- XX - Hai viên đạn
Tiến sĩ Fell tiếp tục nhìn bà Dumont, người lại một lần nữa ngồi thu mình bên cạnh cỗ quan tài như để bảo vệ nó.
“Thưa bà,” ông nói tiếp, “người bà yêu thương đã chết. Pháp luật không thể nào động đến ông ấy được nữa, và dù ông ấy đã làm gì đi chăng nữa, ông ấy cũng đã phải trả giá. Vấn đề bức thiết lúc này, cả của tôi và của bà, là giữ kín chuyện này để người sống không bị tổn thương. Nhưng, bà thấy đấy, bà là tòng phạm, dù cho bà không trực tiếp nhúng tay vào vụ giết người. Tin tôi đi, thưa bà, nếu tôi có thể giải thích toàn bộ câu chuyện mà không cần đưa bà vào, thì tôi đã làm rồi. Tôi biết bà đang chịu đau khổ. Nhưng chính bà cũng sẽ thấy là không thể nào giải thích toàn bộ vấn đề này mà không cần đến bà. Nên chúng ta phải thuyết phục ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley rằng chuyện này phải được giữ kín.”
Có cái gì đó trong giọng nói của ông, có lẽ là niềm cảm thông vô hạn chỉ riêng Gideon Fell có, dường như đã chạm đến người phụ nữ một cách nhẹ nhàng, như giấc ngủ đến với một người khóc hết nước mắt. Cơn cuồng dại của bà ta không còn nữa.
“Ông có biết không?” bà ta hỏi ông, sau khi dừng lại, với giọng gần như tha thiết. “Đừng lừa tôi! Ông thật sự biết ư?”
“Vâng, tôi thật sự biết.”
“Lên trên nhà đi. Vào phòng ông ấy,” bà ta nói, giọng thẫn thờ, “và tôi sẽ lên với các ông ngay. Bây giờ tôi… tôi chưa thể đối mặt với các ông. Tôi phải suy nghĩ, và… Nhưng đừng nói gì với ai cho đến khi tôi lên. Làm ơn! Không, tôi sẽ không bỏ chạy đâu.”
Cử chỉ mạnh mẽ của tiến sĩ Fell khiến Hadley im lặng khi họ đi ra. Họ cũng đi từng bước nặng nề lên tầng trên cùng trong im lặng. Họ không gặp ai, họ không thấy ai. Một lần nữa họ lại vào trong phòng làm việc, nơi tối đến nỗi Hadley phải bật cái đèn khảm thủy tinh trên bàn lên. Sau khi đảm bảo rằng cửa đã đóng, Hadley mất bình tĩnh và quay lại hỏi.
“Ông định nói với tôi rằng Grimaud đã giết Fley?”
“Đúng.”
“Trong khi ông ấy nằm bất tỉnh và hấp hối trước mắt những nhân chứng trong nhà dưỡng lão, ông ấy đã đến phố Cagliostro và…!”
“Không phải lúc đó,” tiến sĩ Fell khẽ nói. “Ông thấy đấy, đó là điều ông không hiểu. Đó là điều đã dẫn ông đi sai hướng. Đó là điều tôi muốn nói khi thốt lên rằng vụ án này không phải bị đảo ngược, mà là bị xoay chiều. Fley đã bị giết trước Grimaud. Và tệ hơn cả, Grimaud đã cố nói với chúng ta toàn bộ sự thật. Điều ông ấy nói với chúng ta chính là sự thật, khi ông ấy biết mình không còn hi vọng sống sót nữa – đó là một trong những điểm tốt hiếm hoi của ông ấy – nhưng chúng ta đã diễn giải sai sự thật. Ngồi xuống, và tôi sẽ xem liệu tôi có thể giải thích được không. Chừng nào ông nắm được ba điểm thiết yếu, ông sẽ không cần suy luận và tôi sẽ không cần phải giải thích thêm nữa. Vụ án sẽ lí giải chính nó.”
Ông thở khò khè và ngồi xuống cái ghế phía sau bàn làm việc. Trong một chốc, ông suy tư nhìn về phía ngọn đèn. Rồi ông nói tiếp:
“Ba điểm thiết yếu là: (1) Không có gã Henri nào cả, chỉ có hai anh em, (2) Cả hai người này đều nói sự thật, (3) Chính các mốc thời gian đã xoay chiều vụ án này.
“Rất nhiều sự kiện trong vụ án đã xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Cũng thật mỉa mai khi ta gọi hung thủ là người vô hình trong khi mấu chốt của vụ án lại là sự nhầm lẫn về thời gian. Ông có thể dễ dàng phát hiện ra nếu ông nhớ lại.
“Giờ hãy nhớ về buổi sáng hôm qua! Đã có đôi lúc tôi nghĩ rằng đã có điều gì đó rất lạ lùng trên phố Cagliostro. Vụ bắn người ở đó do ba nhân chứng (đáng tin) kể lại, lời khai của họ có một điểm chung là vụ án xảy ra vào đúng 10 giờ 25 phút, không khác nhau lấy một giây. Tôi tự hỏi vu vơ rằng, tại sao lời khai của họ lại trùng khớp đến mức đáng ngạc nhiên như vậy. Thường thì với những vụ tai nạn ngoài đường, kể cả những nhân chứng bình tĩnh nhất cũng không để ý hay xem giờ chính xác như vậy. Kể cả nếu có xem, họ cũng không thể thống nhất với nhau về thời điểm chính xác xảy ra vụ tai nạn một cách kì lạ thế được. Nhưng họ là những người đáng tin, và chắc phải có một lí do nào đó giải thích cho việc này. Thời gian hẳn đã phải đập vào mắt họ.
“Tất nhiên là có lí do rồi. Ngay cạnh chỗ Fley ngã xuống có một cửa hiệu sáng đèn – cửa hiệu duy nhất bật đèn sáng tối hôm đó – cửa hiệu đồ trang sức. Đó là nơi nổi bật nhất trong phố. Ánh sáng từ nơi đó rọi vào người bị giết, và đó là nơi đầu tiên mà viên cảnh sát chạy đến để tìm kẻ giết người, đương nhiên là nơi đó đã thu hút sự chú ý của mọi người. Và bên trong cửa hiệu đó hướng ra ngoài là một cái đồng hồ khổng lồ với thiết kế khác thường đến nỗi nó ngay lập tức hút lấy ánh mắt của người nhìn. Đương nhiên là viên cảnh sát sẽ nhìn vào đó để xem giờ, và cả những nhân chứng khác cũng vậy. Vì thế họ mới thống nhất về thời điểm xảy ra vụ án mạng.
“Nhưng có một điều dường như không quan trọng lắm vào lúc đó nhưng lại khiến tôi hơi lăn tăn. Sau khi Grimaud bị bắn, Hadley gọi người đến nhà ông ta, và ngay lập tức cử một người đến bắt Fley dưới danh nghĩa nghi phạm. Vậy cảnh sát đến đây lúc mấy giờ?”
“Khoảng 10 giờ 40,” Rampole nói, “theo như ước tính của tôi. Tôi đã ghi nó vào trong thời gian biểu.”
“Và,” tiến sĩ Fell nói, “một người ngay lập tức được cử đi bắt Fley. Người này hẳn phải đến phố Cagliostro lúc mấy giờ nhỉ? Trong khoảng 15 đến 20 phút sau khi Fley được cho là đã bị giết. Nhưng trong khoảng thời gian ngắn đó, điều gì đã xảy ra? Rất nhiều! Fley được đưa đến nhà bác sĩ, hắn chết ở đó, rồi có khám nghiệm tử thi, nỗ lực để nhận dạng Fley không có kết quả, và rồi, ‘sau một thời gian trì hoãn’ theo như lời của báo chí, một chiếc xe đến và đưa Fley đến nhà xác. Tất cả mọi thứ! Khi người của Hadley đến phố Cagliostro để bắt Fley thì tất cả mọi chuyện đã kết thúc, và anh cảnh sát phải đến hỏi thăm từng nhà một. Tất cả sự náo nhiệt đã lắng xuống. Điều đó thật lạ thường.
“Rất tiếc là tôi đã quá trì độn đến nỗi sáng hôm qua khi nhìn vào chiếc đồng hồ trên cửa hiệu trang sức, tôi cũng không nhận ra được tầm quan trọng của chi tiết này.
“Hãy lùi về quá khứ chút nữa nhé. Sáng hôm qua khi chúng ta ăn sáng ở nhà của tôi, Pettis ghé qua, và chúng ta nói chuyện với ông ấy đến mấy giờ nhỉ?”
Mọi người khựng lại.
“Đến 10 giờ đúng,” Hadley đột nhiên trả lời, và búng ngón tay. “Đúng, Tôi nhớ vì đồng hồ Big Ben đã điểm ngay khi chúng ta đứng lên.”
“Đúng rồi. Pettis rời đi, và sau đó chúng ta đội mũ mặc áo khoác và đi thẳng đến phố Cagliostro. Giờ thì hãy dành ra một khoảng thời gian hợp lí để chúng ta đội mũ, đi xuống cầu thang, lái một quãng ngắn trên những con phố vắng vẻ sáng chủ nhật – quãng đường mà ta chỉ đi mất 10 phút vào tối thứ bảy đông đúc. Tôi nghĩ mọi người sẽ cho rằng làm tất cả những việc đó cũng chỉ mất không đến 20 phút… Nhưng ở phố Cagliostro, khi ông chỉ cho tôi cửa hiệu trang sức, cái đồng hồ đó vừa chỉ 11 giờ.
“Lúc ấy, vì đang nghĩ ngợi vớ vẩn nên tôi không hề thắc mắc khi nhìn vào đồng hồ, cũng giống như ba nhân chứng đang kích động đêm hôm trước. Ngay sau đó – mọi người nhớ lại đi – Somers và O’Rourke đưa chúng ta lên căn hộ của Burnaby. Chúng ta đã điều tra khá lâu, rồi còn ngồi nói chuyện với O’Rourke. Và trong khi O’Rourke đang nói, tôi để ý rằng trong sự quạnh quẽ của con phố hôm đó có một tiếng động mới. Tôi nghe thấy tiếng chuông nhà thờ.
“Chà, thường thì mấy giờ chuông nhà thờ rung nhỉ? Không thể là sau 11 giờ, vì lúc đó buổi lễ đã bắt đầu. Thường thì trước 11 giờ sẽ có một tiếng chuông báo. Nhưng, nếu như căn cứ vào thời gian trên chiếc đồng hồ Đức đó thì lúc chuông rung đã phải qua 11 giờ rất lâu rồi. Lúc đó cái đầu trì trệ của tôi mới bừng tỉnh. Tôi nhớ đến tiếng chuông Big Ben và chặng đường đến phố Cagliostro. Như vậy là chuông nhà thờ và Big Ben chống lại (hừm) chiếc đồng hồ ngoại quốc trông chỉ được cái mã ngoài. Nhà thờ và Nhà nước không thể sai cùng một lúc… Nói cách khác, chiếc đồng hồ trong cửa hiệu trang sức chạy nhanh ít nhất 40 phút. Do đó vụ bắn nhau trên phố Cagliostro đêm hôm trước không thể xảy ra lúc 10 giờ 25 phút. Thực chất nó phải xảy ra trước 10 giờ kém 15 một chút. Cứ cho là khoảng 9 giờ 40 đi.
“Sớm muộn gì cũng sẽ có người phát hiện ra điều này, có lẽ ai đó đã phát hiện ra rồi cũng nên. Thời gian tử vong có thể được bên pháp y phát hiện ra. Ai đó có thể đứng lên tranh cãi về thời gian tử vong thực sự. Khi đó, liệu ông có ngay lập tức thấy được sự thật không (như tôi hi vọng) hay sẽ càng bối rối hơn, tôi không biết… Nhưng sự thật chắc chắn vẫn là vụ giết người trên phố Cagliostro đã diễn ra trước khi người đàn ông đeo mặt nạ rung chuông cửa vào lúc 9 giờ 45.”
“Nhưng tôi vẫn không hiểu…!” Hadley phản bác.
“Về tình huống bất khả thi? Không, nhưng giờ tôi đã có thể kể lại toàn bộ câu chuyện cho ông ngay từ đầu.”
“Rồi, nhưng để tôi làm rõ chuyện này trước đã. Nếu Grimaud, như ông nói, đã bắn Fley trên phố Cagliostro ngay trước 9 giờ 45…”
“Tôi không nói thế,” tiến sĩ Fell phủ nhận.
“Cái gì?”
“Ông sẽ hiểu nếu ông nghe kịp lời giải thích kiên nhẫn của tôi từ đầu. Tối thứ tư tuần trước, khi Fley lần đầu xuất hiện từ quá khứ, đến giáp mặt người anh trai với một lời đe dọa ghê gớm ở quán Warwick, Grimaud đã quyết thủ tiêu hắn ta. Trong cả vụ án, như ông thấy, Grimaud là người duy nhất có động cơ để giết Fley. Và Chúa ơi! Hadley, đúng là ông ấy có động cơ đấy! Ông ấy đang sống giàu có, ung dung tự tại, được tôn trọng. Quá khứ của ông ấy đã bị chôn vùi. Và rồi đột nhiên, cánh cửa bật ra, và một kẻ lạ mặt cười nhăn nhở bước vào. Hóa ra hắn lại là em trai Pierre của ông ấy. Grimaud khi trốn thoát khỏi nhà tù đã giết một người em trai của mình bằng cách để hắn bị chôn sống, và cũng sẵn sàng giết nốt người em còn lại nếu không vì một sự cố. Ông ấy vẫn có thể bị dẫn độ về treo cổ, và Pierre Fley đã lần ra được ông ấy.
“Vậy thì hãy nhớ lại chính xác những gì Fley nói khi đột ngột xộc đến trước mặt Grimaud vào đêm đó trong quán rượu. Hãy nghiên cứu xem tại sao hắn lại nói những lời đó, và ông sẽ hiểu tại sao ngay cả một kẻ thần kinh không ổn định như Fley cũng không điên rồ như hắn giả bộ. Nếu mục đích đơn thuần chỉ là báo thù cá nhân, thì tại sao hắn lại chọn cách giáp mặt Grimaud trước sự chứng kiến của bạn bè thân thiết của ông ấy và nói những lời bóng gió như vậy? Hắn đem em trai của mình ra để đe dọa, và đó là lần duy nhất hắn nói về người em trai đã chết của mình. Tại sao hắn lại nói, ‘Nó có thể nguy hiểm với ông còn hơn tôi nhiều’? Vì người em đã chết có thể khiến Grimaud bị treo cổ! Tại sao hắn lại nói, ‘Tôi không muốn cái mạng sống của ông, nhưng nó thì có’? Tại sao hắn lại nói, ‘Tôi bảo nó đến thăm ông nhé!’? Và tại sao ngay sau đó hắn lại đưa cho Grimaud danh thiếp trên đó có ghi cẩn thận địa chỉ của hắn? Hành động trao danh thiếp, cùng với những lời hắn nói và những điều hư cấu sau đó, rất đáng chú ý. Điều Fley thật sự muốn nói khi cố tình úp úp mở mở để khiến Grimaud hoảng sợ trước mặt các nhân chứng là: “Ông anh của tôi ạ, anh sống giàu có và phè phỡn bằng số tiền chúng ta cướp được khi còn trẻ. Còn tôi thì nghèo khó và chán ghét công việc của mình. Giờ anh sẽ đến gặp tôi ở địa chỉ này để dàn xếp mọi chuyện, hay anh muốn tôi báo cảnh sát?”
“Tống tiền,” Hadley nói nhẹ nhàng.
“Đúng. Fley có rất nhiều điều muốn nói, nhưng hắn không phải là kẻ ngốc. Giờ hãy chú ý đến cách hắn nói trệch đi ý đồ của mình trong những lời đe dọa cuối cùng hắn dành cho Grimaud. ‘Tôi cũng gặp nguy hiểm khi hợp tác với em trai của mình, nhưng tôi đã sẵn sàng đánh cược với nguy cơ đó.’ Và trong câu nói này, cũng như sau đó, hắn muốn gửi đến Grimaud thông điệp thật sự này. ‘Ông anh của tôi ạ, anh có thể tìm cách giết tôi như anh đã làm với em của chúng ta, nhưng tôi chấp nhận mạo hiểm. Vậy anh muốn dàn xếp êm đẹp với tôi, hay anh muốn người em đã chết đến treo cổ anh?’
“Hãy nghĩ đến những hành động của hắn sau đó, vào cái đêm xảy ra vụ giết người. Hãy nhớ hắn đã hân hoan thế nào khi đập phá hết những dụng cụ ảo thuật của hắn? Và hắn đã nói những gì với O’Rourke? Nếu ta đặt những lời hắn nói bên cạnh những gì chúng ta biết bây giờ, những lời này chỉ có một cách giải thích. Hắn nói:
‘Tôi sẽ không cần chúng nữa. Công việc của tôi đã hoàn tất. Tôi chưa nói với ông à? Tôi sẽ đi gặp một người anh em của tôi. Người đó sẽ làm gì đó để dàn xếp chuyện mắc mớ hồi xưa giữa hai chúng tôi.’
“Tất nhiên nghĩa là Grimaud đã đồng ý chi tiền. Ý Fley muốn nói là hắn sẽ rũ bỏ cuộc sống trước đây mãi mãi, quay lại nấm mồ của hắn như một người chết, nhưng với cả đống tiền, nhưng hắn không thể nói cụ thể hơn mà không tiết lộ bí mật. Tuy nhiên, hắn cũng biết ông anh của mình rất ranh ma xảo quyệt, dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ. Hắn không thể báo trước cụ thể cho O’Rourke, vì có khả năng Grimaud muốn chi tiền thật, nhưng hắn vẫn bóng gió:
‘Nếu tôi có mệnh hệ gì, ông sẽ tìm thấy người anh em của tôi ở cùng con phố nơi tôi sống. Đó không phải là nhà của người đó, nhưng người đó có thuê một phòng ở đó.’
“Lát nữa tôi sẽ giải thích câu nói cuối cùng đó. Nhưng hãy quay lại với Grimaud. Grimaud không hề có ý định thỏa mãn yêu cầu của Fley. Số của Fley là phải chết. Trong cái đầu tinh khôn, mưu mẹo, và thích phô diễn của mình, Grimaud (người, như ông biết, có hứng thú với ảo thuật hơn tất cả những người chứng ta từng gặp) đã quyết không để gã em trai phiền toái làm cho khổ sở. Fley phải chết, nhưng thực hiện việc đó khó khăn hơn ta tưởng tượng.
“Nếu Fley đến nói chuyện riêng với ông ấy, và không ai biết được mối quan hệ giữa hai người, thì mọi việc đã đơn giản hơn nhiều. Nhưng Fley rất ranh ma. Hắn tung ra tên và địa chỉ của mình, và bóng gió về những bí mật xa xưa liên quan đến Grimaud trước mặt nhóm bạn của ông ta. Khó xử chưa kìa! Giờ nếu Fley bị giết, nhiều khả năng ai đó sẽ nói, ‘Ô kìa! Đó có phải gã đã…?’ Và chẳng mấy chốc sẽ có thẩm vấn, vì có Chúa mới biết Fley đã nói gì với người khác về Grimaud. Điều duy nhất hắn khó có khả năng thổ lộ với người khác chính là bí mật chết chóc hắn dùng để đe dọa Grimaud, và đó là điều hắn tuyệt đối phải giữ kín. Dù có chuyện gì xảy ra với Fley đi chăng nữa, dù hắn chết bằng cách nào, thì cũng sẽ có người đặt nghi vấn về Grimaud. Cách duy nhất Grimaud có thể làm là thản nhiên giả bộ rằng Fley đang muốn giết ông ấy, tự gửi cho mình những lá thư đe dọa (nhưng không quá rõ ràng), khéo léo làm xáo trộn cuộc sống trong nhà, và cuối cùng, cho mọi người biết rằng Fley đã đe dọa đến gặp ông ấy vào chính cái đêm ông ấy định đến gặp Fley. Ông sẽ thấy ông ấy đã lên kế hoạch cho một vụ giết người rất tinh vi.
“Ông ấy muốn dựng lên một câu chuyện như thế này: gã Fley khát máu sẽ đến gặp ông ấy vào tối thứ bảy. Sẽ có người làm chứng việc này. Hai người sẽ vào nói chuyện riêng trong văn phòng của Grimaud. Có tiếng cãi vã, sau đó là ẩu đả, tiếng súng và tiếng cái gì đó rơi xuống. Cửa mở ra, người ta sẽ phát hiện Grimaud ở một mình với có một vết thương trên người do đạn bắn sượt qua, nhìn có vẻ nặng nhưng không gây nguy hiểm đến tính mạng. Không tìm thấy vũ khí. Ngoài cửa sổ có treo một sợi dây thừng thuộc về Fley, khiến người ta cho rằng Fley đã dùng nó để trốn thoát. (Hãy nhớ rằng, dự báo thời tiết nói là đêm đó không có tuyết, nên trên mặt đất sẽ không có dấu chân nào để cảnh sát có thể lần theo.) Grimaud nói: ‘Hắn nghĩ hắn đã giết được tôi, tôi giả vờ chết, và hắn đã trốn thoát. Không, đừng cho cảnh sát đuổi theo hắn, kẻ tội nghiệp. Tôi không sao đâu.’ Và sáng hôm sau, người ta sẽ phát hiện ra Fley đã chết trong phòng của hắn. Hắn đã tự tử bằng cách gí súng vào ngực và bóp cò. Khẩu súng ở bên cạnh. Một bức thư tuyệt mệnh đặt trên bàn. Trong lúc tuyệt vọng vì nghĩ mình đã giết Grimaud, hắn liền tự vẫn… Đó, thưa các vị, là câu chuyện mà Grimaud muốn dựng lên.”
“Nhưng ông ta làm thế bằng cách nào?” Hadley hỏi. “Và cuối cùng thực tế có diễn ra như vậy đâu!”
“Không. Ông thấy đấy, kế hoạch đã thất bại hoàn toàn. Phần sau của kế hoạch, khi có người thấy Fley gặp Grimaud trong phòng làm việc của Grimaud trong khi thật ra hắn đã chết ở ngôi nhà trên phố Cagliostro, tôi sẽ giải thích vào thời điểm thích hợp. Grimaud, với sự trợ giúp của bà Dumont, đã có chuẩn bị trước.
“Ông ấy hẹn gặp Fley ở phòng của Fley ở tầng trên cùng của cửa hiệu bán thuốc lá. Ông ấy hẹn gặp Fley lúc 9 giờ tối thứ bảy để chi tiền. (Hãy nhớ lại rằng Fley đã hân hoan bỏ việc, đốt hết đồ đạc của mình, và rời khỏi nhà hát ở khu Limehouse vào lúc 8 giờ 15.)
“Grimaud chọn buổi tối thứ bảy, bởi theo thói quen bất di bất dịch của mình, ông ấy sẽ ngồi một mình trong phòng làm việc mà không ai được phép quấy rầy với bất kì lí do nào. Ông ấy chọn đêm đó cũng bởi ông ấy cần dùng cửa phụ dẫn xuống tầng hầm để ra ngoài, và vào tối thứ bảy, Annie, người ở trong tầng hầm, được đi chơi. Ông nhớ rằng, sau khi Grimaud lên phòng vào lúc 7 giờ 30, không ai thấy ông ta cho đến khi, theo như lời khai, ông ấy mở cửa để đón vị khách vào lúc 9 giờ 50. Bà Dumont khai là đã nói chuyện với ông ấy vào lúc 9 rưỡi, khi bà ấy lên dọn khay cà phê. Chốc nữa tôi sẽ nói lí do vì sao tôi không tin lời khai đó. Sự thật là lúc ấy, ông ấy không hề ở trong phòng làm việc của mình, mà đang ở phố Cagliostro. Bà Dumont đã được dặn là phải nấp ở cửa phòng lúc 9 rưỡi, và đi ra với một lí do gì đó. Vì sao? Bởi Grimaud đã ra lệnh cho Mills lên lúc 9 rưỡi, và trông chừng phòng làm việc từ căn phòng cuối hành lang. Mills là kẻ bị lừa trong màn ảo thuật của Grimaud. Nhưng nếu anh ta đến gần cửa phòng làm việc, nếu Mills nghĩ ra lí do nào đó để xin vào nói chuyện hoặc gặp Grimaud, nhiệm vụ của bà Dumont là phải đuổi anh ta đi. Dumont sẽ đợi ở cổng tò vò, và chặn không cho Mills vào nếu anh ta có ý định tọc mạch gì.
“Mills được chọn làm người bị lừa trong màn ảo thuật: Vì sao? Bởi, mặc dù anh ta chu đáo tỉ mỉ đến nỗi anh ta sẽ thực hiện đúng từng li từng tí những chỉ thị của Grimaud, nhưng anh ta lại sợ ‘Fley’ đến độ không dám nhảy ra can thiệp khi người vô hình đi lên cầu thang. Anh ta không những không được tấn công người đeo mặt nạ trong những khoảnh khắc hiểm nghèo trước khi người đeo mặt nạ vào được văn phòng, mà còn không được bén mảng ra khỏi phòng. Anh ta được lệnh ở nguyên trong phòng, và anh ta sẽ thực hiện đúng như vậy. Cuối cùng, anh ta được chọn bởi vóc dáng thấp bé của mình, một chi tiết mà sau đây sẽ trở nên rõ ràng.
“Mills được lệnh lên trên nhà và theo dõi lúc 9 giờ 30. Đó là vì người vô hình đã tính toán để xuất hiện ngay sau đó một chút thôi, nhưng trong thực tế, người vô hình đã đến muộn. Hãy chú ý đến sự không thống nhất này. Mills được báo là khách sẽ đến lúc 9 rưỡi, nhưng Mangan lại được báo là 10 giờ! Lí do rất rõ ràng. Phải có một người nào đó ở tầng dưới làm chứng rằng khách đã đến cửa trước, khẳng định lời khai của Dumont. Nhưng Mangan có thể sẽ tò mò về vị khách này, anh ta có thể sẽ nhảy ra thách thức người vô hình, trừ khi Grimaud nói nửa đùa nửa thật rằng khách có thể sẽ không đến, hoặc giả có đến đi chăng nữa, thì cũng không thể đến trước 10 giờ. Đó là hành động cần thiết để đánh lạc hướng Mangan, và khiến anh ta do dự đủ lâu để người vô hình đi ngang qua cánh cửa phòng khách nguy hiểm và lên cầu thang. Và trong trường hợp tồi tệ nhất, vẫn có thể nhốt Mangan và Rosette trong phòng.
“Với những người còn lại: Annie đã ra ngoài. Drayman được cho vé đi nghe hòa nhạc, Burnaby chắc chắn đang ngồi chơi bài và Pettis ở nhà hát. Không còn ai ngáng đường được nưa.
“Vào khoảng trước 9 giờ (có lẽ khoảng 9 giờ kém 10), Grimaud lẻn ra khỏi nhà, dùng cửa thông từ tầng hầm lên mặt đất. Và ngay lập tức ông ấy gặp rắc rối. Tuyết đã rơi được một lúc, trái với dự báo thời tiết. Nhưng Grimaud không coi đó là chuyện nghiêm trọng. Ông ấy tin rằng mình có thể thực hiện kế hoạch và trở về lúc 9 rưỡi, và tuyết vẫn rơi đù dày để che đi dấu chân mà ông ấy để lại, và để không ai đặt ra nghi vấn rằng vì sao vị khách lại không để lại dấu chân khi trèo từ cửa sổ xuống. Và cũng bởi kế hoạch đã bắt đầu được thực hiện, và ông ấy không còn đường lùi nữa.
“Khi rời khỏi nhà, ông ấy mang theo một khẩu súng Colt cũ không được đăng kí, bên trong chỉ có hai viên đạn. Ông ấy đội mũ gì thì tôi không biết, nhưng mặc một cái áo khoác lòe loẹt làm bằng vải tuýt màu vàng tươi chấm bi nhỏ. Ông ấy mua cái áo lớn hơn loại ông ấy hay mặc vài cỡ vì nghĩ rằng đó là loại áo không ai nghĩ là ông ấy sẽ mặc, và nếu có ai đó quen biết nhìn thấy cũng không thể nhận ra được ông ấy. Ông ấy…”
Hadley chen vào.
“Khoan đã! Thế còn chuyện áo khoác đổi màu thì sao? Chuyện xảy ra trước lúc ăn tối ấy. Ông giải thích thế nào?”
“Một lần nữa tôi yêu cầu ông đợi đến màn ảo thuật cuối cùng của Grimaud, rồi tôi sẽ giải thích.
“Chà, mục đích của Grimaud là đến gặp Fley. Ở đó, ông ấy sẽ thân thiện nói chuyện với Fley một lúc. Ông ấy sẽ nói những câu như: ‘Em phải rời khỏi chỗ tồi tàn này, em trai! Em sẽ được thoải mái hơn, anh đảm bảo thế. Sao không bỏ những đồ đạc vô dụng này lại và đến nhà anh? Hãy viết thông báo trả nhà cho chủ nhà đi!’ ông biết đấy, đại loại như thế, để Fley viết một bức thông điệp mơ hồ cho chủ nhà. ‘Tôi sẽ ra đi mãi mãi.’ ‘Tôi sẽ quay lại nấm mồ của mình.’ Tất cả những câu chữ đó giúp người ta tin rằng Fley đã tự tử khi tìm thấy hắn đã chết với một khẩu súng trong tay.”
Tiến sĩ Fell nghiêng người về phía trước. “Rồi sau đó Grimaud rút khẩu Colt ra, gí vào ngực Fley, và mỉm cười bóp cò.
“Phòng của Fley ở tầng trên cùng trong một căn nhà trống trải. Như ông thấy, các bức tường đều dày và chắc chắn đến đáng kinh ngạc. Chủ nhà thì sống ở tận dưới tầng hầm, và là người thờ ơ nhất trên phố Cagliostro. Không ai có thể nghe thấy tiếng súng, nhất là tiếng súng đã bị nghẹt lại vì Grimaud đã gí khẩu súng vào sát Fley. Sẽ phải mất một thời gian mới phát hiện ra cái xác, chắc chắn không thể trước sáng hôm sau. Và trong lúc đó Grimaud sẽ làm gì? Sau khi bắn Fley, ông ấy sẽ bắn chính mình để gây ra một vết thương nhẹ, kể cả có phải chịu đựng viên đạn găm vào người, như ta đã biết với vụ ba chiếc quan tài trong quá khứ, ông ấy khỏe như trâu và có thần kinh thép. Ông ấy sẽ để lại khẩu súng bên cạnh Fley. Ông ấy sẽ bình tĩnh đắp một cái khăn tay hoặc nhét bông vào để cầm máu. Mà phải ở bên trong áo khoác ngoài áo sơ mi, rồi dán lại bằng băng dính cho đến lúc xé được nó ra, rồi quay về nhà và làm tiếp trò ảo thuật để chứng minh rằng Fley đã đến gặp ông ấy, rằng Fley đã bắn ông ấy và quay lại phố Cagliostro và dùng chính khẩu súng đó để tự tử, như vậy sẽ không có bác sĩ pháp y nào nghi ngờ gì. Cho đến giờ tôi nói đã rõ chưa? Đây là một tội ác đã bị xoay chiều hoàn toàn.
“Điều đó, như tôi nói, là ý đồ của Grimaud. Nếu mọi việc diễn ra xuôi chèo mát mái, thì đó đúng là một vụ giết người tinh vi, và tôi nghĩ sẽ không ai nghi ngờ việc Fley tự sát.
“Nhưng có một vấn đề duy nhất cản trở việc thực hiện kế hoạch này. Nếu bất cứ ai – không nhất thiết phải một người dễ nhận ra như Grimaud – bất cứ ai bị nhìn thấy là đã ra vào nhà của Fley, thì rắc rối sẽ nảy sinh. Người ta sẽ không dễ dàng cho đó là tự tử nữa. Ngôi nhà chỉ có một cửa vào từ ngoài phố – đó là cánh cửa bên cạnh hiệu thuốc lá. Và ông ấy đang mặc một cái áo rất nổi bật mà ông ta đã từng mặc để đi do thám khu vực này trước đó. (Nhân tiện, Dolberman, ông chủ hiệu thuốc lá, đã nhìn thấy một người lảng vảng quanh nhà.) Và Grimaud đã tìm ra giải pháp cho vấn đề này ở căn hộ bí mật của Burnaby.
“Ông có thấy không, Grimaud rõ ràng là người có nhiều khả năng biết về căn hộ của Burnaby trên phố Cagliostro nhất? Chính Burnaby đã nói với chúng ta rằng vài tháng trước, khi Grimaud nghi ngờ ông ta có động cơ nào đó khi vẽ bức tranh kia, Grimaud đã không chỉ tra hỏi, mà còn theo dõi ông ta nữa. Với một người tưởng tượng rằng mình đang gặp nguy hiểm, thì việc theo dõi phải được thực hiện rất nghiêm túc. Ông ấy biết về căn hộ đó. Qua theo dõi, ông ấy biết được Rosette có chìa khóa. Vì thế, khi cơ hội đến và trong đầu nảy ra ý tưởng, ông ta đã ăn trộm chìa khóa của Rosette.
“Ngôi nhà nơi có căn hộ mà Burnaby thuê nằm cùng một bên với ngôi nhà mà Fley sống. Tất cả những ngôi nhà đó đều được xây dựa vào nhau, và có mái bằng, vì thế chỉ cần bước qua một bức tường ngăn thấp là ta có thể đi trên mái nhà từ đầu đến cuối phố. Cả hai người – hãy nhớ lại – đều sống ở tầng trên cùng. Ông có nhớ chúng ta đã nhìn thấy gì khi xem xét căn hộ của Burnaby, ngay bên cạnh cửa vào không?”
Hadley gật đầu. “Có, tất nhiên. Một cái thang ngắn dẫn lên cửa sập thông lên mái nhà.”
“Chính xác. Và ngay chỗ chiếu tới cầu thang ngay trước cửa phòng Fley có một ô kính trời thấp cũng mở lên mái nhà. Grimaud thậm chí không cần ra mặt ở phố Cagliostro, ông ấy chỉ cần đi vào bằng con hẻm đằng sau mà chúng ta đã thấy từ cửa sổ nhà Burnaby. Ông ấy đi vào từ cửa sau, (như Burnaby và Rosette đã làm), lên tầng trên cùng, và trèo lên mái nhà. Sau đó ông ấy đi trên mái nhà đến phòng của Fley, tụt từ giếng trời xuống chiếu tới cầu thang, và có thể ra vào phòng của Fley mà không bị ai nhìn thấy. Hơn nữa, ông ấy biết chắc chắn rằng đêm đó Burnaby đang chơi bài ở nơi khác.
“Và mọi việc bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát từ đây.
“Ông ấy phải vào phòng của Fley trước khi hắn về, để Fley không nghi ngờ khi thấy Grimaud nhảy từ trên mái nhà xuống. Nhưng chúng ta cũng biết rằng Fley vốn đã nghi ngờ từ trước. Có thể là vì Grimaud yêu cầu Fley mang dây thừng ảo thuật đến… Grimaud muốn có sợi dây thừng để làm bằng chứng chống lại Fley sau này. Hoặc có thể là vì Fley đã phát hiện ra Grimaud lảng vảng ở phố Cagliostro vài ngày trước đó, khả năng là đã thấy ông ấy thập thò trên mái nhà phía căn hộ của Burnaby sau khi đi theo dõi, và điều đó khiến Fley tin rằng Grimaud đã thuê một phòng ở phố này.
“Hai anh em gặp nhau ở căn phòng có thắp đèn dầu vào lúc 9 giờ. Ta không biết họ nói chuyện gì với nhau, và sẽ không bao giờ biết. Nhưng có chứng cứ cho thấy Grimaud đã xoa dịu được sự nghi ngờ của Fley, họ thoải mái, thân thiện hơn và quên hết những ân oán cũ. Grimaud nửa đùa nửa thật thuyết phục Fley viết thư để lại cho ông chủ nhà. Sau đó…”
“Tôi không phản đối gì cả,” Hadley nói khẽ khàng, “nhưng sao ông lại biết những chuyện đó?”
“Grimaud đã nói với chúng ta,” tiến sĩ Fell nói.
Hadley nhìn ông chằm chằm.
“Ồ, đúng. Đã có lần tôi đã mắc lỗi xáo trộn các mốc thời gian, nên tôi hiểu. Nhưng nói tiếp nhé:
“Fley đã viết thư để lại. Hắn mặc áo và đội mũ chuẩn bị ra đi, vì Grimaud muốn người ta nghĩ rằng Fley đã tự sát ngay sau khi trở về nhà từ chuyến đi tưởng tượng đến nhà Grimaud. Rồi Grimaud nhảy xồ tới.
“Có thể là do Fley đã đề phòng theo phản xạ tự nhiên, hoặc hắn đã giật người lại để chạy ra cửa, vì sức vóc của hắn không thể đọ lại Grimaud – chuyện gì đã xảy ra trong lúc họ vật lộn và ẩu đả, chúng ta không biết. Nhưng Grimaud, với khẩu súng gí vào áo khoác của Fley khi hắn xoay người lại, đã phạm một sai lầm chết người. Ông ấy nổ súng. Và viên đạn đã đi không đúng chỗ. Thay vì xuyên qua tim nạn nhân, viên đạn lại găm vào xương vai trái – một vết thương ở vị trí tương tự, nhưng ở phía trước, sau đó đã giết chết chính Grimaud. Đó là một vết thương nặng, nhưng không thể khiến Fley chết ngay. Thật trớ trêu khi cả hai anh em đều bị giết bằng cùng một vũ khí, theo cách giống hệt nhau.
“Tất nhiên, Fley gục xuống. Hắn không thể làm gì khác, và đó là giải pháp khôn ngoan nhất, nếu không Grimaud đã dùng viên đạn còn lại kết liễu hắn luôn rồi. Nhưng Grimaud, trong một giây hoảng loạn, đã mất bình tĩnh. Tình thế này có thể đã phá hỏng hoàn toàn kế hoạch của ông ấy. Liệu một người có thể tự bắn chính mình ở vị trí đó được không? Nếu không, thì Chúa phù hộ kẻ giết người. Tệ hơn nữa, Fley, trong lúc thoát khỏi tay Grimaud, đã hét lên cầu cứu trước khi bị trúng đạn, và Grimaud tưởng như mình nghe thấy tiếng người chạy đến.
“Trong khoảnh khắc chí mạng đó, ông ấy vẫn đủ khôn ngoan và can đảm để bình tĩnh lại. Ông ấy nhét khẩu súng vào tay Fley, kẻ đang nằm sấp và bất động. Rồi ông ấy nhặt cuộn dây lên. Bằng cách này hay cách khác, bất chấp những hỗn loạn và hoang mang, kế hoạch vẫn phải được tiếp tục. Nhưng ông ấy đủ khôn ngoan để không mạo hiểm gây ra tiếng ồn bằng cách bắn một phát súng nữa, hay để phí thêm thời gian. Ông ấy lao ra khỏi căn phòng.
“Mái nhà, mọi người thấy không! Mái nhà là cơ hội duy nhất của ông ấy. Ông ấy tưởng tượng ra tiếng người đuổi theo ở khắp mọi nơi, có lẽ kí ức ghê rợn về ba ngôi mộ trong cơn bão bên dưới những ngọn núi ở Hungary đã trở về trong đầu của ông. Ông ấy cho rằng người ta sẽ nghe thấy và đuổi theo ông ấy trên mái nhà. Nên ông ấy nhảy bổ tới cửa sập trên mái nhà Burnaby và leo xuống căn hộ tối tăm của ông ta.
“Đến lúc đó đầu óc của ông ấy mới bắt đầu hoạt động trở lại…
“Và trong lúc đó, điều gì đã xảy ra? Pierre Fley đã bị bắn trọng thương. Nhưng hắn vẫn có bộ xương sườn bằng sắt đã từng giúp hắn trụ lại sau khi bị chôn sống. Kẻ sát nhân đã ra đi. Và Fley không chịu buông xuôi. Hắn phải đi tìm người giúp. Hắn phải đến…
“Đến chỗ bác sĩ, Hadley. Hôm qua ông đã hỏi vì sao Fley lại đi về phía cuối phố, đến cuối con hẻm cụt. Bởi (như ông đã đọc trên báo chí) có nhà của một bác sĩ ở đó, vị bác sĩ mà sau đó cảnh sát đã mang hắn tới. Hắn biết mình bị thương rất nặng, nhưng hắn không chịu khuất phục! Hắn đứng dậy, vẫn còn đội mũ và mặc áo khoác. Hắn nhét khẩu súng đã được đặt vào tay hắn vào túi, phòng khi cần dùng đến. Sau đó hắn đi xuống cầu thang một cách bình tĩnh nhất có thể, đi ra ngoài con phố tĩnh lặng nơi chưa ai phát hiện ra điều gì. Hắn bước đi…”
“Ông có tự hỏi tại sao hắn lại đi giữa đường và liên tục ngó nghiêng xung quanh không? Cách giải thích hợp lí nhất không phải là hắn định tìm kiếm ngôi nhà nào, mà là hắn biết kẻ sát nhân đang ẩn nấp đâu đó xung quanh, và hắn đề phòng một cuộc tấn công nữa. Hắn nghĩ hắn đã an toàn. Trước mặt hắn có hai người đang đi bộ rất nhanh. Hắn đi qua cửa hiệu trang sức còn sáng đèn, hắn thấy một ngọn đèn đường trước mặt về phía bên phải…
“Nhưng điều gì đã xảy ra với Grimaud? Grimaud không nghe thấy tiếng ai đuổi theo, nhưng sự nghi hoặc đã khiến ông ấy gần như phát điên. Ông ấy không dám lên mái nhà để bị nghi ngờ. Nhưng, đợi một chút! Nếu có ai đó phát hiện ra, ông ấy chỉ cần nhìn xuống đường là biết. Ông ấy có thể đi xuống cửa trước, nhìn ra ngoài và liếc dọc con phố, phải không? Làm thế không có gì nguy hiểm, vì lúc bấy giờ không có ai khác đang ở trong ngôi nhà mà Burnaby đang thuê.
“Ông nhẹ nhàng đi xuống tầng dưới, khẽ khàng mở cửa. Ông ấy đã cởi khuy áo khoác để buộc sợi dây thừng quanh người. Ông ấy mở cửa, đứng dưới ánh sáng của ngọn đèn đường ngay trước cổng… và đối mặt với Fley, người đang đi chậm rãi giữa đường, người mà ông đã bỏ lại trong ngôi nhà kia gần 10 phút trước đó.
“Và đó là lần cuối cùng hai anh em đối mặt với nhau.
“Áo sơ mi của Grimaud là mục tiêu dưới ngọn đèn đường. Và Fley, bị cơn đau và sự kích động làm cho phát điên, không hề chần chừ. Hắn hét lên. Hắn rít lên những từ sau, ‘Viên đạn thứ hai là cho mày!’ ngay trước khi giơ khẩu súng lên và bắn.
“Hành động đó đã vượt quá sức chịu đựng của cư thể hắn. Hắn bị xuất huyết nặng, và hắn biết điều đó. Hắn lại hét lên một lần nữa, thả rơi khẩu súng (giờ không còn đạn) khi đang cố gắng ném nó về phía Grimaud, rồi hắn ngã sấp mặt xuống đất. Đó, thưa các vị, chính là phát đạn mà ba nhân chứng đã nghe thấy trên phố Cagliostro. Đó là phát đạn đã găm vào ngực Grimaud ngay trước khi ông ấy kịp đóng cửa.”