← Quay lại trang sách

- XXI - Vén màn bí ẩn

“Rồi sao?” Hadley giục khi thấy tiến sĩ Fell ngừng lại và cúi đầu xuống.

“Ba nhân chứng không nhìn thấy Grimaud, tất nhiên rồi,” tiến sĩ Fell nói, thở khò khè, và nói tiếp sau khi dừng lại một lúc lâu, “bởi ông ấy chưa bao giờ bước ra khỏi cửa, chưa bao giờ đi xuống bậc thềm, chưa bao giờ đến gần kẻ có vẻ như đã bị giết giữa một bãi tuyết trống. Tất nhiên Fley đã bị thương, máu đã phun ra thành tia sau cơn co giật cuối cùng. Tất nhiên không thể suy luận được gì từ hướng của vết thương. Tất nhiên không có dấu vân tay nào trên khẩu súng, vì nó đã rơi xuống tuyết và đã được rửa sạch theo đúng nghĩa đen.”

“Chúa ơi!” Hadley nói, lặng lẽ như thể đang dưa ra một tuyên bố. “Cách giải thích này thỏa mãn toàn bộ những bằng chứng, vậy mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến… Nhưng nói tiếp đi. Grimaud thì sao?”

“Grimaud ở phía sau cánh cửa. Ông ấy biết viên đạn đã găm vào ngực, nhưng không nghĩ nó nghiêm trọng lắm. Ông ấy đã sống sót qua được những thứ còn tồi tệ hơn một viên đạn, và có những thứ khác (ông ấy nghĩ) còn quan trọng hơn.

“Sau cùng thì Grimaud nhận được thứ mà theo kế hoạch phải do ông gây ra – một vết thương. Ông ấy có thể đã bật cười khoái trá về điều đó. Nhưng kế hoạch thì đã tan thành mây khói! (Làm sao ông ấy biết được đồng hồ trong cửa hiệu trang sức chạy nhanh? Ông ấy còn không biết được liệu Fley đã chết hay chưa, vì ông ấy đã thấy Fley vẫn đi được trên đường mặc dù bị đau. May mắn – đến từ cái đồng hồ ở cửa hiệu trang sức – đã đứng về phía ông ấy khi ông ấy nghĩ nó đã rời bỏ mình, nhưng làm sao ông ấy biết được?) Ông ấy chỉ biết được rằng bây giờ không ai có thể cho rằng Fley đã tự tử trong căn phòng nhỏ đó được nữa. Fley, có lẽ đã bị thương nặng, đúng, nhưng vẫn có thể nói được, và đang ở ngoài đường, một viên cảnh sát đang chạy về phía hắn. Thanh danh của Grimaud thế là tiêu tan. Trừ khi ông ấy sử dụng đầu óc của mình, không thì chỉ còn nước đợi lên giá treo cổ, vì bây giờ còn lâu Fley mới tiếp tục giữ im lặng.

“Ngay sau khi tiếng súng vang lên, đám đông tò mò đổ ra. Ông ấy không thể ở trong hành lang tối tăm này. Ông ấy nên xem qua vết thương của mình, đảm bảo không để lại vết máu. Ở đâu bây giờ? Đương nhiên là ở căn hộ của Burnaby ở tầng trên. Thế là ông ấy đi lên, mở cửa, và bật đèn. Sợi dây thừng ông đang buộc quanh người rồi, nhưng giờ nó không còn cần thiết nữa, ông ấy không thể giả vờ là Fley đã đến gặp ông ấy khi có nhiều khả năng là Fley đang nói chuyện với cảnh sát. Ông ấy quăng sợi dây thừng đi và bỏ mặc nó.

“Tiếp theo phải xem xét vết thương. Bên trong chiếc áo khoác vải tuýt bê bết máu, và máu còn dính cả vào quần áo bên trong nữa. Nhưng vết thương chỉ là vấn đề nhỏ. Ông ấy có khăn tay và cuộn băng dính, và ông ấy có thể băng bó cho mình như một con ngựa bị đâm trong trận đấu bò. Károly Horváth, người không ai có thể giết dược, có thể bật cười trong hoàn cảnh này. Ông ấy cảm thấy cực kì vững vàng và khỏe mạnh. Nhưng ông ấy phải băng bó vết thương – do đó mới có máu trong phòng vệ sinh ở nhà của Burnaby – và cố lấy lại sự sáng suốt. Mấy giờ rồi? Chúa ơi! Ông ấy đã bị muộn, giờ đã 10 giờ kém 15 rồi. Phải ra khỏi đây và nhanh chóng về nhà trước khi họ bắt được ông ấy…

“Và ông ấy cứ thế để đèn sáng. Tiền hết và đèn tắt lúc nào thì chúng ta không biết. Chỉ biết là 45 phút sau đó, Rosette vẫn nhìn thấy đèn sáng.

“Nhưng tôi nghĩ, sự sáng suốt đã quay lại với ông ấy trên đường về nhà. Ông ấy sẽ bị bắt chứ? Điều đó dường như là không thể tránh khỏi. Nhưng liệu có kẽ hở nào, có cơ hội mong manh nào để tranh đấu không, một cơ hội mong manh thôi cũng được? Ông thấy đấy, về bản chất Grimaud vẫn là một chiến binh. Ông ấy là một kẻ đê tiện, màu mè, thích nhạo báng người khác, khôn ngoan, thực tế, giàu trí tưởng tượng, nhưng đừng quên ông ta là một chiến binh. Ở ông ấy không chỉ có toàn màu đen. Ông ấy sẵn sàng giết chết em trai, nhưng tôi nghĩ ông ấy sẽ không giết một nguời bạn hay người phụ nữ yêu mình. Dù sao thì, liệu có cách thoát tội nào không? Có một cơ hội, mong manh đến mức gần như không tận dụng nổi, nhưng dù sao cũng có một cơ hội. Đó là tiếp tục mưu đồ ban đầu và vờ như Fley đã đến gặp ông ấy và gây ra vết thương đó trong nhà của ông ấy. Fley vẫn cầm khẩu súng. Bằng chứng sẽ là lời khai của Grimaud, và sự khẳng định của các nhân chứng rằng tối hôm đó ông ấy không hề rời khỏi nhà! Họ có thể thề rằng Fley thật sự đã đến gặp ông ấy… và cứ cho cảnh sát tìm cách chứng minh! Tại sao không? Tuyết ư? Tuyết đã ngừng rơi và dấu chân của Fley nếu có sẽ không còn nữa. Grimaud đã vứt sợi dây thừng mà lẽ ra Fley sẽ dùng. Nhưng đó là trò đánh cược, lần thách thức số phận cuối cùng, cách duy nhất còn lại khi đã rơi vào cảnh túng quẫn…

“Fley bắn ông ấy vào khoảng 10 giờ kém 20. Ông ấy quay lại đây vào lúc 10 giờ kém 15 hoặc muộn hơn một chút. Vào nhà mà không để lại dấu chân? Dễ ợt, với một người khỏe như trâu và mới chỉ bị thương nhẹ. (Nhân tiện, tôi tin rằng ông ấy thực sự chỉ bị thương nhẹ, và ông ấy sẽ còn sống đến bây giờ để đền tội, nếu ông ấy không làm những việc sau đó, rồi ông sẽ thấy.) Ông ấy đi đường thang dẫn vào cửa ngách xuống tầng hầm như đã tính toán. Bằng cách nào? Chà, có một lớp tuyết phủ lên bậc cầu thang, tất nhiên rồi. Nhưng cửa ngách này lại nằm ngay cạnh căn nhà kế bên, phải không? Đúng. Và chiếu tới cầu thang thì không có tuyết vì có mái che ở trên nhô ra. Như vậy ngay trước cửa ngách không có chút tuyết nào. Nếu ông ấy có thể xuống đó mà không để lại dấu vết…

“Ông ấy có thể. Ông ấy có thể đi hướng khác, như thể đang định đi vào nhà hàng xóm, rồi nhảy xuống chỗ không có tuyết bên dưới… Hình như tôi nhớ là có ai đó đã nghe thấy một tiếng thịch, như thể có người bị ngã, ngay trước khi chuông cửa rung lên?”

“Nhưng ông ấy đã không rung chuông cửa!”

“Ồ có chứ, ông ấy rung nó từ bên trong. Sau khi đã vào được nhà qua lối cửa ngách, ông ấy lên chỗ Ernestine Dumont đang đợi. Họ đã sẵn sàng thực hiện màn ảo thuật của mình.”

“Đúng,” Hadley nói. “Giờ hãy nói đến màn ảo thuật. Nó được thực hiện như thế nào, và làm sao ông biết?”

Tiến sĩ Fell ngồi dựa lưng vào ghế, chụm hai bàn tay lại và gõ đầu ngón tay vào nhau như đang sắp xếp các chi tiết.

“Làm sao tôi biết à? Tôi nghĩ gợi ý đầu tiên chính là trọng lượng của bức tranh đó.” Ông uể oải chỉ vào bức tranh đã bị rạch nát bươm đang dựa vào tường. “Phải, là trọng lượng của bức tranh. Điều đó thực ra không giúp ích gì lắm, cho đến khi tôi nhớ ra một điều khác…”

“Trọng lượng của bức tranh? Đúng, bức tranh,” Hadley gầm gừ, “tôi đã quên mất nó. Nhưng nó thì liên quan gì đến vụ việc quái gở này? Grimaud muốn làm gì với nó?”

“Ha ha, đúng. Đó cũng là điều tôi tự hỏi, ông thấy đấy.”

“Về trọng lượng của bức tranh... Nó không nặng lắm. Chính ông đã dùng một tay nhấc nó lên và xoay nó một vòng trên không.”

Tiến sĩ Fell ngồi thẳng dậy có vẻ hào hứng. “Chính xác. Ông nói đúng chỗ rồi đấy. Tôi nhấc nó lên bằng một tay và xoay nó một vòng… Vậy sao lại cần đến hai người đàn ông vạm vỡ – một ông lái xe và một người phụ giúp nữa – để vác nó lên nhà?”

“Cái gì?”

“Đúng thế đấy. Chi tiết đó đã được nhắc lại đến hai lần. Grimaud, khi mang nó đi từ phòng tranh của Burnaby, đã dễ dàng bê nó xuống cầu thang. Vậy mà khi ông ấy quay lại đây với cùng một bức tranh vào buổi chiều muộn, thì cần đến những hai người để mang nó lên trên nhà. Bức tranh bỗng nhiên nặng lên như vậy là vì sao? Ông thấy đấy, ông ấy không đem nó lồng khung kính. Grimaud đã ở đâu, từ buổi sáng khi mua bức tranh đến buổi chiều khi mang nó về nhà? Bức tranh quá cồng kềnh để mang nó đi khoe cho vui. Tại sao Grimaud cứ nhất quyết phải bọc bức tranh lại?

“Cũng không cần phải suy luận xa xôi lắm để đoán rằng ông ấy đã dùng bức tranh làm vỏ bọc để che giấu một vật gì đó bên trong – một vật gì đó mà những người kia đã vô tình khiêng nó lên đây. Một thứ cũng nằm trong cái bọc với bức tranh. Một thứ rất lớn, dài 2,1 mét rộng 1,4 mét…”

“Nhưng không thể có vật gì trong đó,” Hadley phản bác, “không thì ta đã phải tìm thấy nó trong phòng rồi chứ? Ngoài ra, thứ đó phải hầu như bằng phẳng, nếu không thì sẽ phồng lên dưới lớp vỏ bọc ngay. Vật gì mà có kích thước lớn đến 2,1 mét × 1,4 mét, nhưng lại đủ mỏng để nhét vừa vào bên trong lớp giấy bọc mà không bị ai phát hiện, vật gì to như môt bức tranh, nhưng vẫn có thể giấu đi dễ dàng khi ta muốn?”

“Một tấm gương,” tiến sĩ Fell nói.

Sau một hồi im lặng vì sửng sốt, Hadley nhảy bật ra khỏi ghế, trong khi tiến sĩ Fell vẫn nói với giọng buồn ngủ: “Và có thể dễ dàng giấu nó đi, như ông nói, bằng cách đút nó lên trên cái ống khói rộng – chúng ta đều đã thử đút tay vào ống khói mà – và dựa nó vào cái gờ bên trong chỗ ống khói ngoặt lên. Ông không cần đến phép thuật. Ông chỉ cần có đôi tay và vai cực khỏe.”

“Ý ông là,” Hadley rít lên, “cái trò ảo thuật trên sân khấu chết tiệt đó…”

“Một phiên bản mới của trò ảo thuật trên sân khấu,” tiến sĩ Fell nói,” và rất dễ áp dụng nếu ông muốn thử. Giờ hãy nhìn quanh căn phòng này xem. ông thấy cái cửa chứ? Vậy ông thấy cái gì trên bức tường đối diện cửa?”

“Không gì cả,” Hadley nói. “Ý tôi là, ông ấy đã dọn giá sách sang hai bên. Ở đó chỉ còn bức tường trống thôi.”

“Chính xác. Và ông có thấy đồ đạc nào trong phòng chắn giữa cánh cửa và bức tường đó không?”

“Không. Hoàn toàn trống trải.”

“Vậy nếu ông đứng từ ngoài hành lang nhìn vào, ông chỉ thấy thảm đen, không có đồ đạc, và ở phía cuối chỉ là một dải tường ốp gỗ sồi trống trơn?”

“Đúng.”

“Giờ thì Ted, hãy mở cửa và nhìn ra ngoài hành lang,” tiến sĩ Fell nói. “Bức tường và thảm ở bên ngoài thì sao?”

Rampole giả vờ nhìn ra ngoài, dù anh đã biết rõ câu trả lời. “Cũng giống như thế,” anh nói. “Sàn trải thảm kín đến chân tường, giống như trong này, và gỗ ốp trên tường cũng giống như vậy.”

“Phải! À này, Hadley,” tiến sĩ Fell tiếp tục, vẫn với giọng uể oải, “ông có thể kéo tấm gương giấu đằng sau tủ sách đằng kia ra đây được không? Nó đã ở đó từ chiều hôm qua, khi Drayman tìm thấy nó trong ống khói. Chính việc hạ nó xuống đã khiến ông ấy bị đột qụy. Chúng ta sẽ làm một thí nghiệm nho nhỏ. Tôi không nghĩ có người nào trong nhà sẽ làm phiền chúng ta trên này, nhưng chúng ta có thể biết trước được nếu có người nào đó đi vào. Tôi muốn ông bê cái gương đó, Hadley, và đặt nó phía sau cánh cửa, để khi mở cửa ra (cửa mở vào trong và về phía bên phải khi nhìn từ hành lang vào), mép ngoài cùng của cánh cửa chỉ cách tấm gương vài phân.”

Ngài chánh thanh tra cấp cao, hơi khó khăn một chút, kéo vật ông tìm thấy từ phía sau tủ sách ra. Nó lớn hơn tấm gương lật của các ông thợ may vài phân, thật ra nó lớn hơn và rộng hơn cả cánh cửa. Đế của nó đặt bằng trên thảm, và nó được giữ thẳng đứng bằng một cái khung nặng nằm ở bên phải khi ta nhìn thẳng vào nó. Hadley nhìn nó với vẻ tò mò.

“Đặt nó phía sau cánh cửa à?”

“Đúng. Cánh cửa sẽ mở ra một khoảng nhỏ, ông sẽ thấy nó mở ra chỉ khoảng tối đa 1 mét thôi… Thử đi!”

“Tôi biết, nhưng nếu ông làm thế, người nào đó ngồi ở căn phòng cuối hành lang, chỗ của Mills, sẽ thấy hình phản chiếu của mình hiện lên chình ình ngay giữa tấm gương.”

“Không đâu. Mills sẽ không thấy được nếu ta đặt nó nghiêng đi một chút, vừa đủ thôi – góc nhỏ thôi, nhưng góc của tôi – sẽ không thấy được nếu ta đặt nó nghiêng theo góc mà tôi định đặt. Ông sẽ thấy. Hai người chạy ra chỗ Mills ngồi trong khi tôi điều chỉnh nó. Đừng nhìn vào đây đến khi tôi ra hiệu nhé.”

Hadley, tuy lẩm bẩm rằng đây đúng là trò ngớ ngẩn, nhưng vẫn tỏ ra cực kì hứng thú, bước thình thịch sau lưng Rampole. Họ không nhìn vào cửa cho đến khi nghe tiếng gọi của vị tiến sĩ, và sau đó quay lưng lại.

Hành lang đủ tối và cao. Thảm đen trải dài đến tận cánh cửa đóng kín. Tiến sĩ Fell đứng bên ngoài, như một ông chủ trì nghi lễ béo phì sắp sửa giới thiệu một bức tượng. Ông đứng hơi nghiêng về bên phải cửa, lưng hướng về phía tường, và đặt tay lên nắm đấm cửa.

“Bắt đầu nào!” ông kêu lên, và nhanh chóng mở cửa ra, ngập ngừng và rồi đóng vào. “Thế nào? Mọi người thấy gì?”

“Tôi thấy căn phòng bên trong,” Hadley đáp lại. “Hoặc ít nhất tôi nghĩ mình đã thấy thế. Tôi thấy tấm thảm, và bức tường ở cuối phòng. Có vẻ như căn phòng rất rộng.”

“Ông không thấy căn phòng đâu,” tiến sĩ Fell nói. “Thật ra, cái ông thấy là hình ảnh phản chiếu của bức tường ngay bên phải cánh cửa nơi ông đang đứng, và tấm thảm bên ngoài căn phòng. Đó là lí do vì sao căn phòng trông lại rộng đến thế: vì khoảng cách phản xạ dài gấp đôi. Ông biết đấy, tấm gương lớn hơn cánh cửa. Và ông không thấy hình ảnh phản chiếu của cánh cửa vì nó được mở vào trong và về phía bên phải. Nếu nhìn kĩ, ông sẽ thấy một đường kẻ giống như một cái bóng ở góc trên cùng của cánh cửa. Đó là góc trên cùng của tấm gương phản chiếu vào, vì nó cao hơn vài phân so với góc trên cùng của cánh cửa. Nhưng hai người sẽ chỉ tập trung vào hình người… Hai người có thấy tôi chứ?’

“Không, ông đứng lệch về bên phải quá. Ông giơ tay ra cầm nắm đấm cửa, và ông quay lưng lại.”

“Đúng. Như bà Dumont đã đứng. Giờ hãy làm một thí nghiệm cuối cùng trước khi tôi giải thích toàn bộ trò này hoạt động ra làm sao. Ted, cậu ngồi xuống cái ghế đằng sau bàn làm việc, nơi Mills đã ngồi. Cậu cao hơn anh ta nhiều, nhưng cũng vẫn minh họa được cho ý tưởng của tôi. Tôi sẽ đứng ngoài, với cửa mở, và nhìn vào bóng của tôi trong gương. Cậu không thể nhìn nhầm tôi, dù từ đằng trước hay đằng sau, nhưng cũng vì tôi dễ nhận ra hơn nhiều người. Cứ nói cho tôi biết cậu thấy gì nhé.”

Trong ánh sáng mờ ảo, với cánh cửa không mở hết, điều mà Rampole nhìn thấy rất lạ kì. Có một tiến sĩ Fell đứng sau cánh cửa, nhìn chằm chằm vào một tiến sĩ Fell khác đang đứng ở ngưỡng cửa và đối diện với chính mình, bất động và có vẻ giật mình.

“Tôi không chạm vào cánh cửa, mọi người thấy đấy,” một giọng nói ầm ầm hướng về phía họ. Qua cử động môi, Rampole có thể thề rằng mình đã thấy tiến sĩ Fell đứng sau cánh cửa đang nói. Tấm gương dội âm thanh lại như một tấm chắn âm. “Có ai đó giúp tôi mở và đóng cửa, có người nào đó đứng ở bên phải tôi. Tôi không thể chạm vào cánh cửa, vì nếu có thì cái bóng phản chiếu trong gương cũng sẽ làm như vậy. Nhanh nào, mọi người để ý thấy điều gì?”

“Chà, một người cao hơn người kia rất nhiều,” Rampole vừa nói vừa chăm chú quan sát.

“Người nào?”

“Chính ông, người đứng trong hành lang.”

“Chính xác. Trước tiên là bởi cậu quan sát tôi từ khoảng cách xa, nhưng quan trọng nhất là vì cậu đang ngồi. Với một người nhỏ con như Mills thì chắc tôi trông như một người khổng lồ. Đúng không? Ha. Được rồi. Giờ nếu tôi lách qua cửa thật nhanh (cứ cho là một người như tôi có thể làm được điều đó), và cùng lúc đó, trợ lí của tôi đứng bên phải cử động một cách khó hiểu cùng tôi và đóng sầm cửa lại, trong lúc lộn xộn đó, bóng người bên trong có vẻ như sẽ…?”

“Nhảy ra chặn không cho ông đi vào.”

“Đúng. Giờ hãy vào đây đọc lại lời khai nào, nếu Hadley còn giữ nó.”

Sau khi họ đi ngang qua tấm gương mà Hadley đã đẩy sang một bên, tiến sĩ Fell ngồi lún xuống ghế, thở khò khè.

“Tôi xin lỗi mọi người. Lẽ ra tôi phải nhìn ra được sự thật sớm hơn nhiều, từ lời khai rất chính xác, có thứ tự, và cẩn thận của anh Mills. Để xem tôi có thể nhớ lại nguyên văn anh ta đã nói gì không nhé. Hãy kiểm tra giúp tôi, Hadley. Hừm.” Ông gõ đốt ngón tay lên đầu rồi cau có. “Như thế này:

‘Bà ấy (Dumont) chuẩn bị gõ cửa thì tôi giật mình khi thấy một người đàn ông cao lớn đi lên cầu thang ngay sau lưng bà ấy. Bà ấy quay lại và nhìn thấy hắn ta. Bà ấy thốt lên điều gì đó… Người đàn ông cao lớn đó không trả lời. Hắn ta bước tới cánh cửa và chậm rãi kéo cổ áo khoác xuống, bỏ mũ ra, và đút mũ vào trong túi áo khoác…’

“Mọi người thấy chưa? Ông ấy phải làm thế, vì hình ảnh phản chiếu trong gương không thể đội mũ và kéo cổ áo lên cao vì Grimaud lẽ ra phải mặc áo choàng trong nhà. Nhưng tôi băn khoăn không biết tại sao anh ta lại mô tả tuần tự thế, vì rõ ràng người đàn ông không hề tháo mặt nạ ra…”

“Đúng, còn cái mặt nạ thì sao? Mills nói anh ta không…”

“Mills không thấy người đàn ông tháo nó ra, tôi sẽ nói lí do tại sao ngay khi chúng ta quay lại với Mills.

‘Bà Dumont hét lên gì đó, co người lại dựa lưng vào tường, và vội vã mở cửa. Tiến sĩ Grimaud xuất hiện ở ngưỡng cửa…’

“Xuất hiện! Đó chính là điều đã xảy ra. Nhân chứng rất chỉn chu của chúng ta đã kể lại mọi chuyện một cách vô cùng chính xác. Nhưng Dumont? Đó là sai lầm đầu tiên. Một người phụ nữ đang hoảng sợ, ngước nhìn lên một người đàn ông đeo mặt nạ kinh dị trong khi đứng trước cửa phòng của người có thể bảo vệ được bà ấy, không thể co người lại. Bà ấy phải hộc tốc lao về phía cánh cửa để được bảo vệ. Dù thế nào đi nữa, hãy tiếp tục với lời khai của Mills. Anh ta nói Grimaud không đeo kính (không thể vừa đeo kính vừa mang cái mặt nạ đó). Nhưng phản ứng tự nhiên của người đứng bên trong, theo tôi nghĩ, sẽ phải là nâng kính lên nhìn. Còn Grimaud, theo như Mills kể lại, đứng yên không cử động từ đầu đến cuối, y như người lạ mặt, với hai tay đút túi quần. Giờ đến phần khiến ông ấy bị lộ. Mills nói:

‘Tôi có cảm giác là bà Dumont, mặc dù đang co rúm người lại dựa lưng vào tường, đã đóng cửa lại sau khi hắn ta bước vào. Tôi còn nhớ là bà ấy vẫn đặt tay lên nắm đấm cửa.’

“Cũng không phải phản ứng tự nhiên của con người! Lời khai của hai người mâu thuẫn với nhau, nhưng Mills đã đúng.”

Tiến sĩ Fell khoát tay. “Những gì xảy ra tiếp theo thì không cần nói nữa. Nhưng tôi lại gặp rắc rối ở điểm này: nếu Grimaud ở một mình trong phòng, nếu ông ta bước vào cái bóng của mình trong gương, thì chỗ quần áo còn lại đâu? Cái áo khoác dài màu đen, mũ kê pi màu nâu, thậm chí cả cái mặt nạ nữa? Chúng không có trong phòng. Rồi tôi nhớ ra trước đây Ernestine Dumont đã từng làm phục trang cho các vở opera và ballet, tôi nhớ lại câu chuyện mà O’Rourke đã kể, và tôi biết…”

“Biết gì?”

“Rằng Grimaud đã đốt chúng,” tiến sĩ Fell nói. “Ông ấy đốt chúng bởi chúng được làm bằng giấy, như đồng phục của người cưỡi ngựa biến mất mà O’Rourke kể lại. Ông ấy không thể mạo hiểm đốt quần áo thật trong lò sưởi, vì như thế quá lâu và để lại dấu vết, trong khi ông ấy phải làm thật nhanh. Ông ấy phải xé chúng ra và đốt. Và một đống giấy trắng hoàn-toàn-trống-trơn phải được đem đốt đè lên trên để che giấu sự thật là bên dưới là giấy màu. Những lá thư nhạy cảm! Ôi, Bacchus ơi, tôi muốn tự giết mình vì đã có ý tưởng ngu ngốc đó!” Ông đung đưa nắm đấm. “Khi không hề có vết máu, hay dấu máu nào dẫn đến ngăn kéo bàn làm việc nơi ông ấy cất giữ những giấy tờ quan trọng! Và có một lí do nữa để đốt giấy, họ phải che đậy những mảnh vụn của ‘phát đạn.’ ”

“Phát đạn?”

“Đừng quên là theo kịch bản phải có tiếng súng nổ trong phòng. Tất nhiên, âm thanh mà các nhân chứng thực sự được nghe chỉ là tiếng pháo chuột, lấy trộm trong kho tích trữ của ông Drayman để dành cho lễ hội Guy Fawkes. Drayman phát hiện ra pháo bị mất, tôi nghĩ vì thế ông ta tình cờ phát hiện ra âm mưu này, và cũng là lí do ông ta cứ liên tục lẩm bẩm về ‘pháo hoa’. Chà, những mảnh vụn khi pháo hoa nổ lan rộng lắm. Nó được gia cố bằng giấy bìa, rất khó cháy, và phải đem hủy trong lò sưởi hoặc dưới đống giấy tờ vương vãi. Tôi đã tìm thấy vài mảnh vụn. Tất nhiên, chúng ta nên nhận ra ngay rằng không có viên đạn nào thực sự được bắn ra cả. Đạn đời mới – như loại mà ông nói với tôi được dùng trong khẩu Colt đó – dùng thuốc súng không khói. Ông có thể ngửi thấy, nhưng không thể nhìn thấy khói. Vậy mà trong phòng lại có một làn khói mù (do pháo gây ra) ngay cả khi cửa sổ được để mở.

“Chà, hãy tóm tắt lại nhé! Bộ quần áo của Grimaud làm bằng giấy kếp bao gồm một cái áo khoác đen, giống như màu của cái áo choàng mặc trong nhà, dài như nó, và có ve áo phát sáng trông như áo mặc trong nhà khi kéo cổ áo xuống để nhìn vào gương. Ngoài ra còn có một cái mũ bằng giấy, gắn vào cái mặt nạ, sao cho khi bỏ mũ ra thì có thể gập được cả mũ lẫn mặt nạ để dễ nhét vào túi áo. (Bộ quần áo mặc trong nhà thật sự đã ở sẵn trong phòng khi Grimaud ra ngoài.) Và bộ “đồng phục” màu đen đó trước đó đã được khinh suất treo trong tủ quần áo dưới tầng.

“Không may là Mangan đã phát hiện ra nó. Bà Dumont biết cậu ta đã thấy nó, và nhanh tay cất nó vào chỗ an toàn hơn ngay khi Mangan đi mất. Dĩ nhiên bà ấy không hề thấy cái áo vải tuýt màu vàng treo trong đó bao giờ. Grimaud đã mang nó lên nhà để chuẩn bị ra ngoài. Nhưng nó lại được tìm thấy trong tủ quần áo vào chiều hôm qua, và bà ấy phải giả vờ như nó đã được treo ở đó từ trước. Thế là giải thích xong bí ẩn áo khoác đổi màu.

“Giờ mọi người có thể tái hiện lại chuyện đã xảy ra khi Grimaud, sau khi giết Fley và ăn một viên đạn vào người, quay trở lại nhà trong đêm thứ bảy. Ngay từ đầu màn ảo thuật, ông ấy và kẻ đồng phạm đã gặp phải rắc rối lớn. Ông thấy đấy, Grimaud về muộn. Theo kế hoạch ông ta phải về lúc 9 rưỡi, nhưng thực tế đến 10 giờ kém 15 ông ấy mới về đến nhà. Càng trì hoãn lâu thì càng đến gần mốc thời gian mà ông ấy bảo Mangan vị khách sẽ tới, và do đó Mangan có thể đang đợi sẵn rồi. Đó là khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, và tôi hình dung là ông Grimaud vốn bình tĩnh cũng đã gần như phát điên. Ông ấy đi lên từ lối vào qua tầng hầm, nơi bà Dumont đang đợi sẵn. Cái áo khoác vải tuýt dính đầy máu bên trong được cho vào tủ quần áo để đem vứt sau đó, nhưng ông ấy không còn cơ hội để làm điều đó, vì ông ấy đã chết. Dumont mở cửa, thò tay ra rung chuông rồi ‘trả lời’ trong khi Grimaud đang mặc bộ đồng phục.

“Nhưng họ đã trì hoãn quá lâu. Mangan gọi với ra. Đầu óc vẫn chưa trở lại bình thường, Grimaud trở nên hoảng hốt và mắc sai lầm khi cố không để bị phát hiện ngay lập tức. Ông ấy không muốn kế hoạch thất bại chỉ vì sự tọc mạch của một gã trai trẻ không xu dính túi. Nên ông ấy giả giọng Pettis và khóa cửa nhốt hai người trong phòng. (Ông để ý rằng Pettis là người duy nhất có giọng nói với âm trầm tương tự như Grimaud chứ?) Đúng, đó là một sai lầm trong lúc bốc dồng, nhưng ông ấy chỉ muốn thoát đi thật nhanh để nằm lăn lộn ra trong phòng mình như một cầu thủ bóng đá bị đốn ngã thôi.

“Màn ảo thuật được thực hiện. Giờ thì ông ấy đang ở một mình trong phòng. Cái áo vét dính máu đã được bà Dumont lo liệu, áo sơ mi đã cởi, vết thương đã được băng bó. Giờ ông ấy chỉ cần khóa cửa lại, mặc bộ quần áo ở nhà thật, đốt bộ quần áo bằng giấy, và nhét cái gương lên trên ống khói…

“Đó, tôi nói lại lần nữa, là hồi kết. Máu lại bắt đầu trào ra, như các ông thấy. Không một người bình thường nào bị thương lại có thể chịu đựng được những gì ông ấy đã trải qua. Ông ấy chết không phải bởi viên đạn của Fley. Ông ấy chết vì đã xé rách phổi của mình như một miếng nhựa cũ, trong lúc cố gắng hết sức để nhấc cái gương giấu vào lò sưởi. Đó là khi ông ấy biết. Đó là khi máu bắt đầu trào ra từ miệng ông ấy như từ động mạch bị vỡ, khi ông ấy loạng choạng dựa vào cái ghế sofa, làm đổ cái ghế, rồi bước lảo đảo về phía trước để châm quả pháo – nỗ lực thành công cuối cùng của ông ấy. Sau tất cả những căm thù, lẩn tránh và bày mưu tính kế, thế giới không xoay vần theo cách ông ấy muốn, nó dần dần chuyển thành màu đen. Ông ấy cố hét lên, nhưng không thể, vì máu đã trào lên cổ họng. Và đúng vào khoảnh khắc đó, Charles Grimaud bỗng nhiên nhận ra diều ông ấy nghĩ là không thể xảy ra, ông ấy thấy tấm gương ảo thuật cuối cùng trong cuộc đời đắng cay của ông ấy bị đập vỡ…”

“Là?”

“Ông ấy biết mình sắp chết,” tiến sĩ Fell nói. “Và lạ lùng hơn bất cứ giấc mơ nào, ông ấy thấy vui mừng.”

Ánh sáng nặng như chì trở nên tối tăm hơn khi tuyết bắt đầu rơi. Giọng của tiến sĩ Fell nghe có vẻ huyền bí trong căn phòng lạnh lẽo. Rồi họ thấy cánh cửa mở ra, và đứng ở ngưỡng cửa là một người phụ nữ với khuôn mặt đau khổ. Dù với khuôn mặt đau khổ và bộ váy đen, nhưng bà ta vẫn khoác trên vai chiếc khăn choàng màu vàng và đỏ để tưởng nhớ người đã khuất.

‘‘Hai người thấy đấy, ông ấy đã thú tội,” tiến sĩ Fell vẫn giữ nguyên giọng trầm đều, “ông ấy cố nói với chúng ta sự thật: về việc ông ấy đã hãm hại Fley, và Fley đã giết ông ấy. Tuy nhiên chúng ta lại chọn cách không hiểu, và tôi vẫn không hiểu cho đến khi tôi suy ra được chuyện gì đã thật sự diễn ra trên phố Cagliostro nhờ chiếc đồng hồ. Trời, hai ngươi không thấy sao? Hãy nhớ lại những lời cuối cùng ông ấy nói trước khi chết:

‘Em trai tôi là hung thủ. Tôi chưa bao giờ nghĩ nó sẽ bắn. Có Chúa mới biết nó thoát ra khỏi phòng bằng cách nào…’

“Ý của ông ta là phòng của Fley trên phố Cagliostro, sau khi ông ta bỏ mặc Fley chết?” Hadley hỏi.

“Đúng. Và Grimaud cũng nói đến cú sốc mà ông ấy đã trải qua khi mở cánh cửa nhà dưới ánh đèn đường. Hãy nhớ xem:

‘Vừa mới đây nó còn ở đó mà ngay sau đó nó đã biến… Tôi muốn nói cho ông biết em trai tôi là ai, để ông không nghĩ là tôi mê sảng…’

“Tất nhiên ông ấy không nghĩ rằng có người nào khác biết về Fley. Giờ, khi đã biết sự thật rồi, hãy giải mã những lời rối rắm, lộn xộn mà ông ấy chật vật nói khi sắp chết, đó chính là lúc ông ấy cố giải thích với chúng ta.

“Đầu tiên ông ấy cố nói với chúng ta về anh em nhà Horváth và mỏ muối. Nhưng rồi ông ấy lại tiếp tục kể về âm mưu giết Fley, và việc Fley đã giết ông ấy. ‘Không phải tự tử.’ Khi ông ấy thấy Fley đi trên đường, ông ấy biết mình không thể làm cho cái chết của Fley giống như một vụ tự tử. ‘Nó không thể dùng dây thừng.’ Fley không thể dùng sợi dây thừng vì Grimaud đã vứt nó đi. ‘Mái nhà.’ Ý Grimaud không phải là mái nhà này, mà là mái nhà ông ấy đã đi qua để đến phòng của Fley. ‘Tuyết.’ Tuyết đã ngừng rơi và phá hỏng kế hoạch của ông ấy. ‘Quá nhiều ánh sáng.’ Mấu chốt là ở đây, Hadley! Khi ông ấy nhìn ra ngoài thì ngọn đèn đường quá sáng dã khiến Fley nhận ra ông ấy và nổ súng. ‘Có súng.’ Đương nhiên, lúc đó Fley đang cầm súng. ‘Fox.’ Cái mặt nạ Guy Fawkes mà ông ấy cố sử dụng. Nhưng cuối cùng, ‘Đừng đổ lỗi cho… tội nghiệp.’ Không phải Drayman, ông ấy không định nói Drayman. Nhưng đó là lời biện bạch cuối cùng, tôi nghĩ vậy, cho hành động duy nhất khiến ông ấy nhục nhã, cho lần giả mạo mà ông ấy nghĩ mình sẽ không bao giờ làm. ‘Đừng đổ lỗi cho Pettis tội nghiệp, tôi không muốn lôi ông ấy vào vụ này.’ ”

Một lúc lâu không ai nói gì.

“Đúng,” Hadley tán thành. “Đúng. Tất cả mọi thứ đều đúng ngoại trừ một điều. Bức tranh bị rạch thì sao, con dao đâu rồi?”

“Việc bức tranh bị rạch, theo tôi nghĩ, là một tình tiết bổ trợ để khiến người ta càng tin vào màn kịch được dựng lên, có lẽ là Grimaud đã làm việc đó. Còn về con dao, tôi thật sự không biết. Grimaud có thể đã giữ nó ở đây, rồi sau đó giấu lên ống khói bên cạnh tấm gương để vờ như người vô hình mang nhiều vũ khí. Nhưng bây giờ nó không còn ở trên gờ tường chỗ ống khói nữa. Tôi cho rằng Drayman đã tìm thấy nó hôm qua, và mang nó đi…”

“Đó là chi tiết duy nhất,” một giọng nói vang lên, “mà ông đã đoán sai.”

Ernestine Dumont vẫn đứng yên trên bậc cửa, hai tay khoanh trước ngực đè lên tấm khăn choàng. Nhưng bà ta đang mỉm cười.

“Tôi đã nghe tất cả những gì ông nói,” bà ta tiếp tục. “Ông có thể treo cổ tôi, hoặc không. Điều đó không quan trọng. Sau nhiều năm tôi đã biết rằng cuộc sống không có Charles sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa… Tôi đã lấy con dao, bạn của tôi. Tôi vẫn cần dùng nó.”

Bà ta vẫn cười, và một niềm tự hào mãnh liệt lóe lên trong mắt bà. Rampole nhìn thấy thứ mà bà ta đang giấu trên tay. Anh nhìn thấy bà ta đột nhiên lảo đảo, nhưng không kịp đến để đỡ khi bà ta ngã sấp mặt xuống. Tiến sĩ Fell lật đật đứng lên khỏi ghế và nhìn chằm chằm về phía Dumont, khuôn mặt trắng bệch như mặt của bà ta.

“Tôi lại phạm một tội nữa rồi, Hadley,” ông nói. “Một lần nữa tôi đã đoán đúng sự thật.”

Tên nhân vật

← H. G. Wells (1866–1946): nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, trong đó có Người vô hình (The Invisible Man). (Các chú thích không ghi chú gì thêm đều là của người dịch.)

← George Bradshaw (1800–1853): người xuất bản cuốn Cẩm nang Bradshaw (Bradshaw’s Guide), một loạt sách hướng dẫn về hệ thống tàu hỏa và giờ tàu chạy.

← Kinh thánh Công vụ 26:24.

← Khu vực Trung Tây Âu và Đông Tây Âu.

← Ngài Jacob Epstein (1880–1959): nhà điêu khắc người Anh, người tiên phong trong nghệ thuật điêu khắc hiện đại.

← Một khu vực thuộc thành phố Westminster và khu hoàng gia Kensington và Chelsea, ở trung tâm thành phố London.

← Hans Gross (1847–1915): người được cho là cha đẻ của ngành tội phạm học.

← Paul Jeserich (1854–1927): nhà hóa học người Đức từng làm việc cho tòa án.

← Một bài hát phổ biến vào thế kỉ thứ 19 về nghệ sĩ xiếc Jules Léotard.

← Một khu vực ở phía đông London, thường được biết đến là một khu vực nghèo nàn, có đông dân nhập cư từ trong và ngoài nước Anh.

← Một khu vực ở trung tâm và tây London, nơi tập trung nhiều khu mua sắm, văn phòng doanh nghiệp, tòa nhà chính phủ, cũng như địa điểm giải trí. West End được xem là trung tâm thương mại và giải trí của London.

← Gabriel Dobrentei (1786–1851): nhà thơ và nhà sưu tập đồ cổ người Hungary.

← Tạm dịch: Những bức thư gửi từ Yorick đến Eliza. (Đông A – Đ.A.)

← Tạm dịch: Shakespeare toàn tập. (Đ.A.)

← Guy Fawkes (1570–1606): người đứng đầu một nhóm tín đồ công giáo có âm mưu đánh bom tòa nhà Quốc hội Anh để ám sát vua James I. Tuy nhiên kế hoạch bị phát hiện vào ngày 5/11. Kể từ đó, vào ngày này, người ta thường tổ chức lửa trại, đốt hình nhân và đeo mặt nạ của Guy Fawkes để tưởng nhớ.

← Reginald Front de Boeuf: nhân vật trong tác phẩm Ivanhoe của nhà văn Walter Scott, nổi tiếng là con người tàn bạo và sắt đá.

← Thuyết nhất thể (Unitarianism) là một phong trào thần học trong Kitô giáo. Thuyết nhất thể tin rằng Thiên Chúa là một thực thể duy nhất, chứ không hiện hữu trong ba ngôi vị là Chúa cha, Chúa con, và Chúa thánh linh. Thuyết nhất thể cũng tin rằng Jesus là người trần chứ không phải là thánh linh.

← Tên thường gọi của Sở Cảnh sát Thủ đô.

← Childe Roland: nhân vật chính phải đi đến tháp Đen trong truyện Cổ tích cùng tên của Anh.

← Hover: từ tiếng Anh, có nghĩa là “lơ lửng”.

← Fox: từ tiếng Anh, có nghĩa là “con cáo”.

← Latin: dùng để chỉ những người châu Âu có văn hóa bắt nguồn từ văn hóa Roman, sử dụng ngôn ngữ Romance (tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Pháp…) và theo Công giáo Roman.

← Cách viết khác của Romania, thường được dùng nhiều trước năm 1975.

← Judas: Môn đồ của Chúa Jesus, người đã phản bội ngài để lấy 30 đồng tiền bạc.

← Algernon Charles Swinburne: một nhà thơ, kịch tác gia và tiểu thuyết gia nổi tiếng của Anh vào thế kỉ 19.

← Từ fox (con cáo) và Fawkes (trong Guy Fawkes) phát âm lên rất giống nhau. Với một nhà sử học, khi nghe “Fawkes”, họ sẽ nghĩ đến Guy Fawkes.

← George Gordon Byron (1788–1824): nhà thơ Lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế giới ở thế kỉ 19.

← Một khu vực ở phía đông London, thuộc khu Tower Hamlets.

← Phong cách Bohemian: cách sống kiểu giữa những người du mục Bohemian với nhau, ý nói không ràng buộc chặt chẽ lẫn nhau.

← Bảo tàng Đen: hay còn gọi là Bảo tàng Tội phạm, là một bộ sưu tập các vật liên quan đến tội phạm ở Scotland Yard, trụ sở cảnh sát Thủ đô London, Anh Quốc.

← Hãy xem cuốn sách đáng ngưỡng mộ và đầy bất ngờ của ông J. C. Cannell. — John Dickson Carr.

← Sandeman: một nhãn hiệu rượu vang đỏ nặng, có logo màu đen hình một người đàn ông mặc áo choàng đội mũ rộng vành.

← Máy chiếu ma thuật: tên của một loại máy chiếu hình tĩnh được phát minh vào khoảng thế kỉ 15, và vẫn còn được sử dụng đến giữa thế kỉ 20.

← Mephistopheles: Quỷ dữ trong văn học dân gian Đức, lần đầu tiên xuất hiện trong truyện “Faust”.

← Faust: Một nhân vật trong truyền thuyết Đức cổ điển, được xây dựng dựa trên nhân vật lịch sử Johann Georg Faust. Faust là một học giả thành công nhưng không hài lòng với cuộc sống của mình. Vì vậy, ông đã giao kèo với quỷ dữ, đem linh hồn cua mình để đổi lấy tất cả tri thức và hoan lạc trên trần thế.

← Tên một bài độc thoại của Robert Browning được đăng trong tuyển tập Dramatic Lyrics (1842), nói về sự căm ghét của một thầy tu với thầy tu Lawrence trong cùng tu viện.

← Trích từ Kinh Thánh, Romans 12:19.

← Rudyard Kipling (1865–1936): nhà văn và nhà thơ người Anh từng được trao tặng giải thưởng Nobel Văn chương. Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Cậu bé rừng xanh (The Jungle Book). Trong bài thơ Vào thời kì đồ đá mới (In the Neolithic Age) nổi tiếng của ông có hai câu thơ: “Có sáu mươi chín cách để viết nên những vần thơ của một bộ tộc/ Và cách nào cũng đúng”.

← Thanh tra Hanaud: nhân vật trong loạt tiểu thuyết trinh thám của nhà văn A. E. W. Mason (1865–1948).

← Ý nói tới tác phẩm Chín gã thợ may (The Nine Tailors) (1934) trong series truyện trinh thám về Ngài Peter Wimsey – nhân vật thám tử của nhà văn Dorothy L. Sayers.

← Một tác phẩm truyện trinh thám của Gaston Leroux (1868–1927), và là một trong những tác phẩm về án mạng trong phòng kín đầu tiên và nổi tiếng nhất.

← Anna Katharine Green (1846- 1935): nhà thơ và nhà văn người Mỹ. Bà là một trong những nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đầu tiên ở Mỹ.

← Goodman: nhân vật phản diện trong tác phẩm Kinh hoàng (The Terror) của nhà văn, nhà báo, và nhà biên kịch người Anh Edgar Wallace (1875–1932). Wallace là người đã sáng tạo nên King Kong.

← Thomas Burke (1886–1945): nhà văn người Anh.

← Gilbert Keith Chesterton (1874–1936): nhà văn, nhà thơ, nhà triết học, nhà biên kịch và nhà báo người Anh. Ông thường được biết đến với bút danh G. K. Chesterton, và được tôn là “ông hoàng của nghịch biện”.

← Jacques Futrelle (1875–1912): nhà báo người Mỹ, nổi tiếng với những tập truyện trinh thám ngắn với nhân vật chính là giáo sư S. F. X. Van Dusen. Ông chết trong vụ chìm tàu Titanic.

← Melville Davisson Post (1869–1930): nhà văn người Mỹ, tác giả của loạt truyện trinh thám về Bác Abner.

← Israel Zangwill (1864–1926): nhà văn người Anh, tác giả của tiểu thuyết trinh thám đầu tiên trên thế giới: Bí ẩn lớn ở Bow (The Big Bow Mystery).

← Philo Vance: nhân vật thám tử trong loạt truyện trinh thám của S. S. Van Dine (1888–1939).

← Ellery Queen: bút danh và cũng là tên nhân vật chính của bộ đôi nhà văn viết truyện trinh thám Daniel Nathan (1905–1982) và Emanuel Benjamin Lepofsky (1905–1971).

← Phương châm của Sherlock Holmes khi điều tra vụ án.

← Nhà Medici: một gia tộc hùng mạnh ở nước Cộng hòa Florence (một phần của nước Ý thời Trung cổ và Cận Hiện đại). Nữ hoàng Pháp Catherine de’ Medici được cho là đã sử dụng cọc băng nhọn là vũ khí giết người hai lần. Bà cũng là người đã đem phương pháp làm kem gelato từ Florence sang Pháp.

← Fleming Stone: nhân vật chính trong series truyện trinh thám của nhà văn Carolyn Wells (1862–1942).

← Hamilton Cleek: nhân vật thám tử trong series truyện trinh thám của Thomas W. Hanshew (1857–1914).

← Tức đồng hồ Big Ben.