Chương 15
Vào một ngày nhà trường tiếp phụ huynh thì học trò được cho về từ trưa; từ một giờ đến ba giờ trưa phụ huynh học sinh kéo đến, chiều tối thì từ bảy đến chín giờ lại một lượt nữa. Cuối ngày, thầy cô gặp nhau chỗ đồng hồ bấm giờ, ai nấu phờ phạc vì phải tiếp cả trăm phụ huynh. Trường này có ba nghìn học sinh, nghĩa là có tới sáu nghìn ông bố bà mẹ, nhưng đây là New York, nơi mà ly dị là môn thể thao thịnh hành [139] thành ra đám trẻ phải phân biệt rõ ai là ai, chuyện gì, bao giờ thì chuyện ấy xảy ra. Ba nghìn đứa trẻ có thể có tới hàng chục nghìn cha mẹ hay dì dượng; họ tin tưởng chắc chắn rằng con trai con gái của họ là những đứa thông minh xuất chúng trong đám thông minh. Đây là trường Trung học Stuyvesant, nơi mà ngay từ giây phút đầu tiên anh bước chân vào đấy thì cửa các trường đai học và cao đẳng nổi tiếng nhất nước đã mở rộng đón chào, nếu không thành công thì đó là lỗi tại anh. Các ông bố, bà mẹ rất “ngầu”, họ tin tưởng, vui vẻ, tự tin khi không phải lo lắng, tuyệt vọng hay hoài nghi gì hết. Kỳ vọng nhiều nên họ dứt khoát không hài lòng nếu không thấy được con cái họ thành công rõ rệt. Họ tới trường đông đến nỗi thầy cô nào cũng cần một học sinh giữ trật tự, hướng dẫn dòng người. Họ khao khát được biết về thứ hạng của con họ trong lớp. Tôi có nên nói rằng Stanley trên trung bình không? Vì bố mẹ em cho rằng em biếng học và giao du với đám bạn xấu. Họ nghe đồn này nọ về quảng trường Stuyvesant, về ma túy, thầy biết đấy, bấy nhiêu đó đủ làm chúng tôi mất ngủ rồi. Nó có làm bài không, thưa thầy? Thầy có thấy nó thay đổi gì không trong cung cách cư xử và tác phong học tập?
Bố mẹ Stanley đang kiện cáo gay gắt xin ly dị, thảo nào nó học hành sút hẳn. Bà mẹ giữ căn hộ kiểu cổ điển sáu phòng, trên Upper West Side, trong khi ông bố chui rúc trong một căn buồng tồi tàn cuối khu Bronx. Họ đã thỏa thuận chia đôi Stanley, nó ở với mỗi người ba ngày rưỡi trong tuần. Stanley giỏi toán nhưng không thể hiểu nổi cách phân chia này. Nó đành lấy đó làm chuyện cười vậy. Nó biến hoàn cảnh éo le của mình thành một thứ phương trình đại số: nếu a bằng 3,5 và b bằng 3,5 thì Stanley là bao nhiêu? Thầy toán của nó, ông Winokur, cho nó 100 điểm vì đã nghĩ ra câu này. Maureen McSherry, cô bé giúp tôi giữ trật tự trong buổi tiếp phụ huynh học sinh tối hôm ấy, cho tôi biết bố mẹ đang xin ly dị của Stanley ngồi trong lớp đợi gặp tôi, Maureen còn nói thêm rằng có nửa tá cặp vợ chồng đang tranh chấp như thế không muốn ngồi cạnh nhau trong khi tôi nói về những đứa con thân yêu của họ.
Maureen phát cho họ số thứ tự như ta vẫn nhận được tại cửa hàng bánh ngọt và tim tôi chùng xuống vì thấy các ông bố bà mẹ kéo vào trong lớp chừng như không dứt. Vừa tiếp người này xong đã tới ngay người khác. Họ ngồi kín hết các hàng ghế. Có ba người ngồi trên bệ cửa sổ sau, thì thầm to nhỏ như thể học trò, và nửa tá đứng dọc bức tường cuối lớp. Ước gì tôi bảo được Maureen nói họ đừng vào nữa, nhưng tôi không thể làm thế được ở một trường như trường Stuyvesant nơi phụ huynh học sinh biết rõ quyền lợi của mình và họ không nề hà đấu khẩu để giành quyền ấy. Maureen thì thầm thầy nên cẩn thận, bà Rhonda, mẹ của Stanley đến kìa. Bà ấy sẽ xơi tái thầy cho mà xem.
Bà Rhonda sặc mùi thuốc lá. Bà ngồi cúi người gần tôi rồi bảo tôi chớ nên tin những lão bố chó đẻ của Stanley nói với tôi. Bà bảo bà Stanley phải chịu lão đê tiện ấy làm cha. Thế cháu Stanley dạo này học hành rá ao ạ, thưa thầy?
Ô, giỏi. Cháu viết văn khá lắm và rất được bạn bè yêu mến.
Thật là một phép lạ, nhất là khi cháu phải chịu bao điều khốn khổ với lão bố đốn mạt tối ngày chạy nhong theo gái. Thời gian cháu Stanley ở với tôi thì tôi cố hết sức làm tròn bổn phận của mình, nhưng cháu không tập trung nổi trong ba ngày rưỡi ấy vì cháu biết ba ngày rưỡi tiếp theo sẽ phải về cái xó bẩn thỉu ở Bronk. Thành ra bay giờ cháu hay ngủ đêm ở nhà chúng bạn. Đó là cháu nói với tôi như thế, nhưng tình cờ tôi biết được cháu có bạn gái mà bố mẹ con bé này lại quá thả lỏng con nên tôi lấy làm ngờ lắm.
Tôi rất tiếc không biết gì về chuyện này. Tôi chỉ là thầy giáo của cháu và tôi không thể nào tìm hiểu đời tư của một trăm bảy mươi lăm em trong một khóa học được.
Bà Rhonda nói oang oang, còn các phụ huynh khác ngồi nhấp nhổm không yên, mắt không ngớt liếc qua đảo lại. Maureen nhắc tôi phải canh giờ, chỉ nên tiếp mỗi người tối đa hai phút thôi, kể cả cha của Stanley, vì dĩ nhiên ông ta cũng đòi được ngần ấy thời gian. Ông ta nói: Chào thầy, tôi là Ben, bố của Stanley. Thầy ạ, tôi có nghe những gì mụ trị liệu kia nói. Ngay cả đến chó tôi cũng không đưa tới cho mụ ấy chữa trị nữa kìa. Ông ta lắc đầu cười. Nhưng thôi không nói tới chuyện ấy. Bây giờ tôi có vấn đề này với thằng cháu Stanley. Nó đã học tới trình độ này và tôi đã dành dụm tiền cho nó có thể theo học nhiều năm đại học, thế mà nay nó muốn bỏ hết tất cả. Thầy biết nó muốn làm gì không? Nó muốn tới một nhạc viện nào đấy ở New England chơi đàn ghi ta cổ điển. Theo thầy thì chơi đàn ghi ta cổ điển kiếm được bao nhiêu tiền? Tôi bảo nó… nhưng mà thầy McCord ạ, tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ của thầy.
Tên tôi là McCourt ạ.
Vâng. Tôi không muốn làm mất nhiều thì giờ của thầy. Nhưng tôi đã bảo cháu: Thế thì con phải bước qua xác bố thôi. Bố con tôi nhất trí với nhau ngay từ đầu rằng sau này cháu sẽ làm cố vấn thuế vụ. Dứt khoát là như thế. Ý tôi muốn nói là tôi kiếm tiền để làm gì chứ? Bản thân tôi là cố vấn thuế vụ, nếu thầy có gặp đôi chút khó khăn thì tôi sẽ hết lòng giúp. Không, thưa thầy. Không ghi ta ghi tiếc gì hết. Tôi bảo cháu cố học lấy bằng cố vấn thuế vụ đi, còn ghi ta chơi vào lúc rảnh rỗi thôi. Nó gục xuống gào khóc. Nó dọa sẽ về ở hẳn với mẹ nó, đó là điều tôi không mong muốn, ngay cả với một tên Quốc xã [140] . Thành ra tôi nghĩ có thể thầy khuyên cháu được chăng? Tôi biết cháu thích môn thầy dạy, thích chơi trò đọc cách nấu ăn và mọi thứ thầy làm ở đây.
Tôi rất muốn giúp cháu, nhưng tôi không phải là thầy giáo hướng dẫn. Tôi là thầy giáo Anh văn.
Thật à? Ấy, qua những điều Stanley kể thì thầy dạy đủ thứ, trừ môn tiếng Anh. Tôi không dám xúc phạm nhưng tôi thật không rõ nấu ăn liên quan gì tới Anh văn. Dẫu sao cũng xin cám ơn thầy. Cháu học được không ạ?
Cháu học giỏi.
Chuông reo. Maureen liền tuyên bố hết giờ chứ chẳng ngại ngùng gì hết, nhưng cô bé sẵn sàng ghi tên và số điện thoại những ai muốn đến vào buổi tiếp mười lăm phút ngày thường. Cô bé đưa chuyển một tờ giấy nhưng chẳng ai chịu ghi. Họ muốn gặp tôi ở đây và ngay bây giờ. Chúa ạ, họ đã mất công chờ cả nửa buổi tối trong khi những kẻ mất trí kia nói dai nhách về những đứa con đần độn của mình. Cha mẹ như thế thì con cái đần độn đâu có gì đáng ngạc nhiên. Những phụ huynh thất vọng vì không được tôi tiếp liền đi theo tôi dọc hành lang để hỏi xem Adam, Sergei, Juan, Naomi học hành ra sao? Trường khỉ gì mà không thể trò chuyện với thầy cô được lấy một phút, thế tôi đóng thuế để làm gì?
Chín giờ, các thầy cô ra bấm thẻ rồi rủ nhau lại quán Gas House ngay góc phố để giải khát. Chúng tôi ngồi ở một chiếc bàn tuốt phía trong, gọi loại bia trong vò. Vì nói liên tục nên bây giờ khô cả cổ. Lạy Chúa, thật là một buổi tối nhớ đời. Tôi kể cho R’lene Dahlberg, Connie Collier và Bill Tuohy rằng suốt bao nhiêu năm tôi dạy ở trường Stuyvesant chỉ có một bà duy nhất hỏi con trai bà có thích học không. Tôi bảo có. Cháu có vẻ thích học đấy. Bà cười đứng dậy cám ơn rồi ra về. Một người duy nhất trong bấy nhiêu năm.
Họ chỉ quan tâm đến thành công và tiền thôi, tiền, lúc nào cũng tiền, Connie nói. Họ đặt kỳ vọng vào con cái, còn chúng ta giống như những công nhân ở dây chuyền lắp ráp, nơi này gắn một bộ phận nhỏ, chỗ kia thêm một bộ phận nhỏ khác cho đến khi cho ra thứ thành phẩm hoạt động như các bậc cha mẹ và công ty mong đợi.
Một nhóm phụ huynh lạc bước vào quán Gas House. Một bà tiến lại phía tôi. Hay chưa kìa, bà nói. Thầy có thì giờ nốc bia ừng ực nhưng lại không dành được lấy một phút cho một người mẹ đã chờ cả nửa giờ để gặp thầy.
Tôi đáp rằng tôi rất tiếc.
Bà nói thôi được, rồi quay về với nhóm người kia ở bàn khác. Buổi tiếp phụ huynh tối hôm ấy khiến tôi phiền muộn nên đâm quá chén, sáng hôm sau không dậy nổi. Sao tối hôm qua tôi không bảo bà mẹ chết tiệt kia cút đi cho rảnh nợ?
Trong lớp tôi Bob Stein không bao giờ chịu ngồi vào bàn. Có thể tại nó to con nhưng tôi nghĩ chắc nó thấy thoải mái khi ngồi vắt vẻo trên bệ cửa sổ rộng rãi ở cuối phòng. Vừa yên chỗ xong là cu cậu cười vẫy tay. Em chào thầy McCourt. Hôm nay trời đẹp phải không ạ?
Suốt bốn mùa nó toàn mặc một chiếc áo sơ mi trắng hở cổ, cổ áo bé gập trên cổ chiếc áo khoác màu xám hai hàng cúc. Nó bảo với các bạn cùng lớp rằng áo khoác này trước kia vốn là của diễn viên Orson Welles đấy. Khi nào có dịp gặp Orson Welles thì ông ta và nó sẽ có chuyện để mà nói với nhau. Nếu không có chiếc áo khoác thì nó chẳng còn biết nói gì với Orson Welles, vì ý thích của nó khác hẳn với người nghệ sĩ này.
Nó mặc quần cụt, thật ra là quần dài cắt cụt ngang đầu gối. Không, quần thế này đâu có hợp với áo khoác, nghĩa là chẳng giống Orson Welles tí nào.
Nó mang tất xám dày cộm bẻ lùng thùng ngoài đôi giày lao động cao cổ màu vàng.
Nó không có cặp, sách vở, bút biếc gì. Nó đùa rằng đó là một phần tại tôi, vì có lần nào tôi hào hứng về Thoreau với câu châm ngôn của ông rằng ta phải giản dị, giản dị, giản dị, dứt mọi sở hữu.
Khi lớp phải làm bài tập hay bài thi nó hỏi tôi có thể cho nó mượn bút với vài tờ giấy được không.
Bob, đây là lớp tập viết văn. Thành ra em phải có một số dụng cụ nào chứ.
Nó bảo đảm với tôi rằng mọi chuyện sẽ đâu vào đấy mà và khuyên tôi chớ có lo. Từ trên bệ cửa sổ nó bảo rằng trên đầu tôi đã chớm hiện tuyết trắng rồi đấy và tôi nên tận hưởng những năm còn lại trong đời đi thôi.
Này, này, chớ có cười, nó bảo cả lớp.
Nhưng cả lớp đã lớn tiếng cười sặc sụa khiến tôi phải chờ để nghe nó nói tiếp. Nó bảo một năm nữa tôi sẽ nhớ lại giây phút này và tôi sẽ thắc mắc sao lại phung phí thì giờ và xúc cảm về chuyện nó thiếu giấy bút.
Tôi phải đóng vai một ông thầy nghiêm khắc. Bob này, nếu không làm bài thì em có thể sẽ trượt môn này đấy.
Thưa thầy McCourt, em không ngờ rằng thầy, người đã trải qua tuổi thơ khốn khổ và bao chuyện khác nữa lại bảo em như thế. Nhưng được thôi. Nếu trượt thì em sẽ học lại. Đâu vội gì. Một hay hai năm thì đã sao? Có thể với thầy thì một hai năm là nhiều lắm, còn em mới mười bảy tuổi mà. Thưa thầy McCourt, dù bị thầy đánh trượt thì em vẫn còn khối thì giờ.
Nó hỏi cả lớp ai giúp được nó giấy bút không. Có mười em sẵn sàng nhưng nó chọn em gần nhất để đỡ phải tuột xuống khỏi bệ cửa sổ. Nó nói thưa thầy McCourt, thầy thấy chưa? Các bạn tử tế biết bao. Chừng nào các bạn này còn xách theo những cái cặp dày cộm thì thầy và em chẳng bao giờ phải lo thiếu giấy bút.
Đồng ý, đồng ý, nhưng Bob này, tuần tới thi Gilgamesh [141] thì cái gì sẽ giúp đỡ em?
Thưa thầy, McCourt, đó là cái gì vậy ạ?
Có trong quyển văn học thế giới đấy, Bob.
À vâng. Em nhớ quyển đó rồi. Dày gớm. Em có ở nhà, bố em đang đọc phần Kinh thánh với những gì gì nữa. Thưa thầy bố em là giáo sĩ đạo Do Thái mà. Bố em rất vui vì thầy cho chúng em học quyển sách này với mọi đấng tiên tri và đủ thứ linh tinh khác, bố em bảo thầy phải là một nhà giáo tuyệt vời và sẽ đến gặp bố vào buổi tối trường ta tiếp phụ huynh học sinh. Em bảo bố em rằng thầy là một nhà giáo tuyệt vời, chỉ phải cái thầy quá quan trọng hóa chuyện giấy bút.
Thôi đi, Bob. Em chưa hề đọc quyển đó mà.
Nó lại khuyên tôi chớ có lo vì bố nó, ông giáo sĩ đạo Do Thái, vẫn thường nói về quyển sách ấy và nó chắc chắn sẽ tìm ra mọi chuyện về Gilgamesh và những chuyện khác để làm thầy giáo vui lòng.
Cả lớp lại cười rộ lên. Chúng ôm nhao, xòe tay ra vỗ vào nhau.
Tôi cũng muốn bật cười nhưng phải giữ tư cách ông thầy.
Tôi lên tiếng gọi Bob, Bob ngang qua căn phòng, trong tiếng khúc khích, tiếng thở phì phò và tiếng cười của đám học sinh.
Thầy sẽ rất vui nếu em tự đọc quyển văn học thế giới ấy, chứ đừng làm phiền bố em.
Nó nói rằng nó cũng rất muốn đọc từ tờ đầu đến tờ cuối, nhưng việc này không khớp với những dự tính của nó.
Em dự tính gì vậy, Bob?
Em muốn trở thành chủ nông trại.
Nó mỉm cười huơ cây bút và tờ giấy Jonathan Greenberg đưa, nói rằng nó rất tiếc đã phá rối buổi học, có lẽ cả lớp nên bắt tay ngay vào làm bài tập tôi cho từ đầu tiết học đang trôi qua này. Bản thân nó đã sẵn sàng rồi và nó đề nghị cả lớp yên lặng để thầy McCourt có thể tiếp tục dạy học. Nó bảo các bạn rằng dạy học là công việc mệt nhọc nhất thế gian; nó biết chứ, bởi có lần ở trại hè nó đã thử dạy một đám con nít về những thứ mọc lên từ đất, nhưng chúng không chịu nghe, cứ chạy quanh đuổi bắt côn trùng khiến nó phát điên lên bảo sẽ đá đít lũ nhóc, thế là chấm dứt sự nghiệp dạy học của nó, thành ra cả lớp nên quan tâm đến thầy McCourt một tí. Nhưng trước khi cả lớp lo tập trung làm bài nó muốn nói rõ rằng nó không chống đối và phỉ báng gì văn học thế giới cả, còn bây giờ nó chỉ đọc những công bố của Bộ Nông nghiệp và những tạp chí liên quan đến trồng trọt. Nó bảo trong nông nghiệp có nhiều chuyện phải làm hơn những gì mắt ta thấy, nhưng đó chuyện khác và rằng nó biết tôi đang muốn tiếp tục giờ dạy của mình. Thưa thầy McCourt, bài gì đấy ạ?
Tôi biết làm gì với tay hộ pháp ngồi trên bệ cửa sổ kia, một điền chủ tương lai gốc Do Thái của nước Mỹ? Jonathan Greenberg giơ tay hỏi chuyện trồng trọt mà mắt ta không thấy là gì?
Bob trông rầu rĩ mất một lúc. Tại bố tớ đấy, nó nói. Ông kẹt mấy chuyện ngô và heo. Ông bảo người Do Thái không ăn ngô còn nguyên bắp. Ông bảo hãy cứ đi ngược đường này xuôi đường kia ở vùng Williamsburg và Crown Heights, nhìn vào cửa sổ nhà người Do Thái vào giờ ăn chiều, sẽ không bao giờ thấy ai gặm bắp ngô cả. Người Do Thái không ăn như thế. Dính vào râu. Con chỉ cho bố một người Do Thái gặm bắp ngô thì bố sẽ bảo cho con biết rằng người ấy đã bỏ đạo rồi. Bố tớ nói thế. Nhưng nặng nhất là heo [142] . Tớ bảo ông rằng tớ thích heo. Tớ không định ăn thịt heo hay gì khác đâu, nhưng tớ thích nuôi chúng lớn rồi bán cho người ngoại đạo. Có gì không nên không phải nào? Chúng thật là những con vật nho nhỏ dễ thương, có thể trở nên rất gần gũi nữa là khác. Tớ bảo bố tớ rằng mai sau tớ lấy vợ, có con và chúng sẽ thích những con heo sữa. Bố tớ giận điên lên và mẹ tớ đành chịu thua. Có lẽ tớ không nên nói với bố mẹ tớ về chuyện ấy, nhưng bố mẹ tớ đã dạy tớ phải nói thật. Vả lại đằng nào cũng sẽ lòi ra thôi.
Chuông reo. Bob tuột khỏi bệ cửa sổ, trả giấy bút cho Jonathan. Nó bảo tuần tới ông bố giáo sĩ đạo Do Thái của nó sẽ đến gặp tôi vào buổi tối nhà trường tiếp phụ huynh và xin lỗi đã làm xáo trộn tiết học. Ông giáo sĩ Do Thái ngồi trước mặt tôi, giơ hai tay kêu trời kêu đất. Tôi tưởng ông đùa nhưng cách ông gục cằm xuống ngực, lắc đầu quầy quậy cho thấy ông không được hạnh phúc. Ông hỏi, đặc sệt giọng Đức, thằng cháu Bob học hành thế nào ạ?
Giỏi, tôi đáp.
Nó giết vợ chồng tôi, nó làm tim chúng tôi tan nát. Nó nói với thầy chưa? Nó muốn thành điền chủ.
Thưa ông Stein, thế là sống lành mạnh.
Nhục nhã thì có. Chúng tôi đâu trả tiền cho nó học cao đẳng với đại học để nuôi heo với trồng ngô. Người trên đường phố sẽ chỉ tay vào nhà chúng tôi mà đàm tiếu. Như thế thì bà nhà tôi sẽ chết mất. Chúng tôi bảo nó nếu muốn thế thì nó phải tự trang trải chuyện học. Chấm hết! Nó đáp bố mẹ đừng lo. Chính phủ có nhiều chương trình lớn trợ cấp học bổng cho những thanh niên muốn thành điền chủ và nó biết tường tận chuyện này. Nó chất đầy nhà toàn những sách vở và bài báo từ Washington và một trường cao đẳng nào đấy từ Ohio. Chúng tôi mất nó rồi, thầy McCoot ạ. Con trai của chúng tôi đã chết rồi. Chúng tôi không thể có một đứa con ngày ngày chung đụng với heo được.
Thưa ông Stein, tôi rất tiếc.
Sáu năm sau tôi gặp Bob trên Lower Broadway. Hôm ấy là một ngày tháng Giêng mà cậu ta vẫn mặc quần cụt như thường với chiếc áo khoác Orson Welles. Cậu ta nói chào thầy McCourt. Trời đẹp tuyệt, phải không ạ?
Lạnh buốt ấy chứ, Bob.
Ồ, đâu có sao.
Cậu ta kể rằng đang làm việc cho một điền chủ ở Ohio, nhưng đành bỏ chuyện nuôi heo để cha mẹ khỏi phiền lòng. Tôi bảo đó là một quyết định đúng, có tình có nghĩa.
Cậu ta ngừng một lúc rồi nhìn tôi hỏi: Thưa thầy McCourt, thầy không hề ưa em, phải không ạ?
Không hề ưa em à, Bob? Em nói giỡn chắc? Thầy rất vui có em trong lớp. Jonathan bảo rằng em đã xua được bầu không khí u ám ra khỏi lớp học đấy.
Anh McCourt ơi, anh hãy nói cho Bob rõ sự thật đi. Rằng nó đã làm cho những buổi lên lớp của anh được vui tươi, rằng anh đã nói với các bạn của anh rằng nó thật độc đáo, rằng anh thích phong cách của nó, tính tình vui vẻ của nó, sự chân thật của nó, lòng can đảm của nó, rằng anh sẵn sàng hiến cả tâm hồn cho một đứa con trai như nó. Rằng nó từng đã tốt và luôn tốt về mọi mặt, hồi đó và bây giờ anh vẫn yêu quý nó. Nói đi.
Tôi đã nói với Bob và cậu ta lặng người đi không thốt nên lời. Chúng tôi, người thầy giáo trung học và nhà điền chủ Do Thái to con tương lai của nước Mỹ, thắm thiết ôm chầm lấy nhau hồi lâu. Thây kệ, người qua kẻ lại trên Lower Broadway nghĩ gì, tôi không cần bận tâm.
Ken là một học sinh Đại Hàn. Nó ghét bố nó. Nó kể với cả lớp chuyện nó phải học dương cầm, dù nhà không có đàn. Ông bố bắt nó tập bấm phím trên bàn bếp trong khi chờ có đủ tiền tậu đàn. Khi ngờ rằng nó không tập nghiêm chỉnh thì ông lấy cái bay chiên xào đánh lên mấy ngón tay nó. Đứa em gái lên sáu của nó cũng bị đòn luôn. Tới lúc nhà nó sắm piano rồi và em nó đánh như "gõ búa" thì liền bị ông bố lôi tuột khỏi ghế, kéo phăng vào phòng em nó, lấy một mớ áo quần của em nó trong ngăn tủ nhét vào bao gối, rồi lôi em nó xuống hầm để chứng kiến cảnh bố nó ném bao gối vào lò đốt.
Bố nó làm thế để dạy em nó tập tành nghiêm chỉnh.
Hồi học tiểu học, Ken phải đi hướng đạo và phải đạt được nhiều huy chương hơn mọi đứa bạn trong đội. Lên trung học, ông bố một mực bắt nó phải đạt danh hiệu Eagle Scout [143] vì sẽ gây ấn tượng tốt khi xin vào Harvard. Ken không muốn mất nhiều thì giờ để cố trở thành Eagle Scout, nhưng nó không dám cãi. Sắp xin vào Harvard đến nơi rồi. Ngoài ra ông bố còn đòi nó phải giỏi võ, qua hết mọi thứ đai tới tận đai đen.
Nó nhất nhất vâng lời, cho tới lúc chọn trường cao đẳng. Ông bố bảo nó tập trung xin vào hai trường Harvard và M.I.T [144] . Ngay bà con tận bên Đại Hàn ai cũng biết đó là hai trường nó nên chọn.
Ken bảo không. Nó xin vào trường Stanford ở California. Nó muốn sống tuốt bên kia lục địa, càng xa ông bố càng tốt. Bố nó không chịu. Ông không cho phép. Ken nói nếu không học Stanford thì nó sẽ không học trường nào khác. Ông bố xông tới hùng hổ với nó trong nhà bếp. Ken, võ nghệ đầy mình, nói bố thử đi. ông bố chờn. Lẽ ra nên nói, được thôi, con muốn làm gì tùy ý, nhưng hàng xóm sẽ nghĩ sao? Họ sẽ xì xào những gì trong nhà thờ? Thử tưởng tượng có con trai tốt nghiệp trường Trung học Stuyvesant mà lại không chịu học lên đại học. Bố sẽ nhục. Bạn bè của ông tự hào có con học Harvard và M.I.T. và nếu Ken còn nghĩ đến danh dự gia đình thì phải quên Stanford.
Ken viết thư cho tôi từ Stanford. Nó thích cái nắng ở đấy. Đời sinh viên dễ chịu hơn thời ở Stuyvesant, ít sức ép hơn, ít ganh đua hơn. Nó vừa nhận được thư bà mẹ nhắn nhủ nó phải lo học hành, đừng tham gia những sinh hoạt ngoài việc học, không thể thao, không câu lạc bộ, không gì hết thảy, nếu không được điểm A trong các môn thì đừng về nhà dịp Giáng sinh. Trong thư gửi tôi, Ken viết rằng thế là hợp ý nó quá. Đằng nào nó cũng không định về thăm nhà dịp Giáng sinh. Nếu có về thì chỉ để thăm em gái.
Trước Giáng sinh ít ngày Ken xuất hiện ở trước cửa lớp tôi. Nó bảo tôi rằng tôi đã giúp nó qua được năm cuối bậc trung học. Hồi đó có lần nó mơ đi cùng ông bố vào trong một ngõ hẻm tối tăm và rồi chỉ có một người đi ra. Người đó là nó, tất nhiên. Nhưng ở Stanford nó bắt đầu suy nghĩ về ông bố. Ông từ Đại Hàn sang, cả ngày lẫn đêm bán trái cây và rau quả, tiếng Anh bập bẹ không đủ để giao tiếp hàng ngày, nai lưng làm lụng để con cái được học hành đàng hoàng chứ không thất học như ông ngày trước và ở Đại Hàn chẳng ai dám mơ tới. Thế rồi trong giờ Anh văn ở Stanford, khi Ken được giáo sư yêu cầu trình bày một bài thơ thích nhất thì bài thơ nó nhớ đến lại hóa ra là bài "Điệu Valse của cha tôi" và Chúa ơi, nó cầm lòng không nổi, gục khóc trước mọi người. Ông giáo sư quả thật tuyệt vời, ông đã đặt tay lên vai nó, dẫn nó vào văn phòng của ông, chờ nó nín. Nó ngồi trong đó suốt một giờ đồng hồ, vừa kể lể vừa khóc. Ông giáo sư bảo đâu có sao, vì ông đã từng gọi bố ông, một người Ba Lan gốc Do Thái, là đồ chó chết chỉ vì ông đã quên mất rằng chính đồ chó chết ấy đã sống sót từ trại tập trung Auschwitz [145] , và lần mò qua được California, nuôi dạy ông và hai người con nữa, mở một cửa hàng thực phẩm hảo hạng ở Santa Barbara trong lúc nội tạng của ông cụ có thể ngưng hoạt động bất cứ lúc nào vì đã rệu rã nặng thời ở trại tập trung của quân Quốc xã Đức. Ông giáo sư bảo rằng hai ông bố hẳn là có nhiều chuyện để nói với nhau, nhưng chắc không bao giờ có dịp. Ông Đại Hàn bán rau và ông Ba Lan gốc Do Thái bán thực phẩm hảo hạng sẽ không dễ tìm ra lời như người học đại học. Ken kể rằng đã trút được một gánh nặng ghê gớm trong văn phòng ông giáo sư kia. Hay ta có thể nói rằng mọi thứ chất độc đã biến khỏi bộ máy tuần hoàn của nó. Đại khái như thế. Bây giờ nó định mua biếu bố một chiếc ca vát nhân dịp Giáng sinh và hoa biếu mẹ. Quả đúng là điên khi mua hoa biếu mẹ vì bố mẹ nó cũng bán hoa, nhưng hoa ở tiệm tạp phẩm Đại Hàn ngay góc phố với ở hiệu hoa khác nhau nhiều chứ. Nó không ngớt nghĩ về một nhận xét của ông giáo sư rằng thế giới nên để cho ông bố Ba Lan gốc Do Thái và ông bố Đại Hàn ngồi sưởi nắng với các bà vợ, nếu họ may mắn có vợ. Ken bật cười vì ông giáo sư tỏ ra rất sôi nổi. Hãy cứ để họ ngồi sưởi cái nắng khốn kiếp. Nhưng thế giới đâu có chịu, vì không gì nguy hiểm hơn là để người già lụm khụm ngồi dưới nắngg. Vì có thể họ đâm ra nghĩ ngợi vẩn vơ. Bọn con nít cũng y như thế. Phải kiếm chuyện cho chúng làm kẻo chúng lại nghĩ vẩn nghĩ vơ.