Cỗ quan tài thứ hai -IX. Phá mộ Bí ẩn ở phố Cagliostro
Tiến sĩ Fell đi qua đi lại, thở dài, rồi ngồi xuống cái ghế lớn nhất. “Em trai Henri…” ông gầm gừ. “Hừm, đúng. Tôi e là chúng ta phải quay lại với em trai Henri.”
“Gã em trai Henri khốn kiếp,” Hadley nói giọng đều đều. “Chúng ta sẽ đi tìm gã em trai Pierre trước. Hắn biết! Tại sao tôi không nhận được tin nhắn nào từ viên cảnh sát đó nhi? Ngưòi được giao nhiệm vụ đến nhà hát bắt hắn dâu rồi? Cả cái đám đáng nguyền rủa đó di ngủ hết rồi hay sao…”
“Chúng ta không nên quá kích động vì chuyện đó,” vị tiến sĩ xen vào, khi Hadley bắt đầu giậm chân thình thịch và chửi bới hung hăng. “Đó chính là điều mà gã em trai Henri muốn chúng ta làm. Giờ thì đã có những lời cuối cùng của Grimaud, ít ra chúng ta cũng có manh mối…”
“Để làm gì?”
“Để giải thích những từ ông ấy đã nói với chúng ta, những từ mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Rất tiếc là có lẽ nó không có ích gì lắm vì chúng ta đã có một giả thuyết rồi. Với chứng cứ mới này, tôi e là chúng ta đang thấy Grimaud chạy vào ngõ cụt. Ông ấy không cung cấp cho chúng ta được điều gì, chỉ đưa ra cho chúng ta một câu hỏi.”
“Là gì?”
“Ông không thấy đó chính là câu hỏi mà ông ấy đã tự hỏi mình suốt thời gian qua sao? Câu cuối cùng: ‘Có Chúa mới biết nó thoát khỏi căn phòng đó bằng cách nào. Vừa mới đây nó còn ở đó mà ngay sau đó nó đã biến mất.’ Giờ hãy thử xem xét những từ trong quyển sổ tay vô giá của ông. Phiên bản của ông và anh bạn Ted đây có hơi khác nhau một chút. Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu với những từ mà cả hai người đều đồng ý và chúng ta phải cho là đúng. Bỏ những từ đầu tiên qua một bên – tôi nghĩ chúng ta có thể khẳng định ông ấy muốn nói ‘Horváth’ và ‘mỏ muối’. Bỏ qua một bên những từ hai người không thống nhất. Những từ nào có ở trong cả hai danh sách?”
Hadley búng ngón tay. “Tôi bắt đầu – Đúng rồi! Những từ đó là, ‘Hắn không thể dùng dây thừng. Mái nhà. Tuyết. Fox. Quá nhiều ánh sáng.’ Chà, vậy đấy! Nếu chúng ta tìm cách tổng hợp lại, ghép những từ đó với câu trên để thành một thông điệp có ý nghĩa, chúng ta sẽ được thế này: ‘Có Chúa mới biết nó thoát khỏi đó bằng cách nào. Nó không thể dùng dây thừng để leo lên hoặc leo xuống mái nhà giữa trời tuyết thế này. Vừa mới đây nó còn ở đó mà ngay sau đó nó đã biến mất. Có quá nhiều ánh sáng nên tôi thấy rõ từng hành động của nó…’ Khoan đã! Thế còn…”
“Và bây giờ,” tiến sĩ Fell nói, hừ một cái cáu kỉnh, “ông có thể ghép những từ còn lại vào. Ted nghe được, ‘không phải tự tử’. Đặt vào trong cả đoạn, nó phù hợp với những từ khác, với mục đích khẳng định. ‘Đây không phải là tự tử. Tôi không tự vẫn.’ Ông nghe được từ ‘có súng’, cũng không khó khăn gì để đặt nó vào câu này, ‘Tôi không bao giờ nghĩ nó sẽ bắn.’ Bùm! Tất cả những manh mối quyện vào nhau và biến thành những câu hỏi. Đây là vụ đầu tiên tôi từng biết mà nạn nhân cũng tò mò như tất cả những người khác.”
“Nhưng còn từ ‘fox’ thì sao? Chẳng nhét được nó vào chỗ nào cả.”
Tiến sĩ Fell nhìn Hadley, mắt ánh lên vẻ cáu kỉnh.
“Ồ, có, có đấy. Đó là phần đơn giản nhắt – mặc dù cũng có thể là phần khó hiểu nhất, và chúng ta không nên quyết định vội vã xem nên đưa từ đó vào đâu. Vấn đề ở đây là khi chúng ta nghe một từ mà không biết từ đó được đánh vần như thế nào, thì chúng ta sẽ nghĩ đến từ nào… Nếu tôi thử chơi trò liên kết từ chẳng hạn (trò quái quỷ), và bỗng nhiên thì thầm từ ‘Fox!’ với một kị sĩ cưỡi ngựa, có lẽ anh ta sẽ trả lời là ‘Chó săn!’ Nhưng nếu tôi nói từ đó với một nhà sử học, nhiều khả năng ông ấy sẽ hét lên là – trả lời nhanh nào! Là gì?”
“Guy,” Hadley nói, rồi chửi thề. Sau một khoảng lặng khủng khiếp, ông hỏi gặng: “Ý ông có phải là chúng ta phải quay lại với những lời lảm nhảm về mặt nạ Guy Fawkes, hay một cái gì đó gần giống như mặt nạ Guy Fawkes?”
“Chà, mọi người cũng lải nhải về chuyện đó nhiều lắm rồi,” vị tiến sĩ vừa nói vừa gãi trán. “Và tôi không ngạc nhiên. Nó gây ấn tượng mạnh mẽ cho những ai nhìn thấy nó ở khoảng cách gần. Điều này có mách bảo cho ông biết phải làm gì không?”
“Nó bảo tôi phải nói chuyện với ông Drayman,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói một cách dứt khoát. Ông sải bước về phía cửa, và giật mình khi thấy khuôn mặt xương xẩu của Mills đang ghé sát vào tấm kính dày để nghe trộm.
“Bình tĩnh, Hadley,” tiến sĩ Fell xen vào khi thấy ngài chánh thanh tra cấp cao có dấu hiệu sắp nổi xung lên. “Ông kì lạ ở chỗ đó đấy: ông có thể bình tĩnh như một người lính gác khi đối mặt với những điều bí ẩn khó hiểu, nhưng có vẻ như ông không thể giữ nổi bình tĩnh khi chúng ta đến gần sự thật. Cứ để anh bạn trẻ của chúng ta nghe trộm đi. Anh ta nên nghe tất cả, hoặc chí ít cũng là phần cuối cuộc nói chuyện vừa rồi.” Ông cười khục khục. “Điều tôi vừa nói có khiến ông nghi ngờ Drayman không? Hà hà! Ngược lại là đằng khác. Nhớ này, chúng ta vẫn chưa hoàn tất trò chơi ghép hình. Còn một chi tiết cuối cùng mà chúng ta chưa tính đến, chi tiết mà chính tai ông đã nghe thấy đấy. Cái mặt nạ hồng đó khiến mọi người tưởng đó là Drayman. Nhưng Grimaud biết khuôn mặt nào ở phía sau cái mặt nạ đó. Do đó chúng ta có một cách giải thích khá hợp tình hợp lí về những từ cuối cùng do ông ghi lại, ‘Đừng đổ lỗi cho… tội nghiệp.’ Có vẻ như ông ta rất có thiện cảm với Drayman.” Sau một khoảng im lặng, tiến sĩ Fell quay qua Mills, “giờ thì đi gọi ông ấy đến đây đi con trai.”
Khi cửa đã đóng lại, Hadley mệt mỏi ngồi xuống và lấy từ trong túi áo ngực một điếu xì gà nhăn nhúm mà ông chưa châm. Rồi ông đưa tay lần xung quanh cổ áo với vẻ hung dữ và ngột ngạt như thể nỗi lo lắng khiến ông tưởng tượng rằng cổ áo quá chật.
“Lại đoán mò nữa hả?” ông hỏi. “Lại thêm cái kiểu suy diễn 5 ăn 5 thua, và chàng trai trẻ gan dạ trên… ừm!” Ông nhìn xuống sàn nhà, và rồi gầm gừ với vẻ khó chịu. “Tôi không thể kiềm chế được nữa rồi! Nghe những ý tưởng kì quái như vừa rồi chẳng giúp ích gì cho tôi cả. Ông có đề xuất nào cụ thể không?”
“Có. Lát nữa, nếu ông cho phép, tôi sẽ áp dụng xét nghiệm của tiến sĩ Gross.”
“Áp dụng cái gì?”
“Xét nghiệm của tiến sĩ Gross. Ông không nhớ sao? Chúng ta vừa tranh cãi về nó tối nay. Tôi sẽ thu thập cẩn thận những tờ giấy đã cháy đen và cháy sém trong lò sưởi, để xem xét nghiệm của Gross có thể cho ta thấy chữ viết trên đó không. Im lặng nào!” ông gầm lên khi thấy Hadley lại buông ra những âm thanh khinh miệt. “Tôi không bảo là tất cả, hay thậm chí một nửa số chữ sẽ hiện ra. Nhưng tôi sẽ tìm được vài dòng ở trong đó có thể cho ta manh mối về điều mà Grimaud coi còn quan trọng hơn mạng sống của mình. Ha! Đúng rồi.”
“Và ông định làm cái trò này bằng cách nào?”
“Ông sẽ thấy thôi. Nên nhớ là tôi không nói ta sẽ thu được kết quả hài lòng từ những tờ giấy đã cháy hoàn toàn thành than. Nhưng chúng ta sẽ thu được gì đó, nhất là từ những tờ chỉ mới cháy sém được kẹp giữa những tờ đã cháy thành than, cái đó thì sẽ làm được… Ngoài ra, tôi không có đề xuất nào khác, trừ khi chúng ta hỏi… vâng, sao vậy?”
Trung sĩ Betts, người không còn dính đầy tuyết nữa, đi vào báo cáo với vẻ gượng gạo. Anh ngoái nhìn ra cánh cửa sau lưng trước khi đóng nó lại.
“Tôi đã xem xét kĩ sân sau, thưa ngài. Cả hai sân bên cạnh và trên đầu tường nữa. Không có dấu chân hay bất kì dấu vết nào… Nhưng tôi tin rằng chúng tôi đã bắt được một con cá, Preston và tôi. Khi tôi đang quay vào nhà, tôi thấy một ông già cao và vụng về chạy xuống, tay vươn ra bám vào lan can cầu thang. Ông ta chạy đến tủ quần áo, và quờ quạng như thể không quen với cái tủ, cho đến khi ông ta lấy được áo khoác và mũ rồi tiến ra cửa. Ông ta nói tên mình là Drayman và ông ta sống ở đây, nhưng chúng tôi nghĩ…”
“Tôi nghĩ anh sẽ phát hiện ra rằng thị giác của ông ta không tốt,” tiến sĩ Fell nói. “Đưa ông ta vào đây.”
Người đàn ông bước vào có bề ngoài đặc biệt ấn tượng. Khuôn mặt dài và trầm lặng của ông ta hóp lại ở phần thái dương, đám tóc bạc mọc phía sau đầu, để lộ vầng trán rộng và đầy những nếp nhăn nhỏ. Đôi mắt xanh và sáng của ông ta, không hề đục chút nào mặc dù xung quanh đã đầy dấu chân chim, trông lịch sự nhưng bối rối. Ông ta có một cái mũi khoằm, và những nếp nhăn sâu chạy xuống cái miệng tử tế có vẻ đang lưỡng lự, và cái động tác nhăn trán để cho một bên lông mày rướn lên một chút khiến ông ta trông càng lưỡng lự hơn. Mặc dù lưng đã còng nhưng trông ông ta vẫn cao, dù vóc người gầy gò nhưng ông ta vẫn khỏe khoắn. Ông ta giống như một người lính đã già yếu, hay một người từng chải chuốt giờ đã ăn mặc luộm thuộm hơn. Trên khuôn mặt ông ta không có nét gì hài hước, nhưng bù lại trông ông ta tử tế đến mức có vẻ lúng túng và ăn năn. Ông ta mặc một cái áo khoác màu tối, cài cúc đến tận cằm. Đứng trên bậc cửa, nhìn chăm chú vào những người trong phòng qua cặp lông mày rối bù, ông ta ép chặt một cái mũ quả dưa trước ngực và ngập ngừng.
“Tôi xin lỗi, thưa các ông. Tôi thật lòng rất xin lỗi,” ông ta nói. Giọng nói trầm của ông ta khiến người ta có cảm giác ông không quen phát biểu. “Tôi biết đáng ra tôi nên đến trình diện các ông trước khi sang đó. Nhưng cậu Mangan trẻ tuổi đã đánh thức tôi dậy để báo chuyện đã xảy ra. Tôi cảm thấy mình phải sang đó gặp ông Grimaud, để xem tôi có thể làm gì được không…”
Rampole có cảm giác ông ta phản ứng chậm chạp và lưỡng lự vì vừa ngủ dậy hoặc do thuốc ngủ, rằng đôi mắt sáng của ông có vẻ quá đờ đẫn. Ông ta bước sang một bên, một tay bám vào lưng ghế. Nhưng ông không ngồi xuống cho đến khi được Hadley mời.
“Cậu Mangan bảo tôi…” ông nói, “tiến sĩ Grimaud…”
“Tiến sĩ Grimaud đã chết,” Hadley nói.
Drayman vẫn ngồi thẳng hết mức cái lưng còng của ông cho phép, hai tay khoanh lại đặt trên mũ. Một sự im lặng nặng nề hao trùm căn phòng. Drayman nhắm mắt và mở mắt ra. Rồi có vẻ như ông ta nhìn ra xa, vừa thở vừa rít lên nặng nề và chậm chạp.
“Chúa giúp linh hồn ông ấy an nghỉ,” Drayman nói, rất lặng lẽ. “Charles Grimaud là một người bạn tốt.”
“Ông có biết ông ấy chết vì nguyên nhân gì không?”
“Có. Cậu Mangan đã nói với tôi.”
Hadley chăm chú quan sát ông. “Vậy thì ông hiểu rằng nói tất cả, tất cả những gì ông biết, là cách duy nhất để giúp chúng tôi bắt kẻ đã giết bạn ông chứ?”
“Tôi… Vâng, tất nhiên rồi.”
“Phải thật chắc chắn, ông Drayman! Chắc chắn hơn bình thường. Chúng tôi muốn biết về quá khứ của ông ấy. Ông biết ông ấy rất rõ. Lần đầu tiên hai người gặp nhau là ở đâu?” Khuôn mặt dài của ông Drayman trông rất bối rối, có cảm tương như những đường nét đã trở nên lộn xộn. “Ở Paris. Ông ấy lấy bằng tiến sĩ ở trường đại học năm 1905, cùng năm tôi… cùng năm tôi quen biết ông ấy.” Những kí ức như đang lẩn tránh Drayman. Ông ta đưa tay lên trán, và giọng nói của ông cáu kỉnh như thể một người đang hỏi xem người ta giấu cái ghim cài cổ áo của mình ở đâu. “Grimaud rất thông minh. Ông ấy nhận danh hiệu phó giáo sư ở Dijon một năm sau đó. Nhưng một người họ hàng qua đời hay đại loại thế, và để lại cho ông ấy một khoản thừa kế kha khá. Một thời gian ngắn sau ông ấy bỏ việc và đến nước Anh. Đó là theo những gì tôi biết. Sau đó nhiều năm, tôi không gặp ông ấy. Đó có phải điều các ông muốn biết không?”
“Ông có biết gì về ông ấy trước năm 1905 không?”
“Không.”
Hadley vươn người về phía trước. “Ông cứu mạng ông ấy ở đâu?” ông hỏi, giọng gay gắt.
“Cứu mạng ông ấy? Tôi không hiểu.”
“Ông đã đến Hungary bao giờ chưa, ông Drayman?”
“Tôi… tôi đã đi du lịch châu Âu, và có thể đã đi qua Hungary. Nhưng lâu lắm rồi, khi tôi còn trẻ. Tôi không nhớ.”
Và giờ đến lượt Hadley đoán mò.
“Ông đã cứu mạng ông ấy,” ông tuyên bố, “gần nhà tù Siebenturmen, trong dãy núi Carpathian, khi ông ấy đang đào tẩu. Đúng không?”
Ông Drayman ngồi thẳng, đôi bàn tay gầy gò ghì chặt lấy cái mũ quả dưa. Rampole cảm thấy như trong người ông ta giờ đây chứa nhiều sức sống lì lợm hơn bao giờ hết.
“Tôi đã cứu mạng ông ấy à?” ông ta nói.
“Đóng kịch cũng không ích gì đâu. Chúng tôi đã biết tất cả rồi, thậm chí cả ngày tháng nữa – ông vừa mới xác nhận điều đó cho chúng tôi. Năm 1898, Károly Horváth, dưới danh nghĩa một người tự do, đã viết ngày tháng trong một quyển sách. Ông ấy phải mất ít nhất 4 năm để chuẩn bị đầy đủ kiến thức học thuật để lấy bằng tiến sĩ ở Paris.
“Chúng tôi có thể ước lượng khoảng thời gian từ lúc ông ấy bị kết án đến lúc ông ấy đào thoát là vào khoảng 3 năm. Với thông tin đó,” Hadley nói một cách bình tĩnh, “tôi có thể đánh điện đến Bucharest và lấy thông tin chi tiết trong vòng 12 tiếng. Tốt hơn ông nên kể cho chúng tôi sự thật. Tôi muốn biết tất cả những gì ông biết về Károly Horváth và hai người anh em của ông ấy. Một trong hai kẻ đó đã giết ông ấy. Cuối cùng, tôi phải nhắc nhở ông là giấu giếm thông tin trong quá trình điều tra là tội nặng đấy. Thế nào?”
Drayman ngồi yên một lát, tay che lên mắt, chân gõ xuống thảm. Rồi ông ta nhìn lên. Họ giật mình khi nhận thấy rằng, dù đôi mắt xanh đầy nếp nhăn của ông ta vẫn đờ đẫn, người đàn ông này đang nhẹ mỉm cười.
“Tội nặng,” ông nhắc lại, và gật đầu. “Quả thực là vậy à? Tôi xin nói thẳng, thưa ông. Tôi không quan tâm đến lời đe dọa của ông. Rất ít thứ có thể khiến một người, vốn chỉ thấy các ông lờ mờ, không rõ hơn quả trứng luộc nằm trên đĩa là bao, giận dữ hay hoảng sợ. Hầu như tất cả những nỗi sợ trên đời (và cả tham vọng nữa) đều do những đôi mắt, cử chỉ và hình thù gây ra. Những người trẻ không thể hiểu được, nhưng tôi hi vọng các ông sẽ nhận ra. Các ông thấy đấy, tôi không mù hoàn toàn. Tôi vẫn có thể thấy các khuôn mặt và bầu trời ban mai, và tất cả những thứ mà các nhà thơ nhấn mạnh rằng người mù nên nói đến một cách say sưa. Nhưng tôi không thể đọc, và tất cả những khuôn mặt mà tôi quan tâm nhất thì đều đã không còn nhìn thấy được đã 8 năm rồi. Cứ đợi đến khi cả cuộc đời cùa các ông xoay quanh hai điều đó, các ông sẽ nhận ra rằng khi chúng không còn, chẳng gì có thể khiến các ông xúc động nữa.” Ông ta lại gật đầu, nhìn chăm chăm về cuối phòng. Trán ông nhăn lại. “Thưa các ông, tôi rất sẵn sàng cung cấp bất cứ thông tin nào các ông mong muốn, nếu nó có ích cho Charles Grimaud. Nhưng tôi không biết khơi lại vụ lùm xùm cũ thì có ích gì.”
“Kể cả để tìm gã em trai đã giết ông ta?”
Drayman phẩy tay nhẹ, cau mày. “Nghe này, nếu điều tôi nói giúp gì được cho các ông, thì tôi xin thành thật khuyên các ông quên cái ý tưởng đó đi. Tôi không biết các ông lấy nó từ đâu ra. Đúng là ông ấy có hai em trai. Và anh em họ bị bỏ tù.” Ông ta lại mỉm cười. “Chẳng có nguyên nhân gì tồi tệ cả. Họ bị bỏ tù vì bất đồng chính trị. Tôi nghĩ phải một nửa lũ thanh niên hồi đó đều bốc đồng như thế… quên hai người em còn lại đi. Họ đã chết từ rất lâu rồi.”
Căn phòng yên lặng đến nỗi Rampole có thể nghe thấy tiếng ngọn lửa lách tách trong lò sưởi và tiếng thở nặng nề của tiến sĩ Fell. Hadley liếc sang tiến sĩ Fell và thấy ông vẫn đang nhắm mắt. Rồi Hadley nhìn chằm chằm Drayman như thể mắt ông già vẫn còn sáng.
“Sao ông lại biết điều đó?”
“Grimaud kể cho tôi,” ông già nói, nhấn mạnh cái họ. “Ngoài ra, tất cả những tờ báo từ Budapest đến Brasso đều rầm rộ đưa tin đó. Các ông có thể dễ dàng kiểm chứng được.” Ông ta nói tỉnh bơ. “Họ chết vì bệnh dịch hạch.”
Hadley nói ngọt nhạt. “Nếu, tất nhiên, ông có thể xác nhận chắc chắn chuyện đó…”
“Các ông hứa là sẽ không xới vụ lùm xùm cũ chứ?” (Rất khó để bắt được ánh nhìn của đôi mắt xanh và sáng đó. Drayman vặn vẹo đôi bàn tay xương xẩu của mình.) “Nếu tôi kể lại chính xác, và các ông rút ra bằng chứng, các ông sẽ để những người đã khuất yên nghỉ chứ?”
“Còn tùy thuộc vào thông tin của ông.”
“Tốt thôi. Tôi sẽ kể những gì mình tận mắt chứng kiến.” Ông ta ngồi nhớ lại – khá khó khăn – Rampole nghĩ. “Bản thân câu chuyện đó cũng tồi tệ lắm rồi. Sau đó Grimaud và tôi không bao giờ nói về nó nữa. Chúng tôi ngầm thống nhất như thế. Nhưng tôi không định nói dối với các ông là tôi đã quên hết mọi thứ – quên hết mọi chi tiết.”
Ông ta im lặng một hồi lâu, gõ ngón tay lên thái dương, làm cho ngay cả Hadley, bình thường rất kiên nhẫn cũng định lên tiếng giục. Rồi ông ta bắt đầu:
“Xin lỗi, thưa các ông. Tôi đang cố nhớ chính xác ngày tháng, để các ông có thể kiểm chứng mọi thứ. Tôi chỉ nhớ được là nó vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Chín năm 1900… hay 1901 gì đó? Dù sao thì, tôi nhận ra rằng tôi nên bắt đầu kể hết sự thật theo văn phong của các tác phẩm văn học lãng mạn Pháp đương đại. Tôi xin bắt đầu, ‘Vào lúc nhá nhem tối của một ngày tháng Chín mát mẻ của năm 1900, một người cưỡi ngựa đơn độc đang vội vã di trên đường,’ một con đường xấu kinh khủng! ‘trong một thung lũng gồ ghề phía đông nam dãy núi Carpathians.’ Sau đó tôi nên mô tả khung cảnh hoang sơ lúc đó. Tôi là người cưỡi ngựa. Trời sắp mưa, và tôi đang cố đến Tradj trước khi trời tối.”
Ông ta mỉm cười. Hadley cựa quậy, trông có vẻ thiếu kiên nhẫn, còn tiến sĩ Fell đã mở mắt ra. Ông Drayman nhanh chóng tiếp tục.
“Tôi phải nhấn mạnh vào bầu không khí như trong tiểu thuyết đó vì nó rất phù hợp với tâm trạng của tôi và giải thích được rất nhiều điều. Lúc đó tôi đang chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Lãng mạn theo phong cách Byron, và trong tôi đầy những ý tưởng về tự do chính trị. Tôi không đi bộ mà cưỡi ngựa bởi tôi nghĩ nó khiến tôi trông oai phong hơn, thậm chí tôi còn thích thú với việc mang một khẩu súng lục để chống lại đám kẻ cướp (tưởng tượng), và một chuỗi tràng hạt làm bùa xua ma quỷ. Mà đáng ra phải có kẻ cướp hay ma quỷ. Tôi đã vài lần nghe phong thanh về cả hai. Những khu rừng và hẻm núi lạnh lẽo đó hoang dã và đen tối như từ những câu chuyện cổ tích đi ra. Kể cả những chỗ đã được con người khai phá cũng vẫn còn những nét kì lạ. Transylvania, ông thấy đấy, có ba mặt là núi. Trong con mắt của một người Anh, hình ảnh cánh đồng lúa mạch đen và vườn nho trải dài lên những ngọn đồi dốc, những nhà máy xay bằng gạch đỏ, những quán trọ đầy mùi tỏi, thậm chí cảnh hoang vắng của những ngọn đồi muối tinh, đều đáng kinh ngạc.
“Dầu sao chăng nữa, tôi đang đi trên một con đường ngoằn nghèo ở khu vực hoang vắng nhất, cách xa những quán trọ gần nhất nhiều dặm đường và với một cơn bão đang chuẩn bị ập đến. Cảm giác quỷ dữ đang rình mò sau mỗi hàng rào có thế khiến nhiều người sởn gai ốc, nhưng tôi còn có lí do tệ hơn để hoảng sợ. Dịch bệnh đã bùng phát sau một mùa hè nóng nực, và nó càn quét vùng đất này như một bầy côn trùng, ngay cả khi thời tiết đã lạnh hơn. Ở ngôi làng cuối cùng tôi đi qua – tôi quên tên nó mất rồi – họ bảo tôi rằng dịch bệnh đang hoành hành dữ dội ở mỏ muối trong rặng núi phía trước. Nhưng tôi đang hi vọng được gặp một anh bạn người Anh của tôi, cũng là một khách du lịch, ở Tradj. Hơn nữa tôi cũng muốn đi xem nhà tù được đặt tên theo bảy ngọn đồi trắng, giống như dãy núi thấp sau lưng. Nên tôi nói tôi sẽ đi tiếp.
“Tôi biết chắc hẳn tôi đã đến gần nhà tù, vì tôi có thể nhìn thấy những ngọn đồi trắng phía trước. Nhưng, khi trời tối đến mức không nhìn thấy gì nữa, và khi những cơn gió có vẻ như đang thổi tung cả rừng cây lên, tôi đi ngang qua ba nấm mồ. Chúng mới được đào xong, bởi vẫn còn dấu chân xung quanh, nhưng không thấy có người sống nào gần đó cả.”
Hadley phá vỡ bầu không khí lạ lùng mà giọng nói mơ màng đó bắt đầu tạo ra.
“Một nơi,” ông nói, “giống như trong bức tranh mà tiến sĩ Grimaud đã mua của ông Burnaby.”
“Tôi… tôi không biết,” Drayman trả lời, rõ ràng là bị giật mình. “Đúng thế không? Tôi không để ý.”
“Không để ý? Ông chưa xem bức tranh à?”
“Tôi nhìn không rõ lắm. Chỉ thấy đại khái là có cây, khung cảnh bình thường…”
“Và ba tấm bia mộ…”
“Tôi không biết Burnaby lấy cảm hứng từ đâu ra,” ông già ngơ ngác nói, và xoa tay lên trán. “Có Chúa chứng giám tôi chưa bao giờ kể với ông ấy. Có lẽ là trùng hợp thôi, ba nấm mồ đó không hề có bia. Họ chẳng mất công làm cái đó. Chỉ có ba cây thập giá đơn giản làm bằng cành cây thôi.
“Nhưng tôi đang kể cho các ông: tôi ngồi trên lưng ngựa và nhìn xuống ba nấm mồ đó, và không hề có cảm giác dễ chịu. Đúng là ba nấm mồ trông dễ sợ, với khung cảnh xanh và den xung quanh và những ngọn đồi màu trắng ỏ xa xa. Nhưng không phải vì thế. Nếu mấy nấm mồ đó là của nhà tù, tôi tự hỏi vì sao họ lại đào chúng xa đến thế. Điều tiếp theo tôi biết là con ngựa của tôi lồng lên và suýt nữa hất tôi xuống. Tôi cho nó đi vòng quanh một cái cây, và khi nhìn lại, thì tôi biết con ngựa gặp vấn đề gì. Ụ đất trên một nấm mồ đang trồi lên và trượt sang một bên. Có tiếng động răng rắc như thể có thứ gì đó đang vặn mình và quằn quại, rồi một thứ gì đó màu tối mò mẫm trồi lên từ ụ đất. Đó chỉ là một bàn tay với các ngón tay vặn vẹo, nhưng tôi chưa bao giờ thấy thứ gì kinh khủng hơn thế.”