← Quay lại trang sách

- X - Vết máu trên áo

“Đến lúc đó,” Drayman nói tiếp, “tôi cũng cảm thấy người mình không ổn. Tôi không dám xuống ngựa, vì sợ con ngựa sẽ chạy mất, và tôi thấy xấu hổ vì mình cũng muốn bỏ chạy.

Tôi nghĩ đến ma cà rồng và những truyền thuyết về cổng địa ngục mở ra lúc chạng vạng. Nói thật, tôi sợ hết hồn. Tôi nhớ là mình xoay như chong chóng trên ngựa, cố giữ lấy dây cương bằng một tay trong khi tay kia rút súng. Khi tôi nhìn lại, thứ đó đã bò ra khỏi mộ và đi về phía tôi.

“Đó, các ông ạ, là lúc tôi gặp một trong những người bạn tốt nhất của mình. Người đó cúi xuống và cầm cái thuổng mà ai đó đã để quên sau khi đào mộ. Và anh ta vẫn tiếp tục bước tới. Tôi hét lên bằng tiếng Anh, ‘Ngươi muốn gì?’ – bởi tôi quá rối trí đến nỗi không nhớ nổi một từ tiếng nước ngoài nào. Người đó dừng lại. Sau một thoáng, anh ta trả lời bằng tiếng Anh, nhưng với chất giọng nước ngoài, ‘Cứu’, anh ta nói, ‘cứu, thưa ngài, đừng sợ,’ hoặc câu gì đó tương tự, và ném cái thuổng xuống. Con ngựa bình tĩnh lại, nhưng tôi thì không. Người đó không cao, nhưng rất khỏe mạnh. Khuôn mặt anh ta tối và sưng lên, với những chỗ đóng vảy nhỏ màu hồng dưới ánh sáng nhá nhem. Trời bắt đầu đổ mưa trong khi anh ta còn đang đứng đó vẫy tay.

“Anh ta đứng dưới mưa, kêu lên với tôi. Tôi sẽ không cố nhớ lại nguyên văn, nhưng anh ta nói gì đó như ‘Nghe này, thưa ngài, tôi không chết vì dịch bệnh như hai kẻ tội nghiệp kia,’ và anh ta chỉ tay vào những ngôi mộ. ‘Tôi không bị lây bệnh. Nhìn xem, cơn mưa đang rửa sạch này. Đó là máu mà tôi đã châm ra từ da mình.’ Anh ta thậm chí còn thè lưỡi ra để tôi thấy nó đen ngòm những vết bồ hóng, và cơn mưa đã rửa sạch nó. Cảnh tượng đó cũng điên cuồng như khung cảnh xung quanh vậy. Rồi anh ta nói rằng mình không phải tội phạm, mà là tù chính trị, và anh ta đang đào tẩu khỏi nhà tù.”

Trán của Drayman nhăn lại. Rồi ông lại mỉm cười.

“Giúp anh ta? Đương nhiên là tôi đã làm. Tôi bị ý tưởng đó kích thích. Anh ta giải thích với tôi mọi thứ trong khi chúng tôi lên kế hoạch. Anh ta là một trong ba anh em, đều là sinh viên ở trường đại học Klausenburg. Họ đã bị bắt trong một cuộc nổi dậy đòi độc lập cho Transylvania dưới sự bảo hộ của Áo trước những năm 1860. Ba anh em họ ở chung một xà lim, và hai người đã chết vì bệnh dịch hạch. Với sự trợ giúp của bác sĩ trong tù, cũng là một phạm nhân, anh ta đã bắt chước triệu chứng của bệnh đó và giả chết. Hiếm có ai dám đến gần để kiểm tra nhận định của bác sĩ, cả nhà tù lúc đó sợ hãi đến điên loạn. Ngay cả những người đi chôn ba anh em cũng phải quay đầu đi khi ném họ vào quan tài bằng gỗ thông và đóng đinh quan tài. Họ chôn thi thể cách xa nhà tù. Trên hết, họ cố gắng đóng đinh nắp quan tài cho thật nhanh. Vị bác sĩ đã lén đưa cho anh ta một cái kìm nhổ đinh, mà anh ta đã cho tôi xem. Một người khỏe mạnh, nếu giữ bình tĩnh và không hít thở quá nhiều không khí sau khi bị chôn, có thể đẩy cái nắp quan tài lên bằng đầu, đủ để chèn cái kìm vào chỗ hở. Sau đó anh ta có thể đào mồ chui lên mặt đất.

“Rất hay. Khi anh ta biết tôi là sinh viên ở Paris, chúng tôi trò chuyện dễ dàng hơn. Mẹ của anh ta là người Pháp, và anh ta nói tiếng Pháp lưu loát. Chúng tôi quyết định tốt nhất là anh ta nên đến Pháp, ở đó anh ta có thể lấy một danh tính mới mà không bị nghi ngờ. Anh ta có cất một chút tiền, và có một cô gái ở thị trấn quê nhà anh ta…”

Drayman dừng phắt lại, như nhớ ra là mình đã kể quá nhiều. Hadley chỉ gật đầu.

“Tôi nghĩ tôi biết cô gái đó là ai,” ông nói. “Lúc này ta có thể để ‘bà Dumont’ ra ngoài câu chuyện. Rồi sao nữa?”

“Cô ấy được tin tưởng giao nhiệm vụ lấy món tiền và đi cùng anh ta đến Paris. Có vẻ như sẽ không có ai truy đuổi, và thật đúng là như vậy. Anh ta được coi như là đã chết, dù cho Grimaud hoảng sợ đến mức anh ta chạy trốn khỏi nơi đó trước khi kịp cạo râu hoặc mặc quần áo của tôi. Chúng tôi không gây ra chút nghi ngờ nào. Thời đó còn chưa dùng hộ chiếu, và anh ta đóng giả là anh bạn người Anh mà tôi định gặp ở Tradj trên đường rời khỏi Hungary. Khi chúng tôi đến Pháp… các ông biết phần còn lại rồi đấy. Giờ, thưa các ông!” Drayman thở một hơi và rùng mình, cứng người lại và hướng đôi mắt trống rỗng về phía họ. “Các ông có thể kiểm chứng những gì tôi dã nói…”

“Thế còn tiếng động răng rắc thì sao?” tiến sĩ Fell chen vào, giọng thách thức.

Câu hỏi quá nhẹ nhàng, nhưng lại quá bất ngờ, khiến cho Hadley phải quay đầu lại. Đến cả Drayman cũng phải dò dẫm hướng về phía ông. Khuôn mặt đỏ của tiến sĩ Fell nheo lại một cách lơ đãng, và ông vừa thở khụt khịt vừa lấy gậy chọc xuống thảm.

“Tôi nghĩ chi tiết đó rất quan trọng,” ông cao giọng nói về phía ngọn lửa, như thể ai đó dám phản đối ông. “Quả thực rất quan trọng. Hừm. Nghe này, ông Drayman, tôi chỉ có hai câu hỏi dành cho ông. Ông nghe thấy tiếng răng rắc của cái nắp quan tài bị vặn ra, đúng không? Được. Vậy có nghĩa là nấm mồ mà ông Grimaud chui ra khá nông?”

“Khá nông, đúng, nếu không ông ta không thể thoát ra được.”

“Câu hỏi thứ hai. Nhà tù đó có được quản lí tốt hay không?”

Drayman bối rối, nhưng hàm răng của ông vẫn nghiến chặt đầy dứt khoát. “Tôi không biết, thưa ông. Nhưng tôi biết vào thời điểm đó nó đang bị một vài nhà chức trách chỉ trích. Tôi nghĩ họ tức tối vì nhà tù đã để dịch bệnh hoành hành – điều này ảnh hưởng đến hoạt động của công nhân ở mỏ muối. Nhân đây, tên của những người đã chết đã được công bố. Tôi đã thấy chúng. Và tôi xin hỏi các ông lại một lần nữa, các ông khơi gợi lại những vụ lùm xùm cũ để làm gì? Nó chẳng giúp ích gì cho các ông đâu. Các ông có thể thấy là nó không làm mất uy tín của Grimaud, nhưng…”

“Vâng, vấn đề là ở chỗ đó,” tiến sĩ Fell lên giọng, nhìn ông ta với vẻ tò mò. “Đó là điểm tôi muốn nhấn mạnh. Nó không hề làm mất uy tín của ông ấy. Có cái gì đó khiến ông ấy phải chôn vùi hết quá khứ của mình không?’

“… nhưng nó sẽ làm mất uy tín của Ernestine Dumont,” Drayman nói, dữ dội cao giọng hơn. “Ông không thấy điều tôi đang ám chỉ à? Còn con gái của Grimaud thì sao? Và các ông đào sâu vào vấn đề này dựa trên những phán đoán hoang đường rằng một hoặc cả hai người em của ông ta còn sống. Họ chết rồi, và người chết không thể đội mồ đứng dậy được. Cho tôi hỏi ông lấy từ đâu ra cái ý tưởng cho rằng một trong những người em của Grimaud đã giết ông ấy?”

“Từ chính Grimaud,” Hadley nói.

Trong một giây Rampole nghĩ dường như Drayman không hiểu. Rồi ông ta run rẩy đứng lên khỏi ghế, như bị ngạt thở. Ông sờ soạng cởi áo khoác, sờ tay lên họng, và lại ngồi xuống. Chi có ánh mắt đờ đẫn của ông là không thay đổi.

“Ông lừa tôi đấy à?” ông ta hỏi – từ vẻ nghiêm nghị bên ngoài của ông phát ra giọng điệu run rẩy, cáu kỉnh như của trẻ con. “Tại sao các ông lại lừa tôi?”

“Đó là sự thật đấy. Đọc cái này đi!”

Rất nhanh, Hadley dúi cho ông ta tờ giấy nhắn của bác sĩ Peterson. Drayman thò tay ra cầm nhưng rồi rụt lại và lắc đầu.

“Nó chẳng cho tôi biết gì cả, thưa ông. Tôi… tôi… ý ông là ông ấy đã nói gì đó trước khi…?”

“Ông ấy nói hung thủ là em trai ông ấy.”

“Ông ấy còn nói gì khác không?” Drayman hỏi ngập ngừng.

Hadley để cho ông già động não, và không trả lời. Chẳng mấy chốc, Drayman tiếp tục: “Nhưng tôi phải nói với ông rằng điều này thật kì quái! Có phải ý ông là gã khoác lác đã đe dọa ông ấy, kẻ mà ông ấy chưa từng gặp trong đời, lại là một trong những người em của ông ấy? Tôi cho là các ông nghĩ vậy. Tôi vẫn không hiểu. Từ giây phút đầu tiên khi tôi biết ông ấy bị đâm…”

“Bị đâm?”

“Vâng. Như tôi nói, tôi…”

“Ông ấy bị bắn,” Hadley nói. “Ai bảo ông là ông ấy bị đâm?”

Drayman nhún vai. vẻ gượng gạo, mỉa mai và hơi tuyệt vọng xâm chiếm gương mặt đầy nếp nhăn của ông.

“Tôi có vẻ là một nhân chứng tồi, thưa các quý ông,” ông nói với giọng điềm đạm. “Với ý đồ tốt đẹp nhất, tôi kiên trì nói với các ông những điều mà các ông không tin được. Có lẽ tôi đã kết luận quá nhanh. Cậu Mangan nói rằng ông Grimaud bị tấn công và đang hấp hối, rằng hung thủ đã biến mất sau khi rạch bức tranh thành từng mảnh. Nên tôi cho là…” Ông xoa sống mũi. “Các ông còn gì muốn hỏi tôi nữa không?”

“Tối qua ông đã làm gì?”

“Tôi ngủ. Tôi… Ông thấy đấy, tôi bị đau. Ở đây, sau nhãn cầu. Tôi đau đến nỗi sau bữa tối, thay vì đi ra ngoài (tôi định đi xem một buổi hòa nhạc ở nhà hát Albert Hall), tôi uống một viên thuốc ngủ và đi nằm. Thật không may, tôi không nhớ gì từ lúc 7 rưỡi cho đến khi cậu Mangan đánh thức tôi dậy.”

Hadley đang xem xét cái áo khoác của ông ta và giữ im lặng, nhưng vẻ mặt lại nguy hiểm như thể sắp tấn công ai đó.

“Tôi hiểu. Ông có cởi quần áo khi lên giường không, ông Drayman?”

“Xin ông… Cởi quần áo? Không. Tôi chỉ cởi giày thôi. Tại sao?”

“Có lúc nào ông rời khỏi phòng không?”

“Không.”

“Vậy sao áo khoác của ông lại dính máu?… Đúng, chỗ đó đấy. Đứng lên! Đừng chạy trốn. Đứng nguyên đó. Giờ thì cởi áo khoác ra.”

Rampole nhìn thấy vết máu khi Drayman, đang đứng lưỡng lự bên cạnh ghế và cởi áo khoác ngoài ra, đưa tay lần ngang ngực như thể đang dò dẫm dưới sàn. Ông ta mặc một bộ vét màu xám nhạt, vì thế vết máu bắn vào hiện lên rất rõ. Nó giống một vết bẩn màu tối chạy dọc thân áo bên phải đổ xuống túi áo. Ngón tay của Drayman tìm thấy nó và dừng lại. Những ngón tay cọ vào vết máu, rồi chùi vào nhau.

“Không thể là máu được,” ông ta lẩm bẩm vẫn với vẻ cáu kỉnh. “Tôi không biết nó là gì, nhưng không thể là máu được, tôi đảm bảo với các ông!”

“Chúng tôi sẽ phải xem xét điều đó. Xin ông hãy cởi áo ra. Tôi e là phải yêu cầu ông để lại nó cho chúng tôi. Có gì trong túi áo ông muốn lấy ra không?”

“Nhưng…”

“Cái vết đó ở đâu ra?”

“Tôi không biết. Tôi thề có Chúa tôi không biết, và tôi khong thể tưởng tượng nổi. Nó không phải máu. Sao ông lại nghĩ như thế?”

“Xin hãy đưa cái áo cho tôi. Tốt!” Hadley lạnh lùng quan sát Drayman, với những ngón tay run rẩy, lấy từ trong túi ra vài đồng xu, một tấm vé xem biểu diễn, một cái khăn tay, một bao thuốc hiệu Woodbine và một hộp diêm. Rồi Hadley lấy cái áo và trải ra trên đùi. “Ông có phản đối nếu chúng tôi khám phòng ông không? Tôi phải nói rõ là tôi không có quyền làm điều đó, nếu ông từ chối.”

“‘Không phản đối gì cả,” ông già trả lời, giọng đều đều. Ông ta xoa tay lên trán, “Nếu ông nói cho tôi biết chuyện đó xảy ra như thế nào, ông thanh tra! Tôi không biết. Tôi đã cố làm chuyện đúng – đúng vậy. Chuyện đúng… tôi không liên quan gì đến vụ này cả.” Ông ta ngừng lại và cười với vẻ chua chát khiến Rampole thấy khó hiểu nhiều hơn là nghi ngờ. “Tôi có bị bắt không? Tôi cũng không phản đối chuyện đó đâu, ông biết đấy.”

Bây giờ thì có điều gì đó không ổn ở đây, nhưng cái sự không ổn này lại khiến người ta khó hiểu. Rampole thấy rằng Hadley cũng có chung với mình sự ngờ vực không lí giải nổi. Trước mặt họ là một người đàn ông đã đưa ra nhiều phát ngôn sai lệch thất thường. Ông ta kể một câu chuyện cổ tích kinh dị không biết có thật hay không, nhưng mơ hồ và thiếu cơ sở. Sau chót là trên áo ông ta có máu. Vậy mà, vì một lí do nào đó không thể lí giải nổi, Rampole vẫn muốn tin vào câu chuyện của ông ta, hay ít nhất là tin vào niềm tin mà ông ta dành cho câu chuyện đó. Có thể là do ông ta hoàn toàn không hề ranh ma, láu cá mà chỉ ngờ nghệch. Ông ta đứng đó, trông cao hơn, nhưng rúm ró và xương xẩu hơn khi chỉ mặc mỗi chiếc áo sơ mi – cái áo xanh đã ngả sang màu trắng xỉn – tay áo xắn lên, cà vạt xiên xẹo, và cái áo khoác ngoài trên tay kéo lệt quệt dưới đất. Và ông ta đang mỉm cười.

Hadley thầm chửi thề. “Betts!” ông gọi, “Betts! Preston!” và gõ gót giày nôn nóng xuống sàn nhà cho đến khi họ trả lời. “Betts, đưa cái áo này cho nhân viên phân tích để xét nghiệm vết dơ này. Thấy chưa? Sáng mai báo cáo. Đêm nay chỉ đến thế thôi. Preston, đi xuống với ông Drayman và khám xét phòng ông ta. Anh biết phải tìm cái gì rồi đấy, và để ý xem có thứ nào trông giống mặt nạ không nhé. Lát nữa tôi sẽ xuống… Nghĩ lại đi, ông Drayman. Tôi sẽ yêu cầu ông đến Sở Cảnh sát vào sáng mai. Thế thôi.”

Drayman không hề chú ý. Ông ta mò mẫm như một con dơi, lúc lắc đầu và kéo lê cái áo khoác phía sau. Ông ta còn giật tay áo Preston. “Máu ở chỗ nào ra được cơ chứ?” ông hỏi thiết tha. “Thật kì lạ, anh biết đấy, nhưng chỗ máu đó ở đâu ra mới được cơ chứ?”

“Không biết, thưa ông,” Preston nói. “Cẩn thận cái khung cửa đấy!”

Chẳng mấy chốc căn phòng trở nên trống trải và yên lặng. Hadley chậm chạp lắc đầu.

“Tôi chịu rồi, Fell,” ông thừa nhận. “Tôi không biết mình nên nghĩ theo hướng nào nữa. Ông nghĩ sao về ông già đó? Ông ta trông có vẻ hiền lành, mềm mỏng và dễ tính, nhưng ông ta cứ như bao cát vậy, chúng ta cứ đấm liên tục và đến cuối cùng ông ta vẫn đung đưa nhẹ nhàng ở chỗ cũ. Có vẻ như ông ta không quan tâm chúng ta nghĩ gì về ông ta. Hay thậm chí cả những gì chúng ta có thể làm với ông ta nữa. Có lẽ vì thế mà đám thanh niên không thích ông ta.”

“Hừm, đúng. Khi nào tôi thu dọn xong dống giấy tờ trong lò sưởi,” tiến sĩ Fell làu nhàu,“tôi sẽ về nhà suy nghĩ. Bởi điều tôi nghĩ bây giờ…”

“Vâng?”

“Rất kinh khủng.”

Tiến sĩ Fell đứng bật dậy khỏi ghế, kéo cái mũ rộng vành xuóng che mắt, và vung vẩy cái gậy.

“Tôi không muốn di đến giả thiết một cách vội vã. Ông sẽ phải đánh điện để tìm hiểu sự thật. Ha! Đúng rồi. Nhưng câu chuyện về ba cỗ quan tài là cái mà tôi không tin, mặc dù Drayman thì chắc có, Chúa mới biết được! Trừ khi toàn bộ giả thiết của ta đổ xuống sông xuống bể, chúng ta vẫn phải giả sử là hai anh em nhà Horváth kia vẫn còn sống. Đúng không?”

“Câu hỏi là…”

“Chuyện gì đã xảy ra với họ. Đúng. Giả thiết của tôi dựa trên cơ sở là Drayman tin rằng những gì ông ta kể là sự thật. Điểm đầu tiên! Tôi không mảy may tin là ba anh em nhà họ bị tống vào tù vì bất đồng chính trị. Grimaud, với ‘số tiền nho ông ta dành dụm được’, trốn thoát khỏi nhà tù. Ông ấy sống âm thầm trong năm năm hoặc hơn, và bỗng nhiên, ‘thừa kế’ một gia sản khổng lồ, dưới một cái tên hoàn toàn khác, từ một người mà chúng ta chưa từng nghe tới. Nhưng ông ấy chuồn khỏi Pháp để tận hưởng nó mà không ho he gì. Thêm vào điểm thứ hai! Bí mật nguy hiểm trong cuộc đời của Grimaud là gì, nếu tất cả những điều trên là sự thật? Hầu hết mọi người đều nghĩ Monte Cristo vượt ngục là một câu chuyện thú vị và lãng mạn, và đối với người Anh, cái tội mà Grimaud phạm phải chỉ ghê tởm và gây nhiều phẫn nộ như tội ăn cắp cái đèn xin qua đường hay đấm vào mắt cảnh sát trong đêm đua thuyền. Khỉ thật, Hadley, không thể như thế được!”

“Ý ông là…?”

“Ý tôi là,” tiến sĩ Fell nói rất khẽ, “Grimaud còn sống khi quan tài của ông ta bị đóng đinh. Giả sử như hai người kia cũng còn sống? Giả sử như cả ba ‘cái chết’ đều giả như Grimaud? Giả sử như hai người kia vẫn còn sống khi Grimaud đội mồ chui lên? Nhưng họ không thể chui ra được vì Grimaud có cái kìm nhổ đinh và không dùng nó để cứu anh em mình. Khó có khả năng là có nhiều hơn một cái kìm. Grimaud giữ nó, vì ông ta là người khỏe nhất. Khi ông ta đã ra ngoài được, thì cứu hai người kia ra là việc đơn giản như họ dự tính. Nhưng ông ta khôn ngoan quyết định để hai người kia chết luôn, bởi như vậy ông ta sẽ không phải chia cho ai số tiền họ đã ăn trộm được nữa. Rất thông minh, ông thấy đấy. Rất thông minh.”

Không ai nói gì. Hadley lẩm bẩm gì đó, gương mặt ông đầy hoài nghi và giận dữ khi ông đứng lên.

“Ồ, tôi biết ngay đó là tội ác đen tối mà!” tiến sĩ Fell lên giọng, “một tội ác đen tối, quỷ quyệt luôn ám ảnh giấc mộng của kẻ đã thực hiện nó. Nhưng đó là cách giải thích duy nhất trong vụ án kinh khủng này, và nó cũng giải thích vì sao ông ta sẽ bị săn đuổi nếu hai người anh em kia thoát được khỏi nấm mồ… Tại sao Grimaud lại hốt hoảng giục Drayman đi xa khỏi chỗ đó nhanh nhất có thể, không kịp vứt bỏ bộ quần áo tù? Tại sao phải mạo hiểm chạy trốn dù có nguy cơ bị phát hiện trên đường, sao không trốn gần nấm mồ vì đó là nơi cuối cùng người ta sẽ tìm kiếm? Những nấm mồ đó rất nông. Nếu sau đó, hai người anh em kia ngạt thở sắp chết mà vẫn không có ai đến cứu họ ra, họ sẽ bắt đầu la hét và quẫy đạp bên trong quan tài. Rất có thể Drayman sẽ thấy mặt đất rung chuyển hoặc nghe tiếng hét của họ vọng lên.”

“Loại khốn nạn nào…” Hadley nói với giọng nghi hoặc, rồi dừng lại. “Không. Chúng ta đi lạc hướng rồi, Fell. Tất cả chỉ là tưởng tượng. Không thể nào! Hơn nữa, trong trường hợp họ không thể trèo lên được. Họ sẽ chết.”

“Chắc không?” tiến sĩ Fell nói với vẻ lơ đãng. “Ông quên mất cái thuổng rồi.”

“Thuổng nào?”

“Cái thuổng dùng để đào mộ mà kẻ nào đó trong lúc sợ hãi hoặc vội vã đã để quên. Nhà tù, kể cả những nhà tù tệ nhất, không cho phép sơ suất như thế. Họ sẽ cho người quay lại lấy. Chà, tôi có thể thấy từng chi tiết trong sự kiện đó, dù tôi chẳng có chứng cứ nào để chứng minh cả! Hãy nhớ lại từng từ mà gã điên Pierre Fley đã nói với Grimaud ở quán Warwick và xem nó có phù hợp không… Thể nào cũng có một toán cai ngục gan dạ có vũ trang quay lại đi tìm cái thuổng đó. Họ nhìn thấy hoặc nghe được những điều mà Grimaud sợ Drayman sẽ nhìn thấy hoặc nghe được. Họ nhận ra thủ đoạn của ba anh em và hành xử nhân đạo. Những cỗ quan tài được mở tung, hai anh em chui ra, choáng váng, máu me, nhưng còn sống.”

“Và không ai làm ầm lên đi bắt Grimaud sao? Tại sao, chắc họ phải lật tung Hungary lên để tìm kẻ vượt ngục và…”

“Đúng, tôi cũng đã nghĩ về điều đó, và cũng đã hỏi câu hỏi đó. Người cai quản nhà tù sẽ làm đúng như vậy, nếu họ đang khỏng bị phê phán dữ dội đến nỗi mạng sống của mình còn có thể không giữ nổi. Những kẻ phê phán sẽ nói gì nếu họ biết những người cai ngục đã bất cẩn để chuyện đó xảy ra? Tốt hơn hết là cố mà giữ kín, đúng không? Tốt hơn hết là tống hai anh em kia vào biệt giam và giữ im lặng về gã thứ ba.”

“Tất cả đều chỉ là giả thuyết,” Hadley nói, sau khi ngẫm nghĩ. “Nhưng nếu đúng, tôi sẽ gần như tin vào ác quỷ. Chúa chứng giám là Grimaud đã nhận được đúng những gì ông ta đáng phải chịu. Và tương tự như vậy chúng ta cũng phải tìm ra kẻ giết người. Nếu đó là toàn bộ câu chuyện…”

“Tất nhiên đó không phải toàn bộ câu chuyện!” tiến sĩ Fell nói. “Nếu có thật, đó cũng không phải toàn bộ câu chuyện, và đó mới là điều tồi tệ nhất. Ông nhắc đến ác quỷ. Tôi bảo với ông là tôi không thể tưởng tượng nổi có quỷ dữ nào ác độc hơn Grimaud, nhưng đó là X, là người vô hình, là gã em Henri.” Ông cầm gậy lên chỉ trỏ. “Tại sao? Tại sao Pierre Fley thừa nhận rằng hắn sợ kẻ kia? Grimaud sợ thì còn hợp lí, nhưng tại sao Fley lại sợ chính người anh em trai đồng minh của mình cùng chống lại kẻ thù chung? Tại sao một nhà ảo thuật điêu luyện lại đi sợ một ảo ảnh, trừ khi gã em Henri này điên cuồng như một gã tội phạm mất trí và thông minh như quỷ Satan?”

Hadley bỏ quyển sổ tay vào trong túi và cài cúc áo khoác. “Ông về nhà nếu muốn,” ông nói. “Chuyện ở đây là xong rồi. Nhưng tôi sẽ đi bắt Fley. Dù gã kia có là ai, Fley cũng biết gã. Và hắn sẽ khai, tôi hứa chắc với ông như thế. Tôi sẽ đi khám xét phòng của Drayman, nhưng tôi không kì vọng gì nhiều. Fley là chìa khóa để giải bài toán này, và hắn sẽ dẫn chúng ta đến kẻ thủ ác. sẵn sàng chưa?”

Đến sáng hôm sau họ mới nhận được tin là Fley đã chết. Hắn đã bị bắn hạ bởi chính khẩu súng đã giết Grimaud. Và theo những nhân chứng, hung thủ hoàn toàn vô hình và không để lại dấu chân nào trên tuyết.