Chương 13
Đầu mỗi học kỳ tôi bảo các học sinh mới học môn sáng tác rằng: Thầy trò ta hoạn nạn có nhau. Thầy không biết các em nghĩ sao, riêng thầy rất coi trọng môn này và thầy chắc chắn một điều là cuối học kỳ sẽ có một người trong lớp này học được đôi chút gì đấy và người ấy, các bạn nhỏ ạ, chính là thầy.
Tôi cho rằng thế thật láu cá, tự giới thiệu mình là kẻ ham học nhất trong tất cả, tách khỏi đám đông là những kẻ lười biếng, cơ hội, bàng quan.
Tiếng Anh là môn bắt buộc, còn sáng tác là môn tự chọn. Thích thì chọn, không thích thì thôi. Chúng đã chọn. Chúng đổ xô vào giờ của tôi. Lớp học chật ních. Chúng ngồi cả trên bệ cửa sổ. Một cô giáo tên Pam Sheldon nói: Sao họ không để anh McCourt dạy trong sân vận động Yankee luôn cho rồi? Tôi được hâm mộ như thế đấy.
Cái gì đã khiến học trò nhiệt tình "sáng tác"? Phải chăng các cô các cậu bỗng dưng có nhu cầu được thể hiện bản thân? Hay tại tôi dạy giỏi, lôi cuốn, có giọng Ireland đáng yêu? Cũng niềm tin cũ rích ấy và nhân tố begorrah [130] chăng?
Hay tại có tin đồn rằng ông thầy McCourt này chuyên dạy lan man rồi cho điểm tốt như thể phân phát kẹo?
Tôi không muốn bị xem là cho điểm dễ dãi. Tôi phải ra vẻ nghiêm khắc mới được. Siết chặt lại. Tổ chức. Tập trung. Nhiều thầy cô khiến học trò sợ như cọp. Trên tầng bốn ông Phil Fisher dạy toán khiến học trò bở vía. Chuyện đồn xuống tận dưới đáy. Nếu học trò phải đánh vật với bài vở hay tỏ ra chán ngán thì ông hét toáng: Hễ em mở miệng là y như rằng tổng số ngu ngốc của loài người tăng lên, hoặc hễ em mở miệng là y như rằng tổng số uyên bác của loài người giảm đi. Ông không thể hiểu nổi sao đầu óc loài người lại có thể gặp khó khăn trước phép tính vi phân và lượng giác. Ông thắc mắc sao lũ nhóc lộn giống ngu xuẩn này không hiểu được vẻ đẹp mộc mạc của toán học.
Cuối học kỳ, lũ nhóc lộn giống ngu xuẩn này của ông kiêu hãnh với điểm tốt ông cho. Ta đâu có thể nào thờ ơ với một người như Phil Fisher được.
Ed Marcantonio là chủ nhiệm khoa Toán. Lớp ông dạy đối diện với lớp tôi. Ông dạy những môn y như Phil Fisher, nhưng lớp ông là những ốc đảo của lý trí và chủ tâm nghiêm túc. Ông ra bài làm rồi trong bốn mươi phút ông hướng dẫn hoặc thôi thúc học trò tìm cho ra giải đáp hay. Khi chuông reo hết giờ thì đám học trò của ông sung sướng bay bổng trong hành lang. Đến khi thi đậu môn của ông Ed thì chúng biết rằng chúng xứng đáng.
Thanh thiếu niên thường không ưa bị thả xuống biển cả mênh mông của sự đoán mò. Chúng hài lòng khi được biết Tirana là thủ đô của Albania. Chúng không thích khi ông McCourt hỏi: Sao Hamlet lại đối xử tệ bạc với mẹ hoặc tại sao y không giết nhà vua khi có dịp? Chúng không phản đối thảo luận, mổ xẻ mọi khía cạnh cho đến hết giờ luôn, nhưng chúng muốn biết câu trả lời trước khi tiếng chuông chết tiệt kia reo. Với ông McCourt thì đừng hòng, bồ tèo ơi. Ông ấy hỏi, gợi ý, khiến anh hoang mang, rồi vì anh biết rằng chuông báo sắp reo nên anh thấy sốt ruột, Thầy nói đi mà, thầy nói đi mà, câu trả lời là thế nào? Ông ấy sẽ hỏi: Các em nghĩ sao? Các em nghĩ sao? rồi chuông reo, rồi ta ra ngoài hành lang mà vẫn ù ù cạc cạc, rồi ta thấy bọn bạn cùng lớp chỉ đầu [131] như muốn nói không hiểu ông thầy này làm cái trò gì vậy. Ta thấy học trò lớp ông Marcatonio bay bổng trên hàng lang với vẻ thanh thản như muốn nói: Tụi tớ có lời giải rồi. Tụi tớ có lời giải rồi. Ta mong rằng thầy McCourt trả lời một lần, chỉ một lần thôi, về vấn đề gì đấy, nhưng không, ông cứ ném trả mọi vấn đề lại cho ta. Có thể đó là cách dạy học bên Ireland, nhưng nên có ai đấy nhắc ông rằng đây là nước Mỹ và chúng em muốn có được câu trả lời ngay ở đây. Hay biết đâu chừng ông cũng chẳng có câu trả lời nên cứ ném trả mọi vấn đề lại cho cả lớp.
Tôi muốn dạy học với sự say mê của ông Fisher và sự tinh thông của ông Marcantonio. Thật là hãnh diện khi biết hàng trăm học trò muốn theo học tôi, song tôi băn khoăn về động cơ của chúng. Tôi không muốn được xem là quá dễ dãi. Ôi giời, lớp của thầy McCourt có ra quái gì. Bọn tớ toàn nói hươu nói vượn suốt buổi. Toàn ba hoa không à. Bồ tèo ơi, nếu bồ không được ông cho điểm A thì có nghĩa là đầu bồ chỉ toàn bã đậu thôi.
Một buổi xế trưa Yonk Kling ghé quán Montero làm một ly rượu nặng. Ông bảo tôi trông thật thảm hại.
Cám ơn anh Yonk.
Làm một ly rượu mạnh đi.
Không được. Tôi còn phải chấm cả triệu bài làm. Chị Pilar ơi, cho một ly Rioja đi.
Hay lắm, Frankie. Anh thích kèn túi Tây Ban Nha. Anh thích Rioja. Vậy hãy kiếm lấy một cô nàng Tây Ban Nha xinh đẹp. Rồi bám giường suốt cuối tuần.
Tôi ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế cao bên quầy rượu, kể Yonk nghe chuyện của tôi. Tôi nghĩ mình quá dễ dãi. Chẳng ai kính trọng thầy giáo dễ dãi. Một ông thầy ở trường Stuyvesant được gọi là "nhà hảo tâm" vì cho điểm quá hào phóng. Tôi muốn dạy cho học trò rằng chúng phải đạt điểm một cách xứng đáng. Chúng phải biết trân trọng điểm được cho đó. Cả trăm đứa ghi tên học lớp tôi. Tôi băn khoăn: Nếu chỉ vì chúng nghĩ rằng tôi dễ dãi! Một bà đến trường năn nỉ tôi nhận con gái bà vào học môn của tôi. Bà ta đã ly dị và đề nghị sẵn sàng chung chạ với tôi một tuần ở nơi nghỉ mát nào tùy tôi chọn. Tôi từ chối.
Yonk lắc đầu, bảo thỉnh thoảng tôi không được sáng suốt lắm, rằng tôi ngang bướng như lừa, nếu tôi không chịu buông thả thì tuổi trung niên của tôi sẽ khốn khổ cho mà xem. Chúa ơi. Lẽ ra anh nên phân phát niềm vui mới đúng: một cuối tuần với bà mẹ và một tương lai tươi sáng cho cô con gái muốn làm văn sĩ. Anh làm sao thế?
Làm thế tôi sẽ không được kính trọng.
Kính trọng là cái khỉ gì. Làm thêm một ly Rioja nữa đi. Không, Pilar, cô rót cho anh này một ly rượu mạnh Tây Ban Nha, tôi trả tiền.
Được thôi, nhưng như thế có nghĩa là tôi phải làm việc bớt đi, anh Yonk ạ. Còn bao nhiêu bài phải chấm. Một trăm bảy mươi bài, mỗi bài ba trăm năm mươi từ nếu tôi gặp may, năm trăm từ nếu tôi xui xẻo. Đúng là tôi bị chôn sống.
Ông bảo tôi đáng được thưởng hai ly rượu mạnh và ông không hiểu tôi làm sao chịu nổi đời nhà giáo. Bọn nhà giáo các anh ấy à, tôi hổng hiểu các anh đã làm thế nào. Nếu tôi là thầy giáo, tôi sẽ chỉ nói một điều thôi với bọn nhóc lộn giống ấy: Câm mồm. Câm cái mồm. Nhưng mà này, anh có nhận cô bé kia vào lớp của anh không đấy?
Có.
Đề nghị của bà mẹ vẫn còn giá trị chứ?
Tôi nghĩ còn.
Vậy mà anh ngồi đây uống rượu mạnh Tây Ban Nha, trong khi có thể quẳng béng cái tính liêm chính của nhà giáo để đi nghỉ ở một nơi tùy thích ư?
Sau mười lăm năm dạy bốn trường trung học khác nhau - McKee, Kỹ nghệ Thời trang, Seward Park, Stuyvesant - và trường Đại học Brooklyn, tôi có được bản năng của một con chó. Tháng Chín và tháng Hai có các khóa học mới, tôi đánh hơi được thành phần hóa học của học sinh. Tôi để ý cách chúng nhìn, chúng để ý cách tôi nhìn. Tôi có thể phân biệt chúng thành nhiều loại khác nhau: bọn ham học, bọn quyết tâm, bọn "ngầu", bọn chờ xem, bọn thờ ơ, bọn thù địch, bọn cơ hội tới học vì nghe nói tôi cho điểm dễ dãi, bọn si tình chỉ muốn được gần người chúng thương thầm trộm nhớ.
Trong trường này anh phải thu hút được sự chú ý của chúng, phải thách đố chúng. Chúng ngồi đấy, hàng nối hàng, những khuôn mặt thông minh lanh lợi ngước nhìn tôi, chờ đợi, sẵn sàng để tôi chứng tỏ năng lực của mình. Trước khi vào dạy ở Stuyvesant tôi giống một giám thị hơn là thầy giáo. Tôi mất thì giờ cho những chuyện kỷ luật hàng ngày: bảo chúng ngồi vào chỗ, mở vở ra, từ chối không cho ra ngoài, giải quyết những việc chúng khiếu nại. Ở trường Stuyvesant không còn những thái độ vô trật tự nữa.
Không còn mách thầy chuyện xô đẩy nhau nữa. Không còn chuyện ném bánh mì kẹp nữa. Đâu còn lý do gì khiến tôi không dạy nghiêm túc.
Nếu anh không dạy tốt nổi thì anh sẽ đánh mất lòng tin kính trọng của chúng. Dạy chỉ để mà dạy là một sự nhục mạ. Chúng biết tỏng nếu anh chỉ tán hươu tán vượn cho hết giờ.
Ở nhà hát Broadway, khán giả luôn lịch sự vỗ tay hoan hô diễn viên. Họ bỏ nhiều tiền mua vé mà. Họ túm tụm ở cửa sân khấu xin chữ ký. Các thầy cô các trường trung học công lập trình diễn năm lần trong ngày. Khán giả của họ biến mất khi chuông reo và chỉ xin chữ ký vào quyển niên giám tại lễ trao bằng tốt nghiệp.
Anh có thể lừa phỉnh một số học sinh trong một lúc nào đấy, nhưng chúng biết anh lừa phỉnh và anh cũng biết rằng chúng biết. Chúng sẽ buộc anh phải nhìn nhận sự thật. Nếu anh mâu thuẫn thì chúng sẽ kêu: Thưa thầy, tuần trước thầy đâu có nói thế. Anh đối diện với bao năm kinh nghiệm và chân lý tập thể của chúng, nếu anh cứ khăng khăng ẩn mình sau tấm mặt nạ của người thầy thì anh sẽ không khuất phục nổi chúng. Cho dù chúng tự dối lòng và dối cả thế giới thì chúng vẫn chờ đợi ở người thầy lòng chân thật.
Ở trường Stuyvesant, nếu không biết trả lời cho thỏa đáng thì tôi quyết định nhìn nhận: Thầy không biết, các em ạ. Không, thầy chưa hề đọc Beda đáng kính. Thầy chỉ có một khái niệm mơ hồ về thuyết tiên nghiệm thôi. John Donne và Gerad Manley Hopkins có thể khó tiêu hóa đấy. Thầy không rành quyển Louisiana Purchase . Thầy chỉ liếc qua Schopenhauer thôi, còn hễ đọc Kant là thầy liền buồn ngủ. Thôi, đừng có hỏi thầy về toán nữa. Trước kia thầy biết condign (đáng đời) nghĩa là gì, bây giờ quên mất rồi. Nhưng thầy rất rành nghĩa của từ usufruct (quyền hoa lợi). Xin lỗi, thầy không đoc hết nổi The Faerie Queen (Chúa tiên). Thầy sẽ thử lần nữa một dịp nào đó, hiện giờ thầy phải giải quyết xong các tác giả duy tâm đã.
Tôi sẽ không viện cớ mình dốt nát. Tôi sẽ không trốn tránh sau những lỗ hổng về kiến thức của mình. Tôi sẽ lập một chương trình để tự bồi dưỡng kiến thức, khiến mình thành một thầy giáo tốt hơn: có kỷ luật, trọng truyền thống, uyên bác, tháo vát, sẵn có giải đáp. Tôi sẽ đào sâu lịch sử, nghệ thuật, triết, khảo cổ. Tôi sẽ lướt nhanh vẻ huy hoàng của tiếng Anh và văn học từ thời Anglo-Saxon và Jute tới thời Norman [132] , thời nữ hoàng Elizabeth, thời tân cổ điển, thời lãng mạn, thời nữ hoàng Victoria, thời vua Edward, các nhà thơ thời chiến, các nhà theo trường phái cấu trúc, trường phái hiện đại và hậu hiện đại. Tôi sẽ chọn một ý tưởng nào đấy rồi lần theo dấu vết lịch sử của nó từ một cái hang ở Pháp [133] tới căn phòng ở Philadelphia, nơi Franklin và các đồng sự đã ra sức soạn nên bản Hiến pháp của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi sẽ khoe khoang đôi chút, chắc thế, và có thể bị chế giễu đấy, nhưng ai lại nỡ ganh tị với một ông thầy đồng lương chết đói chỉ vì một khoảnh khắc ông muốn chứng minh rằng ít học nguy hiểm nhường nào?
Đám học trò không ngừng tìm cách kéo tôi đi chệch lối dạy tiếng Anh truyền thống, nhưng tôi biết tẩy của chúng. Tôi vẫn kể chúng nghe chuyện này chuyện nọ, nhưng đã biết cách liên hệ chúng với những nhân vật như bà vợ của Bath, Tom Sawyer, Holden Caulfield, Romeo và kẻ tái sinh của chàng trong truyện West Side Story . Người ta luôn đòi hỏi giáo viên tiếng Anh phải liên hệ thật thích đáng mà.
Tôi dần tìm ra được cách ăn nói và cách dạy của mình. Tôi đã học được cách thoải mái trong lớp. Chủ nhiệm khoa mới Bill Ince, giống như Roger Goodman trước đây, để tôi hoàn toàn tự do thử những sáng kiến về sáng tác và văn học, tạo một không khí riêng thoải mái trong lớp, tha hồ làm những gì tôi thích, thoát mọi gò bó quan liêu. Học trò của tôi cũng đủ chín chắn và rộng lượng nên tôi được thoải mái tìm cho mình một phong cách dạy riêng mà không cần dùng đến mặt nạ hay bút đỏ.
Có hai đề tài căn bản luôn thu hút được thiếu niên Mỹ: tình dục và món ăn. Anh phải rất thận trọng khi nói về tình dục. Nhỡ đến tai phụ huynh thì anh sẽ bị gọi lên giải thích tại sao lại cho phép học sinh đọc chuyện về tình dục. Anh bảo rằng đây là đọc theo thẩm mỹ và tinh thần của tiểu thuyết chứ không phải sinh vật học. Nhưng như thế không đủ để bào chữa.
Từ dưới cuối lớp Kenny DiFalco hỏi tôi có thích kẹo hạnh nhân không. Nó giơ cao thứ gì đó màu trắng và bảo rằng nó tự làm. Tôi trả lời theo đúng cung cách ông thầy rằng ăn uống trong lớp là trái nội quy, với lại kẹo hạnh nhân là gì mới được chứ. Thầy thử đi rồi khắc biết nó nói. Ngon thật. Cả lớp đua nhau xin, nhưng Kenny bảo hết rồi. Mai nó sẽ mang tới ba mươi sáu cái, tất nhiên là nó tự làm. Rồi Tommy Esposito nói sẽ mang tới vài ba món từ quán ăn của bố nó. Món ăn còn thừa bỏ lại nhưng nó bảo đảm ngon và nóng sốt. Thế là cả đám hùa theo. Một nữ sinh Đại Hàn nói sẽ mang tới một món bà mẹ làm, món kim chi, là thứ cải muối cay xè lưỡi luôn. Kenny nói nếu có nhiều món ăn như thế thì ngày mai mình chẳng nên vào lớp mà gặp nhau ở quảng trường Stuyvesant ngay sát bên rồi bày hết lên bãi cỏ. Nó bảo cả lớp nhớ mang theo dao nĩa nhựa và khăn ăn. Tommy nói không được, nó không đời nào ăn món thịt băm viên của bố nó bằng dao nĩa nhựa. Nó sẵn sàng mang tới ba mươi sáu cái nĩa tử tế, dùng để ăn những món khác cũng được luôn. Nó cũng đề nghị thầy McCourt được miễn, khỏi phải mang đồ ăn tới. Vì chỉ lo dạy chúng cũng đủ mệt rồi, nói gì tới nuôi chúng.
Hôm sau người ta dừng bước trong công viên xem thầy trò chúng tôi làm gì. Một ông bác sĩ ở nhà thương Beth Israel nói chưa bao giờ thấy nhiều món đến thế. Ông nếm mấy món được mời rồi tròn mắt khen lấy khen để, tới món kim chi thì ông phải xin một chút nước lạnh để "chữa cháy" vòm miệng.
Chúng tôi bày món ăn trên các băng ghế thay vì trên bãi cỏ. Có món Do Thái (kreplach, matzos, cá hầm), món Ý (lasagna, thịt băm viên của Tommy, ravioli, cơm risotto), món Tàu, Đại Hàn, cả một đĩa khổng lồ thịt bò, thịt bê, khoai tây và hành cho ba mươi sáu người. Một chiếc xe cảnh sát tạt qua. Họ hỏi chúng tôi đang làm gì. Không được tổ chức hội chợ nếu không có giấy phép của thành phố. Tôi giải thích rằng đây là một buổi học về từ vựng và họ hãy nhìn xem học trò của tôi đang học những gì. Một viên cảnh sát bảo họ chưa từng được học từ vựng kiểu này trong trường Dòng, món nào trông cũng ngon lành cả, tôi mời họ xuống xe nếm thử cho biết. Khi ông bác sĩ bệnh viện Beth Israel bảo phải cẩn thận món kim chi đấy thì họ đáp cứ đưa đây, ở Việt Nam và Thái Lan chẳng còn món nào cay họ chưa từng thử. Họ đưa thìa kim chi vào miệng rồi kêu trời kêu đất xin nước lạnh. Trước khi lái xe đi, họ hỏi chúng tôi có định sẽ học từ vựng kiểu này thường xuyên không.
Mấy người lang thang không nhà không cửa sán lại chỗ chúng tôi, chúng tôi mời họ đôi ba món còn lại. Một người nhổ ngay miếng kẹo hạnh nhân [134] , nói: Cái c... gì thế này? Ông tuy không nhà không cửa thật, nhưng đừng chơi đểu ông chứ.
Tôi đứng lên một băng ghế tuyên bố về ý định mới của tôi. Tôi phải nói to để át tiếng học trò huyên thuyên, tiếng làu bàu cằn nhằn của mấy người không nhà không cửa, tiếng bàn tán của những kẻ qua đường tò mò, tiếng còi xe inh ỏi trên Second Avenue.
Nghe đây. Các em có nghe không nào? Thầy muốn ngày mai các em mang đến lớp một quyển sách dạy nấu ăn. Phải. Một quyển sách dạy nấu ăn. Sao? Em không có sách dạy nấu ăn à? Chà, vậy thì thầy sẽ phải sắp xếp để đến thăm cái gia đình không có sách dạy nấu ăn này thôi. Cả lớp sẽ góp tiền mua sách cho em. Đừng quên ngày mai mang theo sách dạy nấu ăn đấy.
Thưa thầy McCourt, tại sao chúng em phải mang theo sách dạy nấu ăn ạ?
Thầy chưa biết tại sao. Có thể ngày mai chúng ta sẽ rõ. Hiện giờ thầy mới mường tượng đôi nét thôi.
Thưa thầy McCourt, xin thầy đừng giận, nhưng đôi khi thầy thật kỳ quặc.
Học trò mang sách dạy nấu ăn tới. Chúng hỏi: Cái này liên quan tn đến chuyện học sáng tác ạ?
Rồi các em sẽ thấy. Các em cứ mở bất kỳ trang nào cũgn được. Nếu các em đã đọc hết rồi thì mở món mình thích nhất. David, em đọc đi.
Sao ạ?
Đọc món của em ấy.
Đọc to ạ? Trước cả lớp ạ?
Phải. Mạnh dạn lên, David. Có phải sách khiêu dâm đâu. Chúng ta đâu ngồi đây cả ngày được. Có hàng chục món ta phải đoc.
Nhưng thưa thầy McCourt, em chưa hề đọc cách nấu ăn. Em chưa hề đọc sách nấu ăn. Thậm chí em chưa từng luộc trứng nữa cơ.
Được thôi, David. Hôm nay vòm miệng của em sẽ hồi sinh. Hôm nay vốn từ vựng của em sẽ giàu thêm. Hôm nay em sẽ thành một gourmet.
Một bàn tay giơ lên: Gourmet là gì ạ?
Một bàn tay khác: Gourmet là người biết thưởng thức món ăn ngon, rượu ngon và nói chung mọi của ngon vật lạ trên đời.
Cả lớp ồ lên nhìn James với nụ cười thán phục, vì nó là người duy nhất trong lớp không ăn gì khác món hotdog - bánh mì kẹp dồi - và khoai tây rán.
David đọc cách nấu món coq au vin - gà nấu rượu vang, giọng tẻ nhạt, ngắc ngứ. Đọc xong, phát hiện ra có nhiều thứ chưa từng nghe nói tới thì nó có vẻ thích thú chuyện nấu ăn hơn.
David, thầy muốn em và cả lớp ghi nhớ ngày, giờ và sự kiện em đã đọc trong phòng số 205 trường Trung học Stuyvesant cho các bạn cùng lớp về cách nấu món ăn, món đầu tiên em đọc trong đời. Chỉ có Chúa mới biết việc này sẽ đưa em tới đâu. Thầy muốn tất cả các em ghi nhớ rằng có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người một lớp học sáng tác đã ngồi với nhau và đọc cách nấu ăn. David, hẳn em nhận thấy thiếu một tràng pháo tay nồng nhiệt. Đó là vì em đọc cách nấu ăn mà không khác đọ một trang niên giám điện thoại của New York. Nhưng đừng thất vọng. Em bước vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mà, lần sau chắc chắn em sẽ đọc nó với tất cả sinh động. Ai nữa nào?
Một rừng cánh tay giơ lên. Tôi gọi Brian. Tôi biết ngay mình sai lầm và sẽ phải nghe những lời chướng tai. Nó cũng là một thằng nhóc khó ưa, giống thằng Andrew-ngồi-nghiêng-ghế, nhưng là thầy giáo tôi xem đó là chuyện vặt vãnh và đủ chín chắn để sẵn sàng đặt cái tôi của mình qua một bên.
Nào, Brian.
Nó quay nhìn Penny ngồi ghế bên cạnh. Brian là đứa đồng tính luyến ái, cô bé kia cũng thế. Chúng không hề giấu giếm. Chúng công khai chuyện này. Thằng Brian thấp mà béo, còn Penny cao mà gầy nhom. Cô bé hất đầu như muốn hỏi: Thầy định làm nổi đình nổi đám cái chuyện nấu nướng này thật sao, thầy? Tôi nào có định làm nổi đình nổi đám gì đâu. Sao hai đứa nó lại hùa nhau chống đối tôi? Tôi biết chúng không ưa tôi, sao tôi không chấp nhận cho yên chuyện, nhỉ? Làm sao đứa nào cũng mến anh được trong cả trăm đứa học trò mỗi năm. Có những giáo viên như Phil Fisher, họ chẳng cần biết mình được học trò thương hay ghét. Trước tình huống này có lẽ ông ta sẽ bảo: Lũ đần độn kia ơi, ta dạy tính vi phân cho bọn bay. Nếu bay không chú ý, không chịu học thì bay sẽ thi rớt và nếu thi rớt thì cuối cùng bay sẽ dạy tính toán cho những kẻ bị tâm thần phân liệt thôi. Nếu cả lớp ghét ông ta thì ông ta cũng sẽ ghét lại và nhồi nhét phép tính vi phân vào đầu chúng đến nỗi chúng ngủ mà vẫn trả lời vanh vách được.
Ừ, Brian?
Chà, thằng Brian này “ngầu” thật đấy. Nó mỉm cười lần nữa với Penny. Nó câu giờ. Nó định biến tôi thành xâu thịt nướng.
Em không biết, thưa thầy… ờ… McCourt; em có nên về nhà… ờ… thưa với bố mẹ rằng chúng em ngồi trong lớp ở trường Trung học Stuyvesant đọc… ờ… sách dạy nấu ăn không ạ? Các lớp khác đọc… ờ… văn học Mỹ, còn chúng em phải ngồi đây đọc cách nấu ăn như thể chúng em là lũ… ờ… ngớ ngẩn.
Tôi phát cáu. Tôi muốn nói một câu thật độc địa cho rồi đời thằng Brian này nhưng James- gourmet đã đỡ lời. Em được phép nói không ạ? Nó nhìn Brian: Bà chỉ biết ngồi đó chỉ trích thôi. Bạn hãy cho biết có phải bạn bị dính chặt vào ghế không?
Dĩ nhiên tớ đâu có dính chặt vào ghế.
Bạn có biết văn phòng ở đâu không?
Biết.
Ờ, vậy nếu bạn không thích việc cả lớp làm, sao bạn không đứng quách dậy, tới văn phòng xin đổi lớp? Không ai giữ bạn ở đây cả. Phải thế không ạ, thưa thầy McCourt? Bạn đổi sang lớp khác đi, James nói. Bạn hãy đi khỏi lớp này đi. Đi mà đọc Moby Dick [135] nếu bạn kham nổi.
Susan Gilman không bao giờ chịu giơ tay. Nó e trễ hết mọi chuyện. Bao lần bảo rằng gọi ồi ồi như thế là không đúng phép tắc đều chẳng ăn thua. Nó cứ lờ đi. Đã sao? Nó muốn tôi biết nó đã khám phá ra mưu kế của tôi. Em biết tại sao thầy lại muốn chúng em đọc to cách nấu ăn như thế rồi.
Em biết à?
Dạ, vì trên trang giấy chúng trông như bài thơ và có một số cách nấu ăn nghe cứ như thơ thật. Em nghĩ còn hay hơn thơ vì ta có thể nếm được hương vị của chúng. Và mấy cách nấu món ăn Ý thì, wow , thật là âm nhạc chính cống.
Maureen McSherry phụ họa theo: Điều em thích ở cách nấu ăn là có thế nào thì ta cứ việc đọc như thế, không bị những ông thầy Anh văn lắm chuyện vặn tới vặn lui về ý nghĩa sâu xa.
Được thôi, Maureen, rồi chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Vấn đề gì ạ?
Những ông thầy Anh văn lắm chuyện vặn tới vặn lui về ý nghĩa sâu xa ấy mà.
Michel Carr nói có mang theo ống sáo, nếu ai thích ngâm nga hoặc hát cách nấu ăn thì nó sẽ thổi sáo đệm cho. Brian tỏ vẻ hoài nghi. Nó nói: Bồ giỡn chơi? Thổi sáo đệm cho cách nấu ăn à? Lớp mình hóa điên rồi chắc? Susan bảo Brian thôi đi rồi xung phong đọc cách làm món lasagna với sự phụ họa của Michael. Trong lúc Susan đọc cách làm thịt băm viên kiểu Thụy Điển thì Michael thổi bài “Hava Hegila” chẳng liên quan gì đến thịt băm viên kiểu Thụy Điển. Cả lớp mới đầu cười khúc khích, sau chăm chú nghe, rồi vỗ tay hoan hô. James nói hai đứa nên ra đường trình diễn bài này, lấy tên là ban nhạc Viên thịt hay Cách nấu ăn và nó xung phong làm trung gian môi giới cho, vì đằng nào nó cũng sẽ học ngành kế toán. Khi Maureen đọc cách làm bánh mì xô đa kiểu Ireland thì Michael chơi bài “The Irish Washerwoman” – “Cô thợ giặt Ireland”, còn cả lớp gõ bàn và búng ngón tay theo nhịp.
Lớp học thật sinh động. Chúng bảo nhau rằng sáng kiến đọc cách nấu ăn, ngâm nga cách nấu ăn, ca hát cách nấu ăn có Michael phụ họa sáo cho thích hợp với các cách nấu món Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Do Thái, Ireland, Tàu đúng là hết sẩy. Ngộ nhỡ có người ngoài vào lớp mình lúc này thì sao nhỉ? Chẳng hạn những nhà giáo Nhật Bản đến tham quan trường, họ sẽ đứng ở cuối lớp quan sát các thầy cô dạy học. Ông hiệu trưởng sẽ giải thích với họ như thế nào về màn hòa nhạc thịt băm viên giữa Susan và Michael.
Brian làm cả lớp cụt hứng. Nó xin ra ngoài để đến văn phòng hỏi đổi lớp được không, vì ở lớp này chẳng học được gì cả. Thưa thầy McCourt, em nghĩ rằng nếu những người dân đóng thuế biết được chúng ta phí phạm thời gian vào chuyện ca hát cách nấu ăn thì thầy sẽ mất việc ngay. Không phải em chê trách cá nhân thầy đâu.
Nó quay qua Penny tìm hậu thuẫn nhưng con bé đang tập đọc món Paella [136] từ quyển dạy nấu ăn của một em khác. Con bé lắc đầu nhìn Brian, rồi khi đọc xong nó bảo nếu Brian đổi lớp thì đúng là điên. Điên. Mẹ Penny biết cách hầm món thịt cừu ngon tuyệt trần, ngày mai nó mang tới, nó muốn cũng sẽ được Michael đệm sáo. À, nó có thể dẫn mẹ nó tới lớp được không. Mẹ nó luôn ca hát khi hầm thịt cừu trong bếp. Thành ra nếu Penny đọc cách nấu, mẹ nó hát còn Michael thổi sáo thì hay lắm chứ. Được thế thì tuyệt!
Brian đỏ mặt nói nó chơi kèn ôbô và rất thích chơi với Michael khi Penny đọc cách hầm thịt cừu vào ngày mai. Con bé đặt tay lên cánh tay Brian nói: Ừ, mai ta sẽ làm.
Trên chuyến tàu A tới Brooklyn tôi băn khoăn về chiều hướng phát triển của lớp này, nhất là vì mấy lớp kia hỏi tôi sao chúng không được ra công viên với bao thứ món ăn và sao chúng không được đọc cách nấu ăn có nhạc phụ họa? Tôi phải biện minh thế nào với các cấp trên là những người theo dõi chương trình dạy?
Thầy McCourt, lớp này làm chuyện quỷ quái gì vậy? Lạy Chúa, ông cho học trò đọc và ca hát sách dạy nấu ăn à? Thầy bỡn chúng tôi ư? Thầy vui lòng giải thích việc này liên quan gì đến dạy Anh văn? Bài giảng của thầy về văn học đâu, văn học Anh Mỹ và các nước khác? Thầy biết rất rõ rằng những học trò này được chuẩn bị để vào những trường đại học nổi tiếng nhất nước và phải chăng đó là cách thầy chuẩn bị cho chúng ra đời? Bằng cách đọc sách dạy nấu ăn ư? Bằng cách ngâm nga cách nấu ăn ư? Bằng cách ca hát cách nấu ăn ư? Thế còn biên đạo múa cho món thịt hầm kiểu Ireland hay món trứng chiên cổ điển kiểu phim cao bồi, tất nhiên với âm nhạc thích hợp, thì sao? Sao không bỏ quách môn Anh văn và chuẩn bị thi đại học luôn thể, biến phòng ốc thành nhà bếp biểu diễn các bài học về nấu ăn? Sao chúng ta không lập một ban hợp ca cách nấu ăn của trường Trung học Stuyvesant đi trình diễn khắp thành phố này và khắp thế giới đem lợi ích cho lũ học trò đã phí phạm thời giờ trong lớp của thầy, hở thầy McCourt, và vì thế không vào được đại học nên giờ đây tung hứng bột nhào ở những quán pizza hay rửa chén ở những cửa hàng ăn Pháp rẻ tiền ở khu phố trên kia? Sẽ như vậy thôi. Lũ trẻ này có thể ca hát cách làm ba tê này ba tê nọ nhưng sẽ không bao giờ vào nổi các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ.
Trễ quá rồi. Ngày mai tôi không thể vào lớp bảo chúng rằng thôi hãy quên mấy quyển dạy nấu ăn đi, chúng ta không đọc nữa. Michael, cất sáo đi. Penny, dẹp món của mẹ em đi. Brian, rất tiếc không để em thổi kèn ôbô được.
Nhưng mà trừ chuyện Brian phản đối sơ sơ thì chẳng phải ba ngày qua cả lớp đã nhất trí tham gia sao? Nhất là không phải chính anh cũng thích thú đó sao, hở anh giáo?
Hay anh chỉ là một gã điên rồ quá mức, một lần nữa bị học trò dụ dỗ bỏ cả chuyện giảng dạy Mark Twain và F.Scott Fitzgerald ở các lớp dưới cũng như Wordsworth và Coleridge ở các lớp trên? Không phải nhiệm vụ của anh là đòi hỏi chúng phải ngày ngày đem sách tới trường để miệt mài đọc và tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa trong đó ư?
Đúng thế, đúng thế, nhưng không phải bây giờ.
Phải chăng bọn nhóc đã nhìn thấu tim đen của anh? Nên chúng đã dùng cách nấu ăn và âm nhạc để xỏ mũi anh? Lại mea culpa lần nữa. Hay thực ra chính anh mới là kẻ lừa bịp? Anh xỏ mũi chúng theo đúng cái cách chúng xỏ mũi anh? Anh có thể hình dung được các đồng nghiệp nói gì trong căng tin: Tay Ireland này đã lừa gạt hết thảy các lớp hắn dạy. Học trò của hắn - này, ông không tin nổi đâu nhé - chỉ toàn đọc sách dạy nấu ăn thôi. Thật đấy. Làm gì có Milton với Swift, Hawthorne với Melville. Lạy Chúa tôi, chúng đọc quyển Niềm vui nấu nướng, đọc Fanny Farmer, đọc Betty Crocker và ca hát cách nấu nướng. Chúa ạ! Đi ngoài hành lang thì anh đừng hòng nghe được tiếng mình nói trong tiếng kèn ôbô, tiếng sáo và tiếng ngân nga cách nấu nướng vang ra từ cái lớp chết tiệt của hắn. Chẳng biết hắn muốn làm cái trò quái quỷ gì?
Có lẽ anh làm cách nào để kém vui một chút cũng được mà. Anh vốn luôn lắm sáng kiến để tự làm khổ mình thì dễ dầu gì tài mọn này bị mai một được. Anh có nên lại thử dạy với biểu đồ hay cho học trò đào sâu những ý tưởng thâm thúy? Anh có thể bắt đám học trò choai choai khốn khổ của anh đọc Beowulf và Sử biên niên được chứ. Thế còn cái chương trình vĩ đại để từ bồi dưỡng kiến thức của anh thì sao, hỡi con người quảng bác? Hãy nghiệm về cuộc sống của anh bên ngoài ngôi trường đi. Anh thật là lông bông lang bang. Anh sống như kẻ bên lề. Không còn vợ, mà đứa con nhỏ thì họa hoằn anh mới gặp. Không viễn tượng, không kế hoạch, không mục đích. Chui vào mồ quách cho rồi, cha nội ơi. Anh hãy biến đi cho khuất mắt, đừng để lại gì hết ngoài dăm ba kỷ niệm về một kẻ đã biến lớp học thành sân chơi, thành buổi tập hát nhạc Rap và một nơi trị liệu cho cả một đám đông.
Tại sao không? Rõ vớ vẩn. Trường học để làm gì mới được chứ? Xin hỏi anh: Nhiệm vụ của ông thầy là cung cấp bia đỡ đạn cho những khu liên hợp công nghiệp quân sự ư? Nhiệm vụ của chúng tôi là đóng thùng cho băng chuyền của các hãng xưởng ư?
Ồ, gì mà long trọng thế, tôi bỏ quên bục thuyết giảng của mình ở đâu mất rồi?
Hãy nhìn tôi này: một gã tối dạ cầu bơ cầu bất chỉ đáng vứt đi, mãi đến tuổi tứ tuần mới biết được những điều mà học trò của mình rành rẽ ngay từ tuổi thanh xuân. Xin đừng gào lên nữa. Đừng hát lên những bài đưa đám tôi. Đừng khóc trước vành móng ngựa.
Tôi phải ra hầu tòa vì bị kết tội sống hai mặt. Bằng cớ: trong lớp học tôi chạy theo vui thích riêng, không nghiêm chỉnh dạy dỗ học trò, còn đêm đêm tôi trằn trọc trên chiếc giường đơn tự hỏi tất cả những điều ấy có nghĩa gì? Xin Chúa cứu giúp chúng con.
Nhân tiện tôi phải tự khen mình chưa hề đánh mất khả năng tự vấn lương tâm, chưa hề mất đi cái tài thấy được mình thiếu sót và yếu kém. Sao lại sợ người khác phê bình khi chính anh là người xông vào chỉ trích người khác trước tiên? Nếu thi tự dè bỉu thì sẽ thắng ngay từ trước khi nổ tiếng súng làm hiệu. Các bạn tha hồ thu tiền đặt cược.
Sợ ư? Đúng thế đấy, Francis ạ. Thằng nhóc ở khu nhà ổ chuột vẫn sợ mất việc. Sợ bị tống ra ngoài bóng đêm và bị làm điếc tai bởi tiếng khóc than và tiếng nghiến răng. Nhà giáo gan dạ, giàu tưởng tượng khuyến khích đám học trò choai choai ca hát cách nấu nướng song không biết bao giờ thì máy chém sẽ rơi phập xuống, khi những vị khách Nhật lắc đầu quầy quậy báo cáo với Washington về anh. Các vị khách Nhật này sẽ phát hiện ngay trong lớp tôi những dấu hiệu về sự suy đồi của Mỹ và tự hỏi sao họ lại có thể thua trận trong Thế chiến thứ hai được.
Nếu máy chém rơi phập xuống thì sao?
Thây kệ máy chém.
Ngày thứ Sáu lớp chúng tôi đầy ắp chương trình. Bốn cậu gảy ghi ta; Brian, được thuyết phục, tham gia với chiếc kèn ôbô, Michael thổi sáo còn Zach gõ những đề tài nấu nướng trên những chiếc trống bongo nhỏ kẹp giữa hai đầu gối của nó và hai cậu thổi acmônica. Susan Gilman đứng sẵn sàng độc chiếm luôn tiết học để đọc một cách nấu ăn gồm nhiều cột sách với bốn mươi bảy công đoạn, đòi hỏi nhiều chất phụ gia hiếm thấy trong bếp người Mỹ bình thường. Cô bé bảo đó quả là một bài thơ. Michael thích đến nỗi xung phong sáng tác một ca khúc cho nhạc cụ hơi bằng gỗ, đàn dây, trống bongo và giọng của Susan. Pam sẽ trình bày cách nấu món vịt Bắc Kinh bằng tiếng Quảng Đông, còn anh nó ở lớp khác sẽ chơi một nhạc cụ lạ chưa ai trong lớp từng thấy.
Tôi thử đưa vào chút ít bài học. Tôi bảo: Nếu là nhà văn biết quan sát thì các em sẽ thấy ý nghĩa của sự kiện này. Lần đầu tiên trong lịch sử, một món ăn Tàu được trình bày có nhạc phụ họa. Các em cần phải tỉnh táo trước những giây phút lịch sử. Nhà văn luôn luôn hỏi: Chuyện gì đang xảy ra? Luôn luôn. Các em có thể đem hết tiền ra đánh cuộc rằng không ở đâu trong lịch sử, dù lịch sử Trung Quốc hay đâu khác, các em có thể tìm thấy một giây phút như thế này.
Tôi lo việc ghi chép sử. Tôi viết lên bảng những điểm trong chương trình. Pam sẽ mở đầu với món vịt, rồi Leslie với món bánh xốp Anh, Larry với món trứng Benedict, Vicky với món sườn heo nhồi.
Đàn ghi ta, kèn ôbô, acmônica, trống bongo chơi lấy đà. Ai lát nữa đây sẽ đọc thì tập dượt bằng mắt.
Cô bé Pam nhút nhát gật đầu ra hiệu cho anh nó và món vịt Bắc Kinh bắt đầu. Pam hát giọng cao vút như than van còn anh nó bật dây đàn. Cách nấu món này dài, các nhạc sĩ kia lần lượt nhập cuộc, rồi khi Pam kết thúc thì các nhạc cụ cùng kích thích Pam hát thật cao và dồn dập khiến hiệu phó Murray Kahn từ văn phòng hối hả chạy tới, ngỡ có chuyện không hay. Ông ghé mắt qua cửa sổ xem trình diễn, rồi không cưỡng nổi, ông liền vào lớp, trố mắt nhìn, cho tới khi giọng Pam nhỏ dần, nhỏ dần, các nhạc cụ cũng lặng đi và thế là xong món vịt.
Cuối cùng cả lớp nhận xét rằng lẽ ra Pam nên trình diễn sau chót mới đúng. Chúng bảo rằng món vịt của cô bé và âm nhạc Trung Hoa quá ấn tượng khiến những thứ khác nghe yếu xìu. Ngoài ra chúng thấy rằng lời và nhạc thường không hợp nhau. Dùng trống bongo phụ họa bánh xốp Anh là hỏng. Ta cần thứ mảnh dẻ và nhạy cảm như đàn violin hay clavicô, và chúng thắc mắc không biết có ai liên hệ trống bongo với món trứng Benedict thật tuyệt vời, chúng phát hiện ra rằng trống bongo phối hợp với acmônica cho món sườn heo nhồi cũng rất hay. Món sườn heo đòi phải có tiếng kèn acmônica và thật lạ lùng khi ta hình dung một món ăn và một nhạc cụ thích hợp. Chà, kinh nghiệm này khiến ta phải thay đổi cách suy nghĩ. Chúng bảo rằng học trò các lớp khác cũng mong được đọc cách nấu ăn thay vì đọc huân tước Alfred Tennyson và Thomas Carlyle. Các giáo viên tiếng Anh khác toàn áp dụng lối dạy nghiêm túc như: phân tích thơ, cho bài nghiên cứu tập làm quen với cách dùng chú thích cuối trang và tài liệu tham khảo.
Tôi băn khoăn khi nghĩ đến các giáo viên Anh văn này và những bài học nghiêm túc của họ. Họ dạy theo giáo án, chuẩn bị cho học trò sau này học lên cao và bước vào thế giới bao la. Chúng ta đến đây dạy học trò chứ không phải để tìm vui cho chính mình đâu, anh giáo McCourt ơi.
Đây là trường Trung học Stuyvesant viên ngọc của nền giáo viên New York. Học trò trường này thông minh nhất trong những đứa thông minh. Một năm nữa chúng sẽ ngồi dưới chân những giáo sư xuất sắc của các đại học danh tiếng nhất nước. Chúng sẽ ghi ghi chép chép những thứ cần phải tra cứu. Không còn những trò hề vớ vẩn đọc sách dạy làm bếp và ra công viên học nữa. Sẽ phải chọn hướng dứt khoát, phải tập trung học hành nghiêm chỉnh, bất kể chuyện gì đã xảy đến với ông thầy chúng mình học ngày xưa ở Stuyvesant. Các bạn biết ông thầy này mà.