dễ mến, vô hại, với bộ râu được cắt tỉa gọn gàng và cái nón quả dưa, biết kiềm chế tính khí hoang dã của ông ấy và điềm tĩnh lên lớp giảng bài. Chưa ai thấy con quỷ trong ông ấy – mặc dù không hiểu sao tôi mường tượng đó là một con quỷ tinh khôn và xảo quyệt. Không có ai nghi ngờ. Ông ấy có thể cạo râu, học cách mặc vải tuýt và bị bớt đỏ, để trở thành một điền chủ người Anh, hoặc bất cứ ai ông ấy thích… Vậy còn người anh em thứ ba thì sao? Gã đó là người khiến tôi tò mò. Giả sử hắn đang ở đâu đó quanh chúng ta, đội một cái lốt nào đó và không ai biết thật sự hắn là ai thì sao?”
“Có thể. Chúng ta không biết gì về gã cả.”
Chật vật châm xì gà, tiến sĩ Fell ngước lên với sự kiên quyết phi thường.
“Đúng vậy. Điều đó mới khiến tôi lo lắng, Hadley.” Ông làu nhàu một lúc, và rồi thổi tắt que diêm với một tiếng phù lớn. “Về lí thuyết chúng ta có hai anh em đã đổi sang hai cái tên Pháp: Charles và Pierre. Còn có người thứ ba nữa. Để cho rõ ràng và tiện khi thảo luận, chúng ta sẽ gọi hắn là Henri…”
“Nghe này. Ông không định bảo tôi là ông cũng biết gì đó về hắn chứ?”
“Ngược lại là khác,” tiến sĩ Fell đáp, với vẻ dữ tợn. “Tôi phải nhấn mạnh là tôi biết rất ít về hắn ta. Chúng ta biết Charles và Pierre. Nhưng chúng ta không có bất cứ manh mối nào về Henri, dù cho Pierre liên tục nói về hắn và dùng hắn đế đe dọa. Kiểu như, ‘Nó có thể làm được nhiều hơn tôi.’ ‘Nó muốn lấy mạng ông.’ ‘Tôi gặp nguy hiểm khi liên hệ với nó.’ Và tương tự. Nhưng ta lại không thấy rõ hình dạng của hắn, người hay yêu tinh. Điều đó khiến tôi lo lắng. Tôi nghĩ kẻ xấu xa đó đứng đằng sau tất cả mọi chuyện, điều khiển, giật dây Pierre dở điên dở khùng tội nghiệp vì mục đích riêng của hắn, và có lẽ hắn cũng nguy hiểm với Pierre y như với Charles. Tôi không thể không cảm thấy hắn đã đạo diễn việc xảy ra ở quán rượu Warwick, rằng hắn đang ở đâu đấy rất gần đây và rất cảnh giác, hắn…” Tiến sĩ Fell nhìn xung quanh, cứ như chờ đợi thứ gì đó bước ra hoặc lên tiếng trong hành lang trống trải. Rồi ông thêm vào: “Ông biết đấy, tôi hi vọng anh cảnh sát của ông sẽ tóm được Pierre và giữ an toàn cho hắn. Có lẽ hắn không còn ích lợi gì nữa.”
Hadley làm một cử chỉ mơ hồ. Ông cắn đuôi bộ ria mép cắt tỉa cẩn thận của mình. “Phải, tôi hiểu,” ông nói, “nhưng hãy tập trung vào chứng cứ. Và, tôi báo trước, đào xới được sự thật cũng sẽ đủ khó rồi. Đêm nay tôi sẽ điện cho cảnh sát Rumania. Nhưng vì Transylvania đã bị xâm lược, cùng với cảnh hỗn loạn và nhiễu nhương ở đó, chắc không còn nhiều tài liệu chính thức đâu. Bolshevik đã tràn qua đó ngay sau chiến tranh, đúng không? Dù sao thì chúng ta cũng cần chứng cứ! Đi gọi Mangan và con gái của Grimaud thôi, sẵn đây tôi phải nói là tôi chưa hoàn toàn hài lòng với cách hành xử của họ…”
“Tại sao?”
“Ý tôi là, giả sử như bà Dumont đó nói thật,” Hadley sửa lại. “Có vẻ ông nghĩ như thế. Nhưng như tôi đã được nghe, chẳng phải Mangan ở đây tối nay là vì Grimaud yêu cầu sao, để phòng khi vị khách đó viếng thăm? Đúng. Vậy thì có vẻ cậu ta giống như một con chó giữ nhà quá hiền lành vậy. Cậu ta ngồi trong phòng gần cửa chính. Chuông cửa rung lên – nếu Dumont không nói dối – và vị khách bí hiểm bước vào. Trong suốt khoảng thời gian đó, cậu ta không hề tò mò chút nào. Cậu ta ngồi trong phòng, đóng kín cửa, và không hề quan tâm đến vị khách của chúng ta, và chỉ xông ra khi nghe thấy tiếng súng và phát hiện cửa đã bị khóa. Như thế có hợp lí không?”
“Chẳng có gì hợp lí cả,” tiến sĩ Fell nói. “Kể cả… nhưng chuyện đó có thể đợi được.”
Họ đi dọc hành lang dài và Hadley khoác lên mình dáng vẻ lịch thiệp và điềm tĩnh khi họ mở cửa ra. Căn phòng này nhỏ hơn phòng làm việc của Grimaud, với những quyển sách được xếp ngăn nắp và các tủ tài liệu bằng gỗ. Trong phòng có một tấm thảm bằng vải trơn, ghế ngồi cứng và một ngọn lửa yếu ớt. Bên dưới cái đèn trần tỏa ánh sáng xanh lá là bàn đánh máy của Mills, giờ đã được kéo ra đối diện cửa phòng. Ở một bên máy đánh chữ là một tập bản thảo được kẹp gọn gàng trong một cái giỏ kim loại, còn phía bên kia là một cốc sữa, một đĩa mận khô, và quyển sách Đại số tích phân và vi phân của Williamson.
“Tôi cá là anh ta còn uống nước khoáng nữa,” tiến sĩ Fell nói. giọng kích động. “Tôi thề với tất cả thần thánh là anh ta uống nước khoáng và đọc những loại sách như thế để giải trí. Tôi cá…” Chưa kịp nói hết câu, ông bị sặc khi bị Hadley, đang nói chuyện với Rosette Grimaud ngồi cuối phòng, thúc cùi chỏ một cách thô bạo vào người. Hadley giới thiệu ba người bọn họ.
“Cô Grimaud, tôi dĩ nhiên không cố ý quấy rầy cô vào thời điểm này…”
“Làm ơn đừng nói gì cả,” cô ta nói. Cô ta đang ngồi bên lò sưởi, căng thẳng đến nỗi cô giật mình khi nghe thấy tiếng Hadley. “Ý tôi là… đừng nói gì về chuyện đó. Ông thấy đấy, tôi quý mến cha tôi, nhưng không quý ông ấy đến nỗi quá đau khổ trừ khi có ai đó nói về chuyện đó. Lúc đó tôi bắt đầu suy nghĩ lung tung.”
Cô ta bóp mạnh vào hai bên thái dương. Dưới ánh lửa, khi đã cởi áo khoác lông ra, nét tương phản giữa đôi mắt và khuôn mặt cô lại hiện rõ. Nhưng nét tương phản đó thay đổi liên tục. Cô ta thừa hưởng cá tính mạnh mẽ của mẹ trong mái tóc vàng, khuôn mặt vuông, một vẻ đẹp rất hoang dã đặc trưng của người Slav. Vậy mà trong một khoảnh khắc khuôn mặt đó bỗng trở nên cứng rắn, còn đôi mắt dài màu hạt dẻ lại trở nên dịu dàng nhưng bứt rứt, như con gái của một cha phó. Rồi một thoáng sau đó, khuôn mặt lại tự nhiên nhẹ nhàng trở lại, nhưng đôi mắt lại trở nên cực kì gay gắt, như con gái của ác quỷ. Cô ta có cặp lông mày thưa hơi nhướn lên một chút ở cuối mắt, nhưng lại có một cái miệng rộng và hóm hỉnh. Trông cô ta hoạt bát, gợi cảm và khó hiểu. Đứng sau cô ta là Mangan, bất lực và u sầu.
“Một điều thôi,” cô ta nói tiếp, từ từ ấn nắm đấm vào tay ghế, “một điều tôi cần phải biết, trước khi ông bắt đầu sự hành hạ.” Cô ta ra hiệu về phía cánh cửa nhỏ bên kia căn phòng, và nói liền một mạch. “Stuart đang đưa một thám tử của ông lên mái nhà. Có thật thế không? Có thật là… điều mà chúng tôi nghe được là có kẻ đã đi vào, giết cha tôi, và thoát ra mà không… không…?”
“Tốt hơn hãy để tôi xử lí chuyện này, Hadley,” tiến sĩ Fell khẽ khàng nói.
Rampole biết là vị tiến sĩ hoàn toàn tin rằng bản thân ông ấy rất biết cách cư xử tế nhị. Nhưng phần lớn thời gian thì vị tiến sĩ cư xử “tế nhị” như một đống gạch rơi từ trên trần nhà xuống vậy. Nhưng niềm tin tuyệt đối rằng mình đang cư xử khéo léo, bản tính tốt và sự ngây thơ vô tội của vị tiến sĩ gây ảnh hưởng đến người đối diện theo cách mà ngay cả những người cư xử tế nhị nhất cũng không thể làm nổi. Cứ như thể ông cũng rơi xuống cùng “đống gạch tế nhị” của mình để bắt tay hay cảm thông với người khác. Và mọi người ngay lập tức kể hết với ông về bản thân mình.
Ông khụt khịt mũi. “Tất nhiên đó không phải sự thật, cô Grimaud. Chúng tôi biết tỏng thủ đoạn của gã khốn đó, kể cả nếu hắn là người cô chưa bao giờ biết đến.” Cô gái nhìn lên rất nhanh. “Hơn nữa, sẽ không có sự hành hạ nào cả, và cha cô đang đấu tranh giành lại sự sống. Nghe này. Cô Grimaud, hình như tôi đã gặp cô ở đâu đó?”
“Ôi, tôi biết ông chỉ cố gắng an ủi tôi,” cô ta nói với một nụ cười nhạt. “Boyd đã kể cho tôi về ông, nhưng…”
“Không, tôi nói thật đấy,” tiến sĩ Fell nói nghiêm túc. Ông lục lọi trí nhớ của mình. “Đúng. Nhớ rồi! Cô học ở đại học London, phải không? Tất nhiên rồi. Và cô ở trong câu lạc bộ hùng biện hay gì đó nhỉ? Có vẻ như tôi đã làm trọng tài khi đội của cô hùng biện về ‘Nữ quyền trên thế giới’, phải không nhỉ?”
“Đúng là Rosette rồi,” Mangan rầu rĩ tán thành.” Cô ấy rất ủng hộ chủ nghĩa nữ quyền. Cô ấy nói…”
“‘Ha ha ha,” tiến sĩ Fell nói. “Giờ thì tôi nhớ rồi.” Ông rất hớn hở, và khoát tay lên chỉ trỏ. “Có thể cô ấy ủng hộ bình đẳng giới, nhưng cô ấy cũng phạm những sai sót rất đáng kinh ngạc. Tôi nhớ là buổi hùng biện đó kết thúc bằng một cuộc cãi vã ấn tượng nhất và cũng kinh khủng nhất tôi từng được nghe, nếu không tính đến cuộc họp của những người theo chủ nghĩa hòa bình. Cô ở phe ủng hộ nữ quyền, cô Grimaud, và chống lại sự chuyên chế của nam giới. Đúng, đúng. Cô bước ra – xanh xao, đứng đắn và trang nghiêm – và đứng yên như thế cho đến khi phe của cô trình bày quan điểm của mình. Họ nói gì đó khá tồi tệ, và trông cô không hài lòng chút nào. Rồi một cô gái gầy gò nói tràng giang đại hải suốt 20 phút về việc phụ nữ cần một trạng thái tồn tại lí tưởng, nhưng dường như càng lúc cô càng giận dữ. Nên khi đến lượt cô, cô tuyên bố với giọng trong trẻo như bạc rằng điều phụ nữ cần để có cuộc sống lí tưởng là nói ít hơn và giao cấu nhiều hơn.”
“Chúa ơi!” Mangan nói, nhảy dựng lên.
“Chà, lúc đó tôi cảm thấy như thế,” Rosette nói với vẻ nóng nảy. “Nhưng ông không nghĩ…”
“Hoặc có lẽ cô không nói từ ‘giao cấu’,” tiến sĩ Fell tư lự. “Dù sao thì, cái điều kinh khủng đó cũng đã gây ra hậu quả không thể diễn tả bằng lời. Như thể cô đã thì thầm ‘Asbestos!’ trước mặt một nhóm người cuồng phóng hỏa vậy. Không may là, lúc đó tôi cố giữ khuôn mặt nghiêm nghị bằng cách uống nước. Các bạn của tôi ạ, đó không phải là việc tôi quen làm. Đối với tai và mắt của những người xung quanh, hậu quả của việc tôi uống nước trong khi cô hùng biện giống như một quả bom phát nổ bên trong thủy cung. Nhưng tôi tự hỏi không biết cô và cậu Mangan có thường tranh cãi về chủ đề này không. Chắc những cuộc nói chuyện đó rất có tính giáo dục. Ví dụ như tối nay, hai người bàn luận về chủ đề gì?”
Cả hai người tranh nhau nói cùng một lúc. Tiến sĩ Fell tươi cười, và cả hai đều dừng lại với vẻ sửng sốt. “Đúng,” vị tiến sĩ gật đầu. “Cô hiểu rồi phải không, rằng chẳng có gì phải ngại khi nói chuyện với cảnh sát? Và cô có thể nói tự do như cô muốn? Như thế sẽ tốt hơn đấy. Bây giờ, giữa chúng ta, hãy đối diện vấn đề và giải quyết nó một cách hợp lí được không?”
“Được,” Rosette nói. “Có ai có thuốc lá không?”
Hadley nhìn Rampole. “Lão già đó làm được rồi,” ông nói.
“Lão già đó” lại châm xì gà trong khi Mangan lóng ngóng tìm thuốc lá. Rồi tiến sĩ Fell nói.
“Giờ tôi muốn biết về một điều rất kì lạ,” ông tiếp tục. “Có phải hai cô cậu đã quá mê mải với nhau mà không để ý tới bất cứ điều gì cho đến khi sự huyên náo bắt đầu? Theo như tôi hiểu, Mangan, giáo sư Grimaud yêu cầu cậu ở đây tối nay để cảnh giới phòng ngừa bất trắc. Tại sao cậu không làm vậy? Cậu không nghe thấy tiếng chuông cửa à?”
Gương mặt ngăm đen của Mangan trở nên u ám. Anh ta làm một cử chỉ dữ dội.
“Ôi, tôi thừa nhận đó là lỗi của tôi. Nhưng lúc đó tôi không hề nghĩ ngợi gì. Làm sao mà tôi biết được chứ? Tất nhiên là tôi có nghe thấy tiếng chuông cửa. Thật ra, cả hai chúng tôi đều nói chuyện với hắn ta…”
“Hai người làm gì cơ?” Hadley ngắt lời, sải bước băng ngang qua tiến sĩ Fell.
“Chắc chắn rồi. Nếu không thì làm sao tôi có thể để hắn ta đi qua và lên cầu thang được chứ? Nhưng hắn ta tự xưng là Pettis – Anthony Pettis, ông biết đấy.”