← Quay lại trang sách

PHẦN III - SINH HOẠT SỐNG ĐỘNG - ĐẾN VỚI PHÒNG HỌC SỐ 205 Chương 12

Một năm sau khi tôi từ Dublin trở về, cô bạn cũ của chúng tôi R’lene Dahlberg giới thiệu tôi với Roger Goodman, chủ nhiệm khoa Anh văn trường Trung học Stuyvesant [120] . Ông ta hỏi tôi có muốn dạy thay khoảng một tháng cho ông Joe Curran đang cần nghỉ dưỡng sức vì chuyện gì đấy không. Nghe nói Stuyvesant là trường nổi tiếng nhất thành phố, một thứ Harvard trong các trường trung học, chốn đào tạo của nhiều người đoạt giải Nobel, của chính James Cagney [121] ; cô cậu nào được nhận vào đây rồi thì các trường đại học nổi tiếng nhất nước Mỹ sẽ mở rộng cửa chào đón. Mỗi năm có tới mười ba nghìn thí sinh thi vào Stuyvesant mà trường chỉ tuyển bảy trăm em giỏi nhất.

Nay tôi lại dạy nơi mà trước kia mình chẳng hề được là một trong bảy trăm học sinh trúng tuyển.

Vài tháng sau, khi ông Joe Curran trở lại trường thì ông Roger Goodman mời tôi dạy hẳn luôn. Ông ta bảo học trò mến tôi, rằng tôi dạy sinh động, lôi cuốn, đúng là một bổ sung quý báu của khoa Anh văn. Ngượng nghịu vì được khen, tôi cám ơn và nhận lời. Tôi tự nhủ sẽ chỉ dạy hai năm thôi. Các nhà giáo ở thành phố này tranh nhau để được dạy trường Stuyveant, song, tôi còn muốn hưởng đời mà. Chứ cuối ngày dạy học nào về nhà đầu óc anh cũng ong ong tiếng ồn của đám thiếu niên, cùng những âu lo và khát vọng của chúng. Chúng theo anh vào cả trong bữa ăn tối, rạp xi nê, phòng tắm và tận giường ngủ.

Tôi cố không nghĩ tới chúng. Đi đi. Đi đi. Tôi đang đọc sách, xem báo, đọc những chữ viết trên tường. Đi đi mà.

Tôi muốn làm việc gì đấy người lớn và quan trọng cơ, như họp hành, đọc cho thư ký ghi chép, ngồi cùng các nhân vật tiếng tăm tại những chiếc bàn họp dài bằng gỗ gụ, bay đi dự những hội nghi, thư giãn trong những quán ăn sang trọng, lên giường với những người đàn bà khiêu gợi, thì thầm bên gối với họ - trước và sau đó – những chuyện dí dỏm, làm việc tại New York nhưng ở Connecticut, đi đi về về mỗi ngày.

Khi con gái tôi ra đời năm 1971 thì mọi tưởng tượng phóng túng của tôi mờ nhạt hết trước nét đáng yêu của nó và tôi bắt đầu thấy hết lạc lõng trên thế giới này. Sáng sáng tôi cho Maggie bú chai sữa, thay tã, rửa mông nó trong bồn nước xà bông ấm trong bếp; tôi bỏ thói quen xem báo để đỡ phí thì giời, đáp xe điện đầy nghẹt người từ Brooklyn tới Manhattan, rồi cuốc bộ dọc đường Fifteenth tới trường Stuyvesant, lách qua đám học trò đứng đợi ở cổng trước, đẩy cửa vào, chào người gác cổng, bấm thẻ ghi giờ, lấy chồng giấy má từ hộc thư của tôi, chào các đồng nghiệp đang bấm thẻ, mở cửa vào lớp, phòng 205, còn chưa có bóng dáng đứa học trò nào, dùng cây gậy dài mở cửa sổ, nhìn những chiếc bàn trống không, thư giãn vài phút trước khi bắt đầu tiết một của tôi, nghĩ đến con gái sáng nay bi bô trong bồn bếp, ngắm nhìn những hạt bụi nhảy nhót trong tia nắng chiếu vào phòng, lấy sổ điểm danh trong hộc bày lên bàn, lau tấm bảng còn bài văn phạm tiếng Pháp của lớp buổi tối dành cho người lớn, rồi mở cửa lớp, chào đám học trò ào vào tiết đầu tiên của tôi.

Roger Goodman nói rằng cần phải dạy kiểu có biểu đồ minh họa. Ông ta thích sự rõ ràng, đpẹ kiểu Euclid của phương pháp này. Tôi đáp rằng tôi không biết gì về kiểu dạy có biểu đồ minh họa. Ông ta liền chỉ vẽ cho tôi tại bữa ăn trưa trong quán Gas House ở ngay góc đường.

Roger đã thấp nhỏ mà còn hói, bù lại thì cặp lông mày rậm màu muối tiêu và chòm râu ngắn khiến ông ta có chút vẻ tinh quái.

Ông ta cùng ăn trưa với các giáo viên. Điều này khiến ông ta khác hẳn với các hiệu phó khác. Họ làm tôi nhớ đến những người trong dòng họ Cabot và Lodge [122] .

Ở Boston, nơi đồng tiền và quyền lực ngự trị,

Thì người họ Cabot chỉ trò chuyện với người họ Lodge,

Còn người họ Lodge chỉ trò chuyện với Đức Chúa Trời.

Đôi khi vào lúc xế trưa Roger ra quán Gas House để cùng nhấm nháp với chúng tôi. Ông không kiểu cách, lúc nào cũng vui vẻ, lúc nào cũng động viên, thật là một cấp trên khiến ta thoải mái. Ông không lên mặt, không kênh kiệu ta đây trí thức, ông chế nhạo lối ăn nói cầu kỳ quan liêu. Tôi nghĩ rằng khi phải thốt ra những thứ như “hoạch định chiến lược giáo dục” nhất định ông không khỏi cười thầm.

Ông tin cậy tôi. Hình như ông nghĩ rằng tôi có thể dạy cả bốn cấp ở trường trung học: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm kế chót và năm chót. Có lần ông còn hỏi tôi thích dạy gì rồi kéo tôi vào cái phòng chứa đầy sách xếp theo từng cấp. Tôi sững sờ thấy sách chất đầy trên những cái kệ, tới sát trần cao khoảng sáu mét và chồng đống trên những chiếc xe để đẩy tới các lớp học. Có những tâp hợp tuyển văn học Anh, Mỹ và thế giới, những chồng The Scarlet Letter, The Catcher in the Rye, The Painter Bird, Moby Dick, Arowsmith, Intruder in the Dust, Lie Down in Darkness, Introduction to Poetry của X.F. Kennedy. Có từ điển, tuyển tập thơ, truyện ngắn, kịch, sách giáo khoa và báo chí và sách văn phạm.

Anh muốn gì cứ việc lấy tự nhiên, Roger nói, nếu cần gì khác thì chúng tôi sẽ đặt mua. Cứ thủng thẳng. Tối nay anh về nhà suy nghĩ đi. Bây giờ ta ra Gas House ăn trưa cái đã.

Dạy học, sách vở, ăn trưa. Với Roger tất cả đều là một. Ông không có kiểu khi cần thế này, lúc phải thế kia. Tan trường, khi các giáo viên xếp hàng bấm giờ rồi hối hả ra về thì ông nhướng cặp lông mày, mời tôi ra quán ngay góc đường làm một chén rượu từ giã. Để đi một chặng đường dài về nhà tận cuối Brooklyn thì anh cần được bồi dưỡng cho khỏe người chứ. Thỉnh thoảng ông chở tôi về nhà, hôm nào uống ba ly Martini thì ông lái thủng thẳng và cẩn thận. Ông ngồi chễm chệ trên chiếc nệm lót nâng cao tấm thân lùn xủn, nắm chặt tay lái chẳng khác điều khiển tàu kéo trên bến cảng. Hôm sau ông thú nhận hầu như chẳng còn nhớ hôm nào đã nói những gì khi lái xe.

Lần đầu tiên trong đời nhà giáo tôi thấy mình được tự do trong lớp học. Tôi có thể dạy những gì mình thích. Người ngoài có thò đầu vào nghe tôi cũng chẳng quan tâm. Họa hoằn lắm Roger mới ghé vào lớp để rồi toàn viết những báo cáo hết sức lạc quan. Ông đã phá vỡ được sự phản kháng của tôi với những ai đứng trên tôi một hay hai nấc ở thế giới này. Tôi cho ông biết đang dạy gì trong các lớp của tôi và luôn được ông khích lệ. Thỉnh thoảng ông nói đôi câu về sự cần thiết phải giảng dạy theo biểu đồ và tôi hứa sẽ thử. Nhưng rồi việc này thành một câu chuyện tiếu lâm.

Tôi có thử nhưng không thành công. Tôi vạch những đường thẳng đứng, đường ngang, đường xéo rồi đứng lớ ngớ trước tấm bảng đen cho đến khi một cậu học sinh người Hoa xung phong nhận phận sự của tôi, dạy cho thầy cái điều lẽ ra ông phải biết.

Học trò của tôi rất nhẫn nại, song qua ánh mắt chúng nhìn nhau, qua những mẩu giấy chúng chuyền nhau, thì tôi đang kẹt cứng trong rừng văn phạm. Ở trường Stuyvesant chúng phải biết các thứ văn phạm tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Do Thái, Ý và Latin.

Roger thông cảm với tôi. Ông bảo: Có lẽ anh không sở trường việc giảng bằng biểu đồ. Ông bảo vẫn có người không giỏi chuyện này. R’lene Dahlberg giỏi. Chắc chắn là Joe Curran cũng thế. Chẳng gì thì anh ta từng tốt nghiệp trường Boston Latin, lâu đời hơn trường Stuyvesant cả hai thế kỷ rưỡi và, như anh ta nói, nổi tiếng hơn nhiều. Đối với anh ta thì dạy trường Stuyvesant là giảm thế giá. Anh ta có thể dạy bằng biểu đồ tiếng Hy Lạp, Latin và có thể cả tiếng Pháp và Đức nữa. Họ được đào tạo ở Boston Latin như thế mà. Jesse Lowenthal cũng được đào tạo như thế, dĩ nhiên. Anh ta là giáo viên lâu năm nhất trong khoa với bộ comlê lịch sự, dây đồng hồ quả quít bằng vàng ngang ngực áo, kính gọng vàng, phong thái cổ điển, học vấn uyên bác. Jesse chưa muốn về hưu, chừng nào về hưu anh ta định sẽ để thì giờ học tiếng Hy Lạp rồi sang thế giới bên kia với những vần thơ của Homer [123] trên môi. Roger hài lòng thấy rằng khoa của ông có một đội ngũ giáo viên nòng cốt đầy năng lực bất cứ lúc nào cũng có thể lập biểu đồ được.

Roger bảo rằng thật đáng buồn vì Joe Curran nghiện rượu. Bằng không anh ta có thể đàm đạo với Jesse hàng giờ liền về Homer mà anh ta thuộc lòng, về Virgil với Horace nữa nếu Jesse đủ sức, và về một người mà Joe thích nhất vì hợp với tính khí nóng nảy của anh ta, đó là Juvenal.

Trong căng tin của giáo viên Joe bảo tôi: Anh hãy đọc Juvenal đi rồi sẽ hiểu cái đất nước khốn kiếp này đang xảy ra chuyện gì.

Roger bảo rằng thật đáng buồn vì Jesse tuổi đã xế chiều và chỉ có Chúa mới biết ông ta đã giắt lưng được bao nhiêu năm dạy học rồi. Xem ra ông ta không còn đủ sức dạy một ngày năm tiết nữa. Ông ta yêu cầu được giảm gánh nặng này xuống bốn giờ, nhưng không, ôhô không được, ông hiệu trưởng không chịu, ông thanh tra không chịu, những cấp cao hơn nữa trong ngành cuxgn không cho. Jesse bảo không cho thì nghỉ. Xin chào Homer. Xin chào Ithaca. Xin chào thành Troy [124] . Jesse là như vậy đấy. Chúng ta sắp mất một nhà giáo tài ba mà anh nên nhớ rằng anh ta vẽ biểu đồ thật tuyệt. Với một câu văn và một cục phấn ông ta sẽ làm anh phải đờ người thán phục. Tuyệt vời.

Nếu anh bảo lũ con trai con gái trường Trung học Stuyvesant viết ba trăm năm mươi từ về một đề tài nào đấy thì có khả năng chúng sẽ viết tới năm trăm từ. Chúng thừa chữ nghĩa mà.

Nếu anh bảo đám học trò trong năm lớp viết ba trăm năm mươi từ thì anh sẽ có 175 nhân với 350, vị chi là 61.250 từ mà mỗi tối và cuối tuần anh phải đọc, sửa, phê và cho điểm. Ấy là nếu anh đủ sáng suốt để mỗi tuần chỉ cho một bài làm thôi đấy. Anh phải sửa lỗi chính tả, lỗi văn phạm, cấu trúc không sáng sủa, chuyển mạch không rõ ràng, văn luộm thuộm nói chung. Anh phải đưa ra gợi ý về nội dung và viết lời phê giải thích điểm anh cho. Anh phải nhắc nhở chúng rằng bài làm đầy những vệt xốt cà chua, mayonne, cà phê, Cola, nước mắt, mỡ và gàu sẽ không được thêm điểm đâu. Anh khẩn thiết khuyên chúng nên làm bài trên bàn viết hay một cái bàn nào đấy cũng được, chứ đừng trên xe điện, xe buýt, cầu thang cuốn hay trong cảnh huyên náo của pizza Joe’s-độc-đáo ngay góc đường.

Nếu anh dành cho mỗi bài chỉ năm phút thôi thì cho mỗi lớp anh sẽ mất mười bốn giờ ba mươi phút. Vị chi là hơn hai ngày dạy, nghĩa là một cuối tuần.

Anh ngần ngại không muốn cho học trò bình luận một quyển sách nào đó. Vì bài làm sẽ vừa dài hơn lại lắm ý cóp nhặt.

Mỗi ngày tôi mang sách và bài làm về nhà trong cái cặp giả da màu nâu. Tôi định sẽ ngồi thoải mái trong một cái ghế rồi chấm bài, nhưng sau một ngày dạy năm lớp tới 175 thiếu niên thì tôi hoàn toàn không muốn kéo dài thêm cái ngày ấy với bài làm của chúng. Thư thả, việc gì phải vội. Tôi đáng được hưởng một ly vang hay một cốc trà. Rồi sẽ sửa bài sau. Phải đấy, một cốc trà ngon và đọc báo hay đi dạo loanh quanh khu phố hoặc chơi vài phút với cô con gái nhỏ, nghe nó kể chuyện ở trường và những chuyện nó cùng làm với cô bạn Claire của nó. Phải đấy, tôi cần xem lướt tờ báo để theo kịp tình hình thế giới. Một ông thầy biết tiếng Anh cần phải biết thế giới có chuyện gì. Anh đâu biết được lúc nào một trong những học trò sẽ nêu vấn đề gì đó trong chính sách đối ngoại hay một vở kịch mới ở Off-Broadway. Anh đâu muốn đứng như trời trồng trước cả lớp, mấp máy miệng mà chẳng nên lời.

Đời thầy giáo tiếng Anh ở trường trung học là như thế đấy.

Cái cặp nằm lăn lóc trên sàn, trong một góc bếp, nhưng không bao giờ khuất tầm mắt hay tâm trí; giống như một con thú, một con chó chờ được người để ý. Mắt nó dõi theo tôi. Tôi không muốn cất nó trong tủ sợ lớ quên khuấy có bài làm phải đọc và sửa.

Cố xem bài trước bữa ăn tối thật chẳng ích gì. Chờ lát nữa vậy, hãy giúp rửa chén đĩa đã, cho con bé con đi ngủ rồi làm việc sau. Ra lấy cặp đi, cha nội ơi. Rồi ngồi trên sofa để có thể bày hết đồ đoàn trên đó; đặt đĩa hát hay mở radio. Không phải thứ nhạc khiến anh lãng trí đâu nhé. Chỉ loại nhạc như nước xi rô rót vào tai anh thôi đấy. Thứ nhạc để anh vừa nghe vừa chấm bài được ấy mà. Ngồi thoải mái trên sofa đi nào.

Hãy ngả đầu lấy một lát đã rồi hẵng sửa bài làm đầu tiên đang đặt trên lòng anh. “Bố dượng tôi, một con người đồi bại.” Lại thêm một lo lắng của tuổi choai choai. Nhắm mắt lại một tí đi. A… hãy để anh trôi dạt đi, anh giáo ơi, trôi dạt đi… Anh đang bềnh bồng. Một tiếng ngáy nhè nhẹ làm anh choàng thức. Bài làm rơi đầy sàn. Trở lại với công việc thôi. Đọc lướt bài luận. Viết khá. Tập trung, Cấu trúc rành mạch. Đau xót. Ô, chuyện cô bé này viết về ông bố dượng, rằng ông ta hơi quá thân mật với em. Ông ta rủ em đi xem phim và ăn tối khi bà mẹ phải làm thêm giờ. Rồi cách ông ta nhìn em. Bà mẹ bảo: Ô, thế là tốt quá, nhưng mắt mẹ có cái gì hay sao ấy, rồi mẹ im lặng. Người viết bài văn thắc mắc em nên làm gì. Có phải em hỏi tôi, thầy giáo của em, đấy không? Tôi có nên làm gì không nhỉ? Tôi có nên đáp lời em, giúp cô bé thoát cảnh oái oăm này không? Nếu quả thật là oái oăm. Tôi có nên gí mũi vào những chuyện không phải của gia đình tôi? Có thể em chỉ bịa đặt ra thôi. Sẽ ra sao nếu tôi khuyên em điều gì đấy rồi nó lọt đến tai ông bố dượng hay bà mẹ? Tôi có thể đọc và cho điểm bài này một cách khách quan, khen ngợi người viết bài văn có phong cách sáng sủa và biết triển khai đề tài. Đó là nhiệm vụ của tôi, phải không nào? Chứ tôi đâu có nhiệm vụ can thiệp vào từng chuyện cãi vã nhỏ nhặt trong gia đình học sinh, nhất là ở Stuyvesant, nơi học trò thích “gọi đích danh sự vật”. Các thầy giáo bảo tôi rằng một nửa số học sinh ở đây đang được trị liệu, nửa kia nên nối gót theo là vừa. Tôi không phải là người làm công tác xã hội hay trị liệu. Đây là tiếng kêu cứu hay chỉ là một tưởng tượng của tuổi choai choai? Không được, không được, những lớp này có quá nhiều chuyện. Học trò các trường khác đâu có như thế. Chúng đâu có biến giờ học thành buổi trị liệu theo nhóm. Trường Stuyvesant khác hẳn. Tôi có thể đưa bài luận này cho giáo viên hướng dẫn. Đây này Sam, anh lo giúp vụ này đi. Nếu không, ngộ nhỡ sau này vỡ lẽ ra đúng là ông bố dượng có hành động bất lương với cô bé, rồi mọi người biết tôi đã nhắm mắt bỏ qua thì những nhân vật quan trọng trong trường như hiệu phó, hiệu trưởng, thanh tra sẽ gọi tôi lên văn phòng. Họ đòi tôi giải thích. Sao một thầy giáo già dặn kinh nghiệm như anh lại để chuyện ấy xảy ra được? Rồi tên tôi có thể chạy suốt trang ba của những tờ báo lá cải.

Hãy đánh dấu đôi chỗ bằng bút đỏ. Cho cô bé 98 tuổi. Văn chương tuyệt vơi, nhưng có vài lỗi chính tả. Hãy khen ngợi cô bé đã viết thẳng thắn và chín chắn, nhưng em Janice rất có triển vọng, thầy mong sẽ được đọc thêm nhiều bài nữa của em trong những tuần sắp tới.

Chúng có những ý tưởng về đời sống riêng của các thầy cô mà tôi muốn xua tan đi. Tôi bảo chúng hãy nghĩ tới một trong những thầy cô của các em. Nhưng đừng nói cho ai biết tên người đó. Cũng đừng viết ra. Bây giờ các em suy đoán đi. Mỗi ngày ở trường ra thầy cô đó làm gì? Thầy cô đó đi đâu?

Các em biết mà. Dạy học xong thầy giáo về thẳng nhà. Mang theo một cặp đầy bài làm để sửa. có thể thầy uống với vợ một ly trà. Ồ, không đâu. Các thầy giáo không bao giờ uống rượu. Các thầy giáo đâu có sống kiểu đó. Họ không bao giờ đi chơi đi bời. Có thể họ xem xi nê vào cuối tuần. Họ ăn tối. Họ cho con nhỏ đi ngủ. Họ xem tin tức trước khi an vị để sửa bài. Mười một giờ tối họ uống một ly trà nữa hay một ly sữa nóng để dễ ngủ. Rồi họ thay đồ ngủ, hôn vợ rồi thiếp đi.

Đồ ngủ của thầy giáo toàn bằng vải bông thôi. Thầy giáo làm gì với thứ đồ ngủ bằng lụa chứ? À, không đâu, thầy giáo không bao giờ ngủ khỏa thân. Hễ anh đề cập tới khỏa thân là học trò kinh ngạc ngay. Này bồ, bồ có hình dung nổi vài ông thầy ở trường mình khỏa thân không?  Những câu như thế này luôn làm cả lớp cười ồ. Tôi tự hỏi phải chăng hcusng đang ngồi đó hình dung xem tôi khỏa thân trông ra sao.

Trước khi thiếp vào giấc ngủ thầy giáo nghĩ đến chuyện gì ư?

Trước khi thiếp vào giấc ngủ, khoan khoái trong bộ đồ ngủ bằng bông ấm áp, mọi ông hầy chỉ nghĩ đến chuyện ngày mai sẽ dạy gì thôi. Thầy giáo là những người đàng hoàng, mực thước, đầy ý thức trách nhiệm, tận tâm, họ không khi nào gác chân lên người nằm bên cạnh. Thầy giáo bị liệt từ rốn trở xuống mà.

Năm 1974 là năm thứ ba tôi dạy ở trường trung học Stuyvesant, tôi được mời dạy môn sáng tác. Môn này mới. Ông Roger Goodman bảo: Anh dạy được mà.

Tôi chẳng biết gì hết về sáng tác hay dạy sáng tác. Roger bảo: Anh đừng lo. Cả nước này có hàng trăm giáo viên và giáo sư dạy sáng tác mà phần lớn chưa từng công bố được lấy một chữ nào.

Thế mà anh, Bill Ince – người kế nhiệm của Roger – nói, anh đã có bài công bố nơi này nơi kia rồi. Tôi trả lời ông ta rằng vài ba bài trên The Village Voice, Newsday và một tạp chí đã chết ngoẻo ở Dublin đâu chứng tỏ tôi đủ tư cách dạy sáng tác. Rồi mọi người sẽ đều biết cả rằng tôi dạy sáng tác gì mà không phân biệt nổi bàng quang với bàng quan. Nhưng tôi nhớ mẹ tôi từng nói: Chúa sẽ giúp chúng ta, song đôi khi ta cứ phải làm liều, may ra thì thành công.

Tôi không bao giờ dám nói rằng tôi dạy sáng tác hay thơ văn, nhất là vì tôi còn thường xuyên tự học. Tôi chỉ nói tôi dạy học, thế thôi.

Mỗi ngày tôi có năm tiết như thường lệ, ba tiết Anh văn “chính quy”, hai tiết sáng tác. Tôi là thầy giáo chủ nhiệm của ba mươi bảy học sinh kiêm những việc về quản lý. Mỗi học kỳ tôi được giao một nhiệm vụ khác nhau: kiểm tra các hành lang và cầu thang, kiểm tra ngăn ngừa nam học sinh hút thuốc trong phòng vệ sinh dành riêng cho con trai, thay các giáo viên vắng mặt, ngăn ngừa chuyện buôn bán ma túy, ngăn chặn mọi hình thức cờ bạc, giám sát căng tin của học sinh, giám sát cổng trường để bảo đảm người ra người vào đều phải có giấy phép. Dưới mái trường của ba nghìn trẻ choai choai tinh ranh thì anh cẩn thận mấy cũng không thừa. Chúng luôn luôn nghĩ ra chuyện gì đấy. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò mà.

Chúng ca cẩm khi tôi thông báo rằng chúng ta sẽ đọc A Tale of Two Cities . Sao chúng không được đọc The Lord of the Rings hay Dune [125] , nghĩa là chuyện khoa học viễn tưởng nói chung? Sao chúng không được…?

Thôi đủ rồi. Tôi nói một thôi một hồi về Cách mạng Pháp, về sự tuyệt vọng của những con người héo mòn dần vì chế độ chuyên chế và đói nghèo. Tôi là một với những người Pháp bị áp bức, tôi thích thú vì sự phẫn nộ chính đáng của mình. Hãy xông ra chiến lũy, mes enfants [126] .

Chúng nhìn tôi như muốn nói: Nữa rồi. Lại thêm một ông thầy thậm dở hơi.

Nhưng các em đâu thèm quan tâm đến chuyện ấy, tôi chế giễu. Ngay bây giờ cũng có hàng tỷ người đâu được sáng tác chui ra khỏi chăn nệm trắng tinh ấm áp để đi tiêu đi tiểu trong phòng vệ sinh nóng và lạnh, những bánh xà phòng thơm, dầu gội đầu, dầu dưỡng tóc, những tấm khăn tắm sang trọng có lớp tuyết dày như đầu các em.

Gương mặt chúng ngầm bảo: Ối, cứ kệ ông ấy nói. Thầy giáo như thế thì ta chỉ có thua thôi. Ta đâu làm gì được. Cãi lại thì ông ấy sẽ lôi chiếc bút đỏ cũ mèm đánh một cái dấu đỏ là ta tụt hạng ngay. Rồi bố ta sẽ hỏi: Sao thế? Rồi ta sẽ phải giải thích rằng ông thầy đã nói những điều cực kỳ vớ vẩn về người nghèo người khổ sao đó. Bố ta không tin và sẽ cấm ta mãn đời không được đi chơi. Thành ra tốt nhất là ngậm miệng. Đối với cha mẹ và thầy cô thì cứ ngậm miệng là ăn tiền. Nghe ông ấy nói thôi.

Tan học các em sẽ về với căn hộ hay ngôi nhà tiện nghi của mình, mở tủ lạnh xem có gì trong đó, khi không thấy món mình thích các em sẽ hỏi mẹ có được kêu quán mang pizza đến không, tuy chỉ một giờ nữa thôi là nhà sẽ ăn chiều. Mẹ em bảo: Được chứ cưng, cưng ngày ngày đi học cực nhọc, lại phải chịu đựng thầy cô bắt đọc Dickens, thành ra sao cưng lại không đáng được thưởng chút gì nhỉ.

Ngay trong lúc đang nói thao thao tôi đã biết chúng coi tôi là một thứ “rận trong quần” lá mặt lá trái tiền định. Chúng có biết rằng tôi đang khoái chí không? Thầy giáo là kẻ mị dân. Đâu phải lỗi của chúng nếu chúng thuộc thành phần tư sản sung sướng phởn phơ, và chẳng phải tôi đang tiếp tục giữ vững truyền thống ganh tị cổ hủ kiểu Ireland đó sao? Thôi, bỏ đi mà, Mac.

Ở hàng đầu, ngay trước mặt tôi, Sylvia giơ tay. Cô bé người da đen, nhỏ nhắn và ăn mặc đúng mốt.

Thưa thầy McCourt.

Ừ.

Thưa thầy McCourt.

Có chuyện gì?

Thầy nói quá đấy, thưa thầy McCourt. Bớt nóng đi. Nguôi ngoai chút đi. Nụ cười kiểu Ireland dễ thương của thầy đâu rồi?

Tôi định quát rằng nỗi thống khổ của người dân Pháp đáng thương đã làm nổ ra cuộc cách mạng đâu phải chuyện cười đùa, nhưng cả lớp đã cười vang vỗ tay hoan hô Sylvia khiến tôi đành im thin thít.

Ừ, Sylvia. Em cười đi xem nào.

Cô bé ngước nhìn tôi cười. Ôi chao, đôi mắt nâu to kia. Tôi cảm thấy mình yếu đuối và ngớ ngẩn làm sao. Tôi từ từ về ghế ngồi, để mặc chúng vui đùa tán dóc hết thời gian còn lại, chẳng hạn về chuyện làm sao để sống tốt hơn. Chúng sẽ tỏ ra xứng đáng với Charles Dickens. Việc đầu tiên là chúng sẽ gửi tặng con cháu những người cùng khổ thời Cách mạng Pháp. Hoặc chúng sẽ tặng những người không nhà không cửa trên First Avenue, đặc biệt người đàn ông cho rằng mình bị lăng mạ nếu được bố thí ít hơn năm đôla.

Hết giờ học Ben Chan còn nán lại trong lớp. Thưa thầy McCourt, em có thể thưa chuyện với thầy được không ạ?

Ben bảo nó hiểu điều tôi vừa nói về sự nghèo khó. Chứ các bạn kia đâu biết tí gì. Nhưng không phải lỗi tại lũ bạn nó và tôi không nên bực mình. Bốn năm trước nó đến đất nước này, khi ấy nó mười hai tuổi. Nó không biết một chữ tiếng Anh nào, nhưng nó đã ra sức học tiếng Anh và toán, đủ giỏi để thi vào trường Trung học Stuyvesant. Nó sung sướng vào được trường này và gia đình nó rất tự hào. Họ hàng nó ở Trung Quốc cũng rất tự hào về nó. Nó đã phải đọ sức với mười bốn ngàn đứa khác để vào được trường này. Cha nó làm việc mỗi tuần sáu ngày, mỗi ngày mười hai giờ trong một quán ăn ở Phố Tàu. Mẹ nó làm việc trong một xí nghiệp bóc lột công nhân tàn tệ dưới phố. Tối tối bà nấu cơm cho cả gia đình gồm năm đứa con, ông chồng và bà. Rồi bà lo cho mọi người có sẵn quần áo để mặc hôm sau. Tháng nào bà cũng bảo mấy đứa nhỏ thử quần áo của mấy đứa lớn xem có vừa không. Bà bảo sau này khi mấy đứa con lớn cả, không mặc vừa của nhau nữa thì bà sẽ giữ lại cho người thân nào sắp từ Trung Quốc sang hoặc gửi về đó. Người Mỹ không thể nào hiểu nổi rằng ở Trung Quốc người ta sung sướng biết bao khi nhận được quà từ Mỹ. Các con ngồi cả vào bàn bếp học và làm bài rồi thì bà mới yên tâm. Nó không hề dám gọi bố mẹ bằng những từ lẩm cẩm như Mom hay Dad . Gọi thế là bất kính. Mỗi ngày cha mẹ nó đều học thêm từ tiếng Anh mới để có thể trò chuyện với thầy cô và theo kịp con cái. Ben nói rằng trong gia đình nó người người kính trọng lẫn nhau và họ sẽ không bao giờ chê cười chuyện thầy giáo đề cập đến người nghèo ở Pháp, vì điều này rất dễ dàng xảy ra bên Trung Quốc hay ngay tại Phố Tàu ở New York này.

Tôi bảo rằng chuyện gia đình nó thật ấn tượng và cảm động. Để tỏ lòng biết ơn mẹ, nó có thể viết ra rồi đọc cho cả lớp nghe được không?

Ô, không được đâu, nó không bao giờ làm chuyện ấy. Không bao giờ.

Sao không? Chắc chắn bạn bè của nó trong lớp sẽ học hỏi được đôi điều và nhất định sẽ trân trọng những gì chúng được hưởng hiện nay.

Nó nói không được, nó không bao giờ có thể viết hay nói với ai khác về gia đình nó, vì cha mẹ nó sẽ xấu hổ.

Ben, thầy rất vinh dự được em kể về gia đình em.

À, em chỉ muốn thưa với thầy đôi điều mà em không nói với ai khác, để nếu thầy cảm thấy không vui sau tiết học này thì thầy sẽ nghĩ lại.

Cám ơn em, Ben.

Em cũng cám ơn thầy, và xin thầy đừng băn khoăn về Sylvia. Bạn ấy thật sự quý mến thầy.

Hôm sau Sylvia nán lại sau giờ học. Thưa thầy McCourt, chuyện hôm qua ấy mà, em không có ác ý đâu.

Thầy biết, Sylvia ạ. Em chỉ muốn giúp thầy thôi.

Các bạn khác cũng không có ý xấu đâu ạ. Chẳng qua họ cứ phải nghe người lớn và các thầy cô la mắng hoài. Các em hiểu thầy muốn nói gì. Ngày nào đi qua Brooklyn mà em chẳng phải chịu những chuyện như thế.

Chuyện gì chứ?

Dạ, như thế này: em ở Bedford-Stuyvesant. Thầy biết khu Bed-Stuy chứ ạ?

Biết. Khu người da đen.

Ở phố nhà em cóc có đứa nào vào được đại học. Ý chết!

Sao thế?

Em vừa nói “cóc có”. Hễ mẹ em nghe em nói “cóc có” là mẹ em bắt em viết một trăm lần “không được nói cóc có”. Rồi mẹ em bắt em đọc một trăm lần. À, điều em định kể là: khi em đi học về nhà thì lũ nhóc ở đó trêu chọc em. Kìa, cô nàng về kia rồi. Cô nàng nõn nường của chúng ta kia rồi. Này, chào cô đốc, cô gãi rồi thấy da mình nõn à? Chúng em gọi là cô đốc vì em khoái, em muốn chứ, trở thành bác sĩ. Tất nhiên em thương những người Pháp nghèo khổ, nhưng chúng em ở Bed-Stuy cũng có những chuyện phải lo của mình.

Em muốn thành bác sĩ ngành gì?

Bác sĩ khoa nhi hay tâm lý. Em muốn gần gũi được với đám trẻ trước khi chúng trở thành bụi đời chịu nghe mắng rằng chúng chẳng làm nên trò trống gì, vì em thấy ở khu nhà em bọn trẻ không hề dám tỏ ra rằng chúng thông minh lanh lợi, thành thử hễ hở ra chúng toàn làm chuyện dại dột trong những khu đất trống hay những tòa nhà bị cháy chỉ còn trơ cái khung. Thầy nên biết rằng có cả đống, em muốn nói là có nhiều trẻ linh lợi ở những khu phố nghèo.

Thầy McCourt, ngày mai thầy kể cho tụi em một trong những câu chuyện ở nước Ireland của thầy nhé?

Cho em, bác sĩ Sylvia ạ, thầy sẽ kể cả một thiên anh hùng ca. Câu chuyện này đã in sâu vào tâm khản thầy như tạc vào đá, mãi mãi không phai. Năm mười bốn tuổi thầy làm việc đưa điện tín ở Ireland. Một ngày nọ thầy phải đưa bức điện tới tu viện nữ Good Shepherd gồm các bà sơ và những người đàn bà thế tục làm nghề thêu đăng ten và giặt ủi. Ở Limerick người ta đồn rằng những người đàn bà thế tục ở tiệm giặt ủi này không phải hạng tử tế, đã quyến rũ đàn ông vào con đường lầm lạc. Vì người đưa điện tín không được dùng cửa chính nên thầy đi lối cửa bên. Bức điện thầy đưa cần trả lời ngay nên bà sơ ra mở cửa bảo thầy vào rồi đứng đó đợi, không được vào sâu hơn bên trong. Bà đặt tấm đăng ten đang thêu lên ghế, sau khi bà đi khuất khỏi hành lang thầy lén nhìn thấy đăng ten thêu hình một tiểu thiên thần bay lượn trên một chiếc lá chụm ba [127] . Thầy không biết đã lấy đâu ra can đảm, nhưng khi bà sơ quay lại, thầy bảo thưa sơ, thật là một tấm đăng ten tuyệt đẹp.

Cậu nói đúng đấy, nhóc, và hãy ghi nhớ điều này: đôi bàn tay đã làm nên tấm đăng ten này chưa hề đụng chạm tới da thịt đàn ông.

Bà sơ nhìn thầy chòng chọc như thù ghét. Thứ Bảy nào các ông cố đạo cũng đều giảng về yêu thương, song có lẽ bà sơ này không đi nghe giảng, rồi thầy tự nhủ nếu sẽ phải đem điện tín tới tu viện nữ này lần nữa thì thầy sẽ nhét nó dưới khe cửa rồi chuồn.

Sylvia than: Các bà sơ này! Sao bà ấy khó tính thế nhỉ? Bà ấy có chuyện gì? Đụng chạm tới da thịt đàn ông có gì là xấu xa? Chúa Jesus là đàn ông đấy thôi. Bà ấy giống cha cố trong truyện của James Joyce toàn nói về địa ngục. Thầy có tin cái điều vớ vẩn ấy không, thầy McCourt?

Thầy không biết phải tin gì, ngoại trừ mình không phải sinh ra trên đời này để thành người Công giáo hay người Ireland hoặc thành kẻ ăn chay hay gì khác. Đó là tất cả những gì thầy biết, Sylvia ạ.

Khi thảo luận với học trò quyển A Portrait of the Artist As a Young Man tôi mới biết là chúng mù tịt về bảy tội trọng. Đứa nào cũng ngơ ngác. Tôi viết lên bảng: kiêu căng, tham lam, tà dâm, nóng vội, tham ăn, ganh ghét, lười biếng. Nếu các em không biết thì các em thoải mái thế nào được?

Vâng, có thể, nhưng thưa thầy McCourt, chuyện này liên quan gì đến sáng tác ạ?

Quan trọng bậc nhất đấy. Không cần phải nghèo, theo đạo Công giáo và là người Ireland thì ta mới hổ, chính sự khổ sở sẽ cung cấp cho ta chất liệu để viết lách và lý do bào chữa cho chuyện say sưa. Khoan. Thầy rút lại. Bỏ chuyện say sưa đi.

Năm tôi bốn mươi chín tuổi thì vợ chồng tôi chia tay nhau, lúc ấy Maggie lên tám. Tôi bị khánh kiệt, phải ngủ nhờ hết nhà người bạn này đến nhà bạn khác ở Brooklyn và Manhattan. Việc dạy học buộc tôi quên buồn đau. Tôi có thể gào lên khi nâng ly bia ở quán Gas House hay Lion's Head, nhưng trong lớp tôi phải dạy cho có kết quả.

Có lúc tôi định vay tiền Quỹ hưu của giáo viên để thuê một căn hộ sẵn giường tủ, bàn ghế. Trong khi chờ đợi Yonk Kling mời tôi về tá túc trong căn hộ ông thuê trên đường Hicks, gần đại lộ Atlantic.

Yonk là một họa sĩ kiêm phục chế ở tuổi lục tuần. Ông là người vùng Bronx, nơi mà cha ông từ là một bác sĩ cực đoan về chính trị. Bất cứ nhà hoạt động cách mạng hay vô chính phủ nào ghé qua New  York đều được bác sĩ Kling hân hoan mời ăn tối và ngủ lại đêm. Trong Thế chiến thứ hai Yonk phụ trách ghi sổ sách các mồ mả. Sau mỗi trận đánh ông lo thu nhặt xác hay mảnh xác người trong vùng giao tranh. Ông bảo tôi rằng ông không hề muốn cầm súng, nhưng việc nhặt xác người còn khủng khiếp hơn nhiều, nên ông thường có ý muốn xin chuyển sang bộ binh; ở đây anh chỉ phải nhắm địch quân bắn đòm một phát. Rồi cứ thế. Anh không cần phải lượm thẻ bài của người chết hay lục tìm hình vợ con trong ví họ.

Yonk vẫn còn bị ác mộng bởi việc này và thứ thuốc chữa hoặc ngừa hay nhất là một ngụm lớn rượu mạnh mà ông luôn thủ sẵn trong phòng ngủ. Qua mức rượu trong chai tôi có thể biết ông thường gặp ác mộng đến đâu.

Ông vẽ tranh trong phòng ngủ. Ông di chuyển từ giường tới ghế rồi tới giá vẽ, cái này là một bộ phận của cái kia. Thức dậy, ông nằm trên giường hút một điếu thuốc, ngắm nhìn bức tranh vẽ trên vải bạt ngày hôm trước. Ông mang cà phê từ bếp vào phòng ngủ, ngồi trên ghế tiếp tục ngắm. Thỉnh thoảng ông chấm nhẹ lên bức tranh để sửa chỗ này hay xóa bỏ chỗ kia. Chẳng bao giờ ông uống cạn ly cà phê. Căn hộ đầy những chiếc ly chỉ vơi một nửa. Khi nguội, cà phê sánh lại để một vệt tròn ở lưng chừng ly.

Có một cảnh ông vẽ mãi trên nhiều khổ vải khác nhau: một nhóm đàn bà choàng khăn màu tùng lam sáng, áo lụa dài buông thõng đứng trên bờ biển nhìn ra khơi. Tôi hỏi có ai chết đuối hay họ chờ đợi gì chăng? Ông lắc đầu. Ông không biết. Làm sao ông biết được? Ông chỉ đặt những người đàn bà này đứng ở đó chứ không định xen vào chuyện riêng của họ. Ông không thích một vài họa sĩ và văn sĩ chính vì thế. Họ cứ xen và chỉ trỏ mọi thứ như thể anh không tự nhìn hay đọc được. Van Gogh [128] không thế. Hãy nhìn tranh Van Gogh mà xem. Có cầu, hoa hướng dương, căn phòng, khuôn mặt, đôi giày. Anh phải tự rút ra kết luận. Van Gogh không giải thích gì cho anh hết.

Ông còn hai đề tài nữa: đua ngựa và những người Hansidim [129] nhảy múa. Ông vẽ bầy ngựa chạy ở một khúc quanh. Ở đấy thân thể ngựa mới mềm mại nhất, ông bảo thế. Ngựa phóng ra khỏi chuồng hoặc phi tới đích thì ai chẳng vẽ được. Đó chỉ là con ngựa từ đầu tới đuôi thôi, nhưng khi chúng tới khúc quanh, ái chà, chúng phải nghiêng và căng người, dạt ra cho thích ứng với khúc quanh rồi tìm lối để phóng thẳng.

Những người Hasidim thì thật là cuồng nhiệt: sáu người trong bộ đồ đen, mũ đen, áo khoác đen, râu tóc bay phấp phới. Ta như nghe được tiếng kèn clarinet rúc lên cao và tiếng violon khi trầm khi bổng.

Yonk bảo ông chẳng quan tâm gì đến tôn giáo, dù đạo Do Thái hay đạo gì khác, nhưng nếu ta có thể đến gần Thượng đế qua điệu nhảy như những người trong tranh thì ông sẽ theo ngay.

Ở sân đua Aqueduct tôi quan sát ông ngắm lũ ngựa. Hình như ông là người duy nhất quan tâm đến những con mà ông gọi là ngựa què lê đến đích cuối cùng. Ông không thèm để ý đến những con được dắt vào khu dành cho ngựa đoạt giải. Thắng thì đâu có gì cần nói nữa, thua mới khiến ta phải suy nghĩ. Trước khi quen Yonk tôi chỉ thấy chúng là lũ ngựa cùng chạy về một hướng, cắm đầu cắm cổ chạy cho tới khi một con thắng. Qua cặp mắt của ông tôi thấy một sân đua Aqueduct khác hẳn. Tôi không biết gì về nghệ thuật hay suy nghĩ của người hoạ sĩ này nhưng tôi biết khi trở về nhà ông đã mang trong đầu hình ảnh lũ ngựa và những anh chàng này.

Tối đến, ông mời tôi một ly rượu mạnh trong căn phòng ở góc nhà, nơi chúng tôi dõi theo đại lộ Atlantic ra tới khu cảng. Những chiếc xe tải rù rù leo dốc, thở khò khè, gầm gừ khi đổi số ở đèn xanh đèn đỏ, còn xe cứu thương ở bệnh viện Long Island College hụ còi suốt ngày đêm. Chúng tôi thấy ánh đèn nê ông đỏ quảng cáo của quán Montero nhấp nháy; đây là nơi gặp gỡ của các thủy thủ tàu hàng, tàu container khi họ tới Brooklyn và các cô gái ăn sương đón khách.

Quán này và ngôi nhà trên đại lộ Atlantic là của Pilar Montero và anh chồng tên Joe. Họ có một căn hộ trống phía trên quán tôi có thể thuê với giá hai trăm rưởi đôla một tháng. Pilar sẵn sàng cho tôi một cái giường, vài cái bàn ghế. Em biết anh sẽ hài lòng trên căn hộ ấy, anh Frankie ạ. Pilar nói cô ta mến tôi vì cái lần tôi bảo tôi thích kèn túi Tây Ban Nha hơn kèn túi Ireland và vì tôi khác mọi người Ireland, họ chỉ thích đánh nhau tối ngày.

Căn hộ tôi thuê ngó ra đại lộ Atlantic. Bảng hiệu Montero Bar không ngừng nhấp nháy trước cửa sổ, khiến phòng trước của tôi từ đỏ tía chuyển sang đen rồi lại đỏ tía, trong lúc ở dưới nhà máy quay đĩa chơi ầm ầm bài "YMCA" của bạn Village People.

Dĩ nhiên tôi không đời nào kể cho học trò chuyện tôi trú ngụ trên một trong những quán rượu cuối cùng ở cảng Brooklyn, rằng mỗi tối tôi phải gồng mình để khỏi nghe tiếng các thủy thủ la hét ôm sòm, phải nhét bông vào tai để ngăn chặn tiếng cười, tiếng rú của những cô gái mại dâm trên bến cảng, ngăn chặn tiếng rầm rầm từ chiếc máy phát quay đĩa của quán rượu dưới nhà và tiếng ban nhạc Village People hát bài "YMCA" làm đêm đêm tôi giật nảy mình trên giường.