← Quay lại trang sách

Chương II

Nguyễn đến. Đó là một buổi sáng cuối năm 1965. Anh ném trước mặt tôi một cuốn sách và nói:

- Vĩ đại hơn Phật, hơn Lão Trang.

Tôi lật bìa sách lên: "Dịch Hạch". Nguyễn nói:

- Hãy đọc gấp đi. Ðây mới là tư tưởng quan trọng của chủ nghĩa hiện sinh, là phần nhân đạo nhất của triết học ấy.

Tôi bỏ áo vô thùng, cài nịt cẩn thận rồi xách cặp bước ra cửa.

Hai đứa bước chậm trên hè phố. Buổi sáng êm ả hiền hậu. Mặt trời còn khuất sau mây nên thành phố không có nắng. Chiếc máy bay vận tải quân sự Caribou vừa cất cánh ở phi trường gần đó quấy động bầu không khí yên tĩnh của buổi sáng. Nó rít lên và nặng nề bay trên những đỉnh núi thấp cạnh phi trường. Nguyễn ngừng nói để đợi cho tiếng động tan dần đi. Tôi hỏi:

- Anh chàng nhà báo đó tên gì?

- Rambert. Chàng ta đến thành phốOranđúng vào lúc thành phố bị dịch hạch. Người ta đã ra lệnh đóng cửa thành phố, nội bất xuất ngoại bất nhập. Người ta không muốn có ai mang mầm bệnh gieo rắc thêm ra bên ngoài. Thế là chàng nhà báo bị kẹt cứng ở đó trong khi anh có một cô bồ rất xinh ởParis. Anh ta tìm mọi cách để trở về với người yêu nhưng vô hiệu. Anh đến gặp bác sĩ Rieux và yêu cầu can thiệp cho anh ra khỏi thành phố, trở vềParis, nhưng Rieux không có quyền làm điều đó. Tuy vậy ông cũng an ủi Rambert rằng dù sao đây cũng là một dịp may để nhà báo có thêm tư liệu cho bài tường thuật của mình. C’est stupide, docteur. Rambert nổi cáu nói. Tôi không sinh ra để làm những bài tường thuật. Mais peut-être ai–je été mis au monde pour vivre avec une femme, cela n’est il pas dans l’ordre? Nhưng tôi sinh ra để chung sống với một người đàn bà. Ðó chẳng phải là điều hợp lý sao?

Dù vậy, chàng nhà báo vẫn phải ở lại thành phốOran. Thành phố ấy chính là cái cõi đời mà chúng ta đang sống. Và cái bệnh dịch hạch kia tượng trưng cho sự hữu hạn của đời người. Chúng ta, mỗi người đều bị ném vào cái cõi đời hữu hạn ấy ngoài ý muốn của mình cũng giống hệt như Rambert bị ném vào thành phốOran. Thái độ của người hiện sinh là phản kháng, chống lại sự áp đặt đó.

- Nhưng Rambert đã phản kháng như thế nào? Tôi hỏi.

- Thoạt tiên chàng nhà báo miễn cưỡng ở lại thành phố nhưng hàng ngày tiếp xúc với cái chết, chứng kiến những con người quên mình khi chia sẻ số phận nghiệt ngã với đồng loại dần dà anh cảm thấy mình có trách nhiệm. Ngay lúc ấy có người đề nghị giúp anh trốn khỏi thành phố nhưng anh lại từ chối. Anh ở lại để cùng đồng loại chiến đấu chống lại cái chết. Ðó là một thái độ trí thức. Ðó là thái độ phản kháng trước cái chết.

Tôi hỏi:

- Nhưng chúng ta, sẽ phản kháng bằng cách nào?

Một đám trẻ con đùn ra giữa đường. Chiếc jeep lùn vừa đậu lại ở ngã ba và những người lính Mỹ mặt mày non choẹt bắt đầu đổ những lon thịt hộp, những thỏi sô cô la, mứt nho, phô-ma từ trong những thùng giấy xuống đường cái. Bọn trẻ con tranh nhau nhặt vừa la hét vừa cười giỡn huyên náo. Nguyễn và tôi đều nhận ra Bayle, một thằng lính Mỹ trẻ mà chúng tôi thường gặp ở gần nhà và thường xuyên chuyện trò với hắn để rèn luyện Anh ngữ. Bayle đưa tay chào chúng tôi và hỏi chúng tôi có uống Coca không, tôi đáp không và vẫy tay chào khi đi qua chiếc xe jeep của nó. Thằng Bayle rất thích nghe Nguyễn đàn nhạc cổ điển tây phương nên hắn cứ thường mò đến nhà. Thậm chí có khi nó đi với Nguyễn đến nhà tôi ở tận trong xóm lao động. Chúng tôi uống trà với nhau, ăn cơm với cà pháo, canh rau muống và buổi trưa nó ngủ luôn trên cái giường ọp ẹp của tôi.

Một lần lúc xế chiều tôi đánh thức nó dậy, bảo nó về. Tôi và Nguyễn tiễn nó ra đầu hẻm, một viên cảnh sát áo trắng đợi cho thằng Mỹ đi rồi mới chặn chúng tôi lại:

- Này, các em dại lắm nhé.

- Dại sao? Nguyễn hỏi.

- Sao các em dẫn thằng Mỹ vô xóm lao động thế, lỡ có bề gì có phải các em chịu trách nhiệm không?

- Bề gì? Nó vô nhà tôi chơi mà.

Viên cảnh sát nổi cáu:

- Không biết tao nói cho mà nghe. Rủi có Việt Cộng nằm vùng trong đó nó giết thằng Mỹ có phải tụi bay ở tù rục xương không?

Nói xong viên cảnh sát bỏ đi. Ðiều ông ta nói chúng tôi chưa hề nghĩ tới.

Chúng tôi vào lớp trễ năm phút nhưng không hề gì. Cô giáo dạy triết học rất thương Nguyễn. Cô cho Nguyễn vào lớp, thế là tôi vào theo. Nguyễn nói chuyện triết học thì như một ông già, nhưng với cô giáo dạy triết thì hắn nhõng nhẽo như thằng con nít. Hôm đó tôi biết hắn có đem theo viết nhưng hắn làm bộ như bỏ quên viết ở nhà. Rồi đi thẳng lên bàn cô giáo.

- Em mượn cây viết. Hắn nói và thò tay lấy cây viết của cô, tỉnh bơ vì hắn biết cô hay chiều hắn.

Gần như cô giáo sắm cây viết ra là để cho hắn viết. Một hôm hắn rủ tôi đến nhà cô giáo chơi, hắn đòi cô cho ăn bún chả. Nhà cô sang trọng, đẹp đẽ, bún chả cô nấu cũng ngon lành, tô bún cô trình bày cũng đẹp mắt. Cô mới sinh em bé rất kháu khỉnh, trong lúc ăn cô để em bé ngồi bên, chơi mấy cái đồ chơi bằng nhựa. Em bé rất ngoan, hay cười và không nghịch phá. Cô vừa ăn vừa trìu mến nhìn con, rồi cô hỏi:

- Các em có nhớ La Rochefoucauld nói thế nào về tình mẫu tử không?

Tôi đáp:

- Ông ta cho rằng tình mẫu tử cũng như tất cả những tình cảm tốt đẹp khác của con người đều chỉ nhằm mục đích ích kỷ giống như những dòng sông đều đổ ra biển.

Cô giáo hỏi:

- Thế em nghĩ gì về quan niệm ấy?

- Em cho là không đúng.

- Cô cũng nghĩ như thế. La Rochefoucauld quá bi quan. Ông ta không thể là một người mẹ nên ông ta không biết gì về tình mẫu tử. Ông ta nói như thế sai lầm vô cùng.

Và cô cù vào nách con. Cô bé thích chí cười hích hích. Trong lúc tôi và cô giáo nói chuyện. Nguyễn hoàn toàn im lặng. Dường như hắn đang nghĩ một chuyện gì khác, có lúc hắn nhìn cô chăm chú, có lúc lại lơ đãng. Cô lại hỏi tiếp:

- Về tình yêu thì Sartre quan niệm như thế nào?

Tôi rất khoái được cô hỏi những câu như thế, tôi đáp:

- Sartre phủ nhận tình yêu. Ông ta cho rằng tình yêu bao hàm ý nghĩa chiếm hữu người mình yêu, trong khi mỗi người là một ý thức tự do, chính vì thế mà không thể có tình yêu được. Em nghĩ rằng quan niệm như thế là không đúng vì tình yêu cao cả hơn tự do và hai người tình sẵn sàng đánh mất tự do của mình để yêu nhau.

Cô giáo day sang Nguyễn:

- Còn em thì sao?

- Em coi thường tình yêu và cả tự do nữa.

- Thế em coi trọng cái gì?

- Em chỉ có một điều để băn khoăn: làm thế nào để vượt qua cái chết.

- Tình yêu có thể vượt qua cái chết. Cô nói.

- Có thể, Nguyễn nói chậm rãi, nếu đó là sự chia sẻ số phận khắc nghiệt của kiếp người. Nếu tình yêu đó giống như tình yêu của Rambert, bác sĩ Rieux và Tarou trong Dịch Hạch.

Tôi nghĩ rằng Nguyễn lại bắt đầu thuyết giảng về Dịch Hạch, nhưng rất may hắn lại im lặng. Và hắn cứ im lặng như thế cho đến lúc ra về. Chúng tôi đi dọc theo bờ biển. Buổi trưa nắng lấp lánh trên mặt nước. Bãi biển vắng tanh, chỉ có mấy con yến trắng nhỏ xíu đi lại trên mặt cát ẩm ướt. Chiếc caribou của không lực Hoa Kỳ lại sắp sửa đáp xuống phi trường Qui Nhơn, tiếng động cơ rền vang dữ dội.

Khi tất cả lặng im, Nguyễn nói với tôi:

- Cô dễ thương quá.

- Sao mày lầm lì vậy?

- Vì cô dễ thương quá. Cô không mặc nịt vú, tao nhìn thấy thấp thoáng cái núm nhỏ xíu, đỏ hồng.

Hắn nói như thế nhưng tuyệt nhiên không có ý diễu cợt hay vô lễ. Hắn nói với lòng ngưỡng mộ và trân trọng.

°

Nguyễn ngủ thiếp đi.

Những con ốc sên bò chậm chạp và câm lặng trên thân cây chuối, cây vú sữa ngoài vườn, những con ve kêu khàn khàn trong giấc ngủ anh. Ðêm mùa hạ oi bức.

Nguyễn không nằm mơ thấy gì nhưng gần sáng khi anh thức dậy thì nhìn thấy một mặt trăng úa tàn to và tái mét như mặt người chết. Mặt trăng ấy đứng đợi anh ở chân trời, phía ngoài cửa sổ. Trời ơi, chưa bao giờ anh nhìn thấy một mặt trăng cũ kỹ, giá lạnh và ghê gớm như thế. Anh tưởng như mình đã chết rồi và anh đang nhìn mặt trăng từ cõi âm ti xa lạ. Trái tim anh tê dại và cay đắng.

Anh đóng cánh cửa sổ lại để khỏi nhìn thấy mặt trăng úa tàn kia. Gà gáy. Tiếng gà làm cho anh thấy đỡ cô độc. Anh bật đèn lên. Tấm ảnh bốn sáu của một cô gái rơi xuống đất. Anh nhặt lên, nhìn một lúc lâu. Ðó là Tiểu Phượng, con gái ông chánh án. Anh cất ảnh vào bao gối. Tiếng gà gáy vang. Gần, xa, chung quanh. Nguyễn có cảm tưởng như chỉ có mình anh thức để nghe tiếng gà. Và anh nằm xuống, trùm kín chăn lại. Cứ như thế anh nằm nghe tiếng gà cho tới khi trời sáng hẳn.

Nguyễn nhận ra ánh bình minh nhờ những khe cửa và chỗ dột trên mái ngói. Ngoài đường đã có tiếng người đi, tiếng trẻ con rao bánh mì, tiếng một cái lon sữa bò rỗng bị gió thổi lăn đi trên mặt đường…

Anh mở cửa bước ra ngoài. Mặt trăng vẫn còn trên bầu trời, nhưng bây giờ nó trắng bạc và gần như lẩn vào cái nền xanh bao la. Nó không còn ghê rợn như hồi giữa khuya nữa. Nó trở lại nguyên hình mặt trăng hiền lành của bầu trời và mặt đất.

Buổi sáng gió nhẹ, anh đi quanh vườn nhìn những con ốc sên chậm chạp và nỗi buồn đêm qua cũng tan đi như người ta vừa qua một cơn say. Anh khoác áo ngoài và đi ăn sáng.

Lúc về đến nhà, Nguyễn nghe có tiếng đục đẽo gì ở sân trong. Anh đi chậm lại ngang qua mấy gốc cây vú sữa. Hai người thợ mộc đang đóng cái quan tài. Anh liếc nhìn vào nhà, chỗ cửa lớn, thấy ông cụ đang ngồi ở đấy, bất động. Ông giương đôi mắt mờ đục nhìn hai người thợ đang đóng quan tài cho mình.

Suốt ngày ông cụ ở trong bóng tối vì tất cả cửa sổ trong nhà đều đóng kín. Buổi trưa ông thường lấp ló một chút ở chỗ cửa ra vào, ngồi trên cái ghế đẩu, hai tay đặt trên đầu gậy, cằm tựa lên hai bàn tay, đăm đăm nhìn ra khoảng sân xi măng. Ông cụ cứ ngồi như thế hàng giờ bất động. Ông đang nhìn cái gì nơi khoảng trống tẻ ngắt ấy? Ông đang nhớ lại quá khứ của mình hay đang ngồi chờ đợi cái chết? Hay ông chỉ ngồi đó, vô tri như một cái xác không hồn?

Buổi trưa khi hai người thợ đã nghỉ tay đi ăn cơm, ông cụ vẫn còn ngồi im nơi đó nhìn chiếc quan tài dở dang nằm ngoài sân, hai mắt cứ mở thao láo. Một con ruồi bay đến đậu lên lông mày ông rồi bò dọc theo sống mũi. Nó bò chậm chạp, bình thản như bò trên một tảng đá, nó dừng lại một chút nơi cánh mũi phập phồng rồi bò xuống cái má nhăn nheo đã trổ đồi mồi của ông cụ. Nó đậu ở đó rất lâu, chải chuốt lại bộ cánh rồi mới thong thả bò tới cái miệng của ông cụ. Nó thò cái vòi của nó vào khe mép, nơi đó có một tí nước bọt dẻo quánh vẫn thường ứa ra, và con ruồi hút lấy thứ nước ấy. Ông cụ dường như không hay biết gì về sự có mặt của con ruồi trên mặt ông, ông cứ ngó đăm đăm vào chiếc quan tài.

Ðêm hôm đó ông mất, nhưng mãi tới chiều ngày hôm sau chiếc quan tài mới được đóng xong. Ông không đau ốm gì và dường như ông cũng không hề bảo người nhà đóng quan tài cho ông, nhưng người con gái lớn của ông đã mời thợ mộc về. Và Nguyễn đã nghĩ rằng cử chỉ ấy giống như thể là bà ta đã đi thuê một cỗ xe về đậu sẵn ngoài cửa và nói: Thưa ba, xe đang chờ, mời ba sửa soạn đi cho. Thế là ông đi. Ngoan ngoãn, cam chịu và lặng lẽ.

Nguyễn theo đoàn người đưa tiễn ông ra tới nghĩa trang. Bọn trẻ con và cả những chàng trai, những cô gái trạc tuổi anh cũng bu quanh đám tang để xem người ta thổi kèn, người ta khóc lóc, người ta tụng niệm. Họ nhìn đám tang như một đám rước, như một đám múa lân. Không, ai nhìn đám tang mà nghĩ đến số kiếp của mình như Nguyễn. Anh đi theo sau, cúi đầu đau khổ. Những giây phút cuối đời, ông cụ đã nghĩ gì mà lặng câm như thế?

Ðúng ra, có một lần Nguyễn đi học về, ngang qua khung cửa anh chợt nghe một tiếng gì đấy mà anh biết rằng vừa thoát ra từ miệng ông cụ. Anh dừng lại và thấy ông đưa tay ngoắc mình, nhưng mặt ông và nhất là cái nhìn của ông thì vẫn bất động. Ðiều ấy làm anh sợ hãi, anh bỏ đi nhanh. Giờ đây, theo tiễn chân ông về nơi an nghỉ cuối cùng, Nguyễn hối hận về thái độ ấy. Anh mong ông tha lỗi cho anh.

Xế chiều Nguyễn về lại thành phố. Không hiểu sao anh buồn rũ rượi. Anh đi thất thểu như kẻ ăn mày vừa lang thang qua một trăm xứ sở về đây. Anh không nhìn ai mà chỉ nhìn mặt đất. Mặt đất câm lặng không nói cùng anh lời nào. Camus đã chỉ ra cách vượt qua cái chết, nhưng đó là cách của Rambert, còn ta, cách của ta là thế nào? Nguyễn thả mình trôi bồng bềnh theo dòng người trong phố. Anh chìm trong tư lự, anh thấy mình đau khổ và kiêu hãnh. Anh thấy như chỉ có mình anh trong cái nước ViệtNambé nhỏ này hiểu được rằng mình đang đứng trên vực thẳm và tìm cách nhảy qua nó. Trên đường phố, người vẫn đi qua lại, nói cười hồn nhiên đến tội nghiệp. Họ sống đơn giản và ngốc nghếch, họ bằng lòng với những niềm vui thoáng qua, những hưởng thụ hèn mọn, họ không hiểu rằng từng ngày, từng giờ mình đang bước đến gần cõi chết, rằng đoạn cuối của cuộc đời họ cũng sẽ giống như ông cụ vừa mới bị chôn vùi dưới đất đen kia. Ta sẽ không bao giờ sống và chết như ông già ấy. Ta phải tự định đoạt lấy sự sống và cái chết của mình. Ta không chấp nhận sự đơn điệu, quy phục và áp đặt. Ôi, phải một mình chống chõi với cái chết, lòng ta trĩu nặng, cô đơn và kiêu hãnh. Nhưng ta vẫn không bao giờ chịu thua, ta phải chứng tỏ cho ngươi biết rằng ngươi bắt ta phải chết nhưng để làm được điều đó ngươi sẽ phải đón nhận sự đánh trả của ta với lòng khinh bỉ vô hạn. Và ta sẽ không đánh trả một mình, bởi vì không phải chỉ có mình ta là nạn nhân của ngươi mà tất cả những con người trên trái đất này đều là nạn nhân của ngươi. Ta sẽ đến và bảo cho họ biết.

Một chiếc xe dodge của Mỹ đậu sát cột đèn. Mấy cô gái trẻ trang điểm lòe loẹt bu đến nói cười tíu tít. Họ đùa giỡn ngay trên đường phố làm những người đi đường khó chịu. Nguyễn vừa định lách qua đám đông để đi, thì bất ngờ một tia nước phun thẳng vào mặt. Một người lính Mỹ cao lớn ngồi trong xe nhe răng cười. Bốn năm thằng khác cũng cười hô hố sau trò chơi vừa rồi, trên tay đứa nào cũng cầm sẵn một lon Coca Cola đã được lắc kỹ cho ga nén thật mạnh, sẵn sàng xịt vào mặt bất cứ ai đi ngang qua. Nguyễn dừng lại, anh bình thản rút khăn tay thấm nước trên mặt, nhưng cái thứ nước ngọt nâu nâu ấy đã nhểu xuống loang lổ cả ngực áo anh. Nguyễn ngước nhìn những tên lính, những bộ mặt ngây ngô, đắc thắng một cách tội nghiệp. Những bộ mặt ấy rồi một ngày kia cũng sẽ rữa nát dưới những nấm mồ, những bàn tay gân guốc ấy một ngày kia rồi cũng sẽ đặt trên đầu gậy, các người cũng sẽ bất động, tựa cằm trên hai bàn tay và đăm đăm nhìn chiếc quan tài của mình. Ta không hề giận các anh, ta thương các anh vô cùng, hỡi những kiếp người hữu hạn và bé nhỏ kia, các người có hiểu điều ấy không?

Nguyễn chậm chạp bỏ đi sang bên kia đường, ở đó anh gặp Tiểu Phượng, cô tiểu thư con quan chánh án. Tự nhiên anh thấy mình bạo dạn trước người con gái mà từ lâu anh vẫn sợ hãi, rụt rè, vụng dại. Suýt nữa anh đã đến quỳ xuống trước mặt cô và khóc như mưa như gió và nói như điên như dại rằng: Tiểu Phượng ơi, em có biết rằng tôi cô đơn đến dường nào không? Nhưng anh chỉ đứng ngẩn người trước mặt cô gái. Tiểu thư tròn mắt, hỏi:

- Sao mặt mày, quần áo thế kia?

Nguyễn không nói gì cả, chỉ muốn bật khóc. Và muốn tan biến đi thành hư không.

- Sao vậy? Tiểu Phượng lại hỏi. Sáng này cô Lan hỏi Nguyễn đấy. Sáng này làm bài tập luận triết.

Tiểu thư lấy trong cặp ra một chiếc khăn tay đưa cho Nguyễn, bảo lau mặt. Nguyễn vừa định cầm chiếc khăn thì có tiếng còi xe hơi. Cô gái hoảng hốt vội buông chiếc khăn ra và đi nhanh lại phía chiếcDauphinesơn trắng vừa đậu lại ở lề đường.

Chiếc khăn tay bằng lụa mỏng rơi cạnh mấy cái lá khô. Cánh cửa xe đóng lại và cô gái mất hút. Nguyễn cúi xuống nhặt chiếc khăn lên. Chiếc khăn mong manh như một chút sương khói, một chút hơi hướng từ cõi thiên thai nào vừa gởi xuống trần gian.

°

Cô giáo dạy triết nói về ông giáo sư Việt văn vừa mới đổi tới trường ngay giữa niên khóa:

- Ở ngoài Huế, ổng rất nổi tiếng. Một nhà thơ trẻ có khuynh hướng xã hội.

Nguyễn nói:

- Dường như em cũng có đọc vài bài thơ của Trần Quang Long đăng ở đâu đó. Ðúng là trên báo Văn Học. Em cũng không thích lắm. Trước đây ở ngoài Huế, ổng có quen biết cô không?

- Hồi còn là sinh viên, cũng có biết nhau. Hồi đó Long rất nổi tiếng về những bài thơ tình. Cô không thích thơ lắm đâu nhưng cô cũng nhớ được một vài đoạn. Theo cô thì thơ tình của Long hay hơn thơ tranh đấu. Trữ tình, lãng mạn lắm…. Em yêu vì sao Véga màu hồng. Anh yêu vì sao trong mắt trong. Một thoáng sao băng vào hư ảo. Một thoáng đời thành nỗi nhớ mong. Anh ngồi ôm gối nghe trời gió. Ðiếu thuốc trên tay cháy nửa chừng. Một mình bỗng xót thương mình quá. Trên trời những vì sao rưng rưng.

Nguyễn kêu lên:

- Ô, hay đấy, cô! Nhưng sao coi tướng ổng cao bồi quá. Tóc để dài, đô con, mắt một mí.

- Giống Ðại Hàn, tôi đưa một nhân xét.

- Hút thuốc lá liên tục, Nguyễn nói thêm, toàn Bastos xanh.

Ðó là vài nét phát thảo về Trần Quang Long. Dĩ nhiên khi nói chuyện với cô Lan chúng tôi không dám nói hết những ý nghĩ của mình về ông thầy mới, nhất là Nguyễn, khi ở nhà cô giáo ra, Nguyễn bảo tôi:

- Hèn chi coi hắn nghênh ngang. Hắn tưởng hắn nhà thơ là ngon lành. Kiêu ngạo. Bữa nào bảo thằng Truyền chặn đường dứt cho hắn một trận.

Những Nguyễn không phải nhờ đến tay thằng Truyền. Anh đã tự thăm dò trước đối phương của mình. Lúc đó vào giờ ra chơi, Nguyễn đợi cho chàng giáo sư cao bồi ra khỏi lớp và thả bộ trên hành lang trường thì anh xăm xăm đi ngược lại. Khi hai người gần chạm trán nhau thì anh làm bộ như vô ý, dùng vai hích mạnh vào vai Trần Quang Long, làm ông thầy phải kinh ngạc đứng nhìn cậu học trò. Còn cậu học trò tỉnh bơ, thọc tay vào túi quần đứng nhìn nắng trong sân trường. Trần Quang Long do dự một chút rồi đến bên người vừa hích vai mình.

- Này, ông bạn muốn chơi tôi, hả?

Nguyễn làm bộ ngơ ngác:

- Dạ, đâu có. Em có làm gì đâu. Coi chừng thầy lộn ai đấy.

- Ðừng chối, Long nói, tôi đối xử với bạn bình đẳng. Nếu tiện, mời đến nhà chơi. Tôi ở số 46, gần phi trường.

Kế hoạch của Nguyễn là nếu Long phản ứng mạnh thì sẽ ra hiệu cho băng của thằng Truyền xúm lại chọc quê, nhưng không ngờ ông thầy lại mời đến nhà chơi. Chính thái độ ấy làm Nguyễn suy nghĩ. Nghe nói Long là một võ sĩ nhu đạo từng hạ đo ván một tên du đãng ngoài Huế.

Long thuê một căn nhà ở gần phi trường Qui Nhơn. Nguyễn đến nơi, thấy cửa khép hờ, ngại ngùng đứng trong sân. Cuối cùng anh quyết định dứt khoát. Anh châm một điếu thuốc để lấy oai rồi đến gõ cửa.

- Mời vào.

Có tiếng từ bên trong. Nguyễn đẩy cánh cửa. Trần Quang Long nằm trên giường đang đọc một quyển sách gì đó. Long bỏ sách tươi cười bắt tay Nguyễn và hỏi bằng một giọng vui đùa:

- Có mang theo vũ khí không?

Chính cái giọng ấy làm Nguyễn dễ chịu. Tự nhiên mọi thứ dè dặt, thủ thế đều tan đi mất. Nguyễn trả lời:

- Hai tay không. Em đến đây với thiện chí hòa bình.

- Nhưng vụ hôm trước là vì dân Qui Nhơn ác cảm với dân Huế phải không?

- Chỉ vì mái tóc.

Long bật cười, hơi nhỏm người lên một chút, kéo dưới nệm ra một chai Johnnie Walker nhãn đỏ. Thế là uống. Ðêm qua Nguyễn đã hình dung cuộc gặp gỡ này hoàn toàn khác hẳn. Lúc đầu anh định rủ Truyền cùng đi đến nhà Long phòng khi ông thầy nổi giận thì đã có con dao bấm nổi tiếng kia ngăn chặn, nhưng sau nghĩ lại Nguyễn thấy nên đi một mình. Không nên ngông cuồng, không nên vì tự ái vặt mà bỏ đi cái bằng tú tài toàn phần mình sắp giật được trong mấy tháng nữa. Và nếu như thằng Truyền mà cho ông thầy một dao lút cán thì không phải chỉ mình nó mà Nguyễn cũng có nhiều "cơ may" để ngồi tù. Vả lại mình với ông thầy có thù oán gì với nhau. Hơn nữa, Nguyễn vẫn thấy trong phong cách của Trần Quang Long có cái gì rất lạ, rất lôi cuốn và anh khám phá ra rằng trước đây mình muốn kênh Long chẳng qua cũng chỉ vì muốn tìm hiểu con người này, chẳng qua vì con người này có một cái gì đó bí ẩn, hấp dẫn… cũng giống như một mặt nước phẳng lặng nằm im dưới bóng cây, không một gợn sóng, không một chút xao động, không một tăm cá. Và anh muốn cầm một hòn sỏi, một miếng mẻ sành ném xuống đấy thăm dò. Tức thì mặt nước rách ra làm đôi, và từ dưới đáy hồ một chàng hiệp sĩ cưỡi con ngựa trắng bay vụt lên, chàng hiệp sĩ đeo dải kiếm màu đỏ chói, mái tóc bềnh bồng. Nguyễn giật mình kinh ngạc. Anh vẫn tưởng sẽ có một con thuồng luồng hay con khủng long từ dưới nước ngóc đầu lên phun lửa vào mặt anh và gầm lên những lời thách đấu.

Hai thầy trò uống rượu với nhau cho tới chiều. Nguyễn nhìn thấy sau cánh cửa Long vừa mở ra cho mình là một thế giới vô cùng mới mẻ, lạ lẫm và bất ngờ. Cái thế giới ấy khi thì lãng đãng sương mù của Huế và thơ tình, khi thì ẩn hiện những bom đạn, những người Mỹ và những đàn trẻ nhỏ khốn khổ từ Truồi, từ Vĩ Dạ bồng bế nhau lếch thếch kéo lên. Huế đô ngân vang tiếng nguyệt cầm bí ẩn, tiếng đàn sến lên đồng ở cửa Sập vọng lại từ một thời hoàng kim xa xưa cùng với chuyến đò ngang qua Phú Văn Lâu. Huế biểu tình dữ dội. Huế của những nhà sư tuyệt thực, những nhà sư tưới xăng lên mình và châm ngọn lửa, những chiếc xe tăng M113 nghênh ngang chạy xồng xộc trên đường phố, đâm thẳng vào đoàn biểu tình. Và Huế đẫm máu. Xe tăng cán nát những cô nữ sinh viên, những em bé, những loạt súng liên thanh rít lên trên đầu mọi người. Khuôn mặt người Mỹ vẫn đứng lạnh lùng trong bầu trời Huế ảm đạm, vẫn ẩn hiện trong lớp sương mù dày đặc trên mặt sông Hương.

Những ngày sống với Trần Quang Long ở Qui Nhơn là những ngày kỳ diệu nhất của cuộc đời anh. Nó là một sự pha trộn giữa triết học và thi ca, một sự hài hòa giữa tình yêu và lòng căm thù. Tất cả những cái đó làm nên những chàng hiệp sĩ, những con ngựa trắng, những chiếc áo choàng tung bay. Tất cả những cái đó còn làm nên một niềm kiêu hãnh vô bờ bến. Anh là thái tử Tất Ðạt Ða ngày kia biết mình đắc đạo và hào quang tỏa sáng rực trên đầu. Còn Trần Quang Long, anh cũng là Phật. Anh ngồi tham thiền dưới gốc bồ đề với nụ cười tĩnh lại trên môi. Ngày kia, hai vị Phật cưỡi ngựa vàng xuống trần gian.

Hai vị tổ chức cuộc xuống đường mười ngàn người ở thành phố Qui Nhơn. Trận đó chúng đánh Long gãy chân. Khi Nguyễn đỡ Long nằm xuống thì anh nghe thấy một tiếng động nhỏ. Anh xắn ống quần Long lên, thấy chỗ vết thương đang trào máu có một cái khớp. Ðó là chỗ xương gãy. Máu ở đó trào ra, không mạnh nhưng cầm hoài không được. Nguyễn gọi y tá trong trại giam đến chích thuốc cầm máu. Chúng chích cho Long mấy mũi mà vẫn không cầm được máu. Sáng hôm sau chân Long sưng tấy lên và mặt anh tái mét. Chân sưng to làm ống quần Long căng cứng, Long day trở khó khăn nhưng anh không kêu. Long bảo Nguyễn:

- Xé giúp mình cái ống quần.

Nguyễn xé theo đường chỉ may. Vải quần đẫm máu đã khô cứng lại, dày cộm. Anh xé toạc lên tới đùi. So với chân bên kia, chân bị thương thật dễ sợ. Xé ống quần rồi, thấy nó như phồng thêm lên. Thế mà vết thương vẫn không ngừng rỉ máu. Trưa đó, một chiếc xe bít bùng đến và chúng đặt Long lên băng ca, khiêng bỏ lên xe, đóng sập cửa lại. Nguyễn đứng bên cửa trại giam nhìn theo chiếc xe bít bùng. Anh khóc, mặt ràn rụa nước mắt.

Nguyễn bị còng tay và đẩy lên một chiếc tàu nhỏ của hải quân. Cùng đi với anh có "Dã Nhân" một phật tử cao lêu khêu và đen đúa như con khỉ đột.

Mặt biển buổi trưa phẳng lặng và sáng như một mảng kim loại. Con tàu nhỏ tròng trành theo một thứ nhịp điệu ngái ngủ. Hai người nằm ngủ vùi trong khoang tàu bẩn thỉu cạnh những cuộn dây thừng to. Xế chiều tàu cập bến một hòn đảo nhỏ giữa biển. Vẻ đẹp của biển hoàng hôn làm Nguyễn tỉnh táo trở lại. Anh ngồi cạnh Dã Nhân hút thuốc lá và nhìn ra biển. Dã Nhân ngồi hát. Biển im, tiếng hát nghe rất rõ trong cơn gió nhẹ, trong tiếng kêu rít rít của mấy con yến trắng.

Ðối với cả hai người, đây là lần đầu tiên trong đời bị đày ra đảo nhưng lòng họ không chút vướng bận về điều ấy, họ say sưa nhìn ngắm những con sóng vỗ nhẹ mơn man dưới chân. Họ quên hết cuộc đời, quên hết những biến động vừa qua.

Bóng những người lính Sài Gòn đi lại trên cồn cát, mũi súng M16 đâm thẳng lên như những nét kiếm thẳng tắp. Họ cử động cũng chậm chạp, câm lặng và uể oải. Một viên hạ sĩ đến và ra lệnh:

- Tắt thuốc lá đi nếu không muốn việt cộng bắn trúng ngay mặt.

- Dã nhân búng tàn thuốc lá lên không và cho hai tay vào túi quần. Viên hạ sĩ quan ra hiệu cho hai người đi theo anh ta đến một cái lều vải nhỏ ở đó người ta phát cho mỗi người một cái mùng và một cái chăn.

Toán quân leo lên ngọn đồi thấp. Họ leo mất nửa tiếng đồng hồ mới lên được tới đỉnh đồi. Tất cả đều mệt mỏi.

Cùng lúc ấy, Trần Quang Long bị gởi đi Tây Nguyên với vết thương còn rịn máu. Có lẽ anh cũng đang nằm nhìn mặt trăng vàng bệt này trong một khu rừng nào đấy và ở đó cũng có những người lính gác đi đi lại lại.

Mọi thứ đã diến ra rất nhanh, hai thầy trò vừa mới uống rượu với nhau đây, bây giờ đã một người trên rừng một người dưới biển. Khoảng giữa của hai cái mốc thời gian ấy là sự bùng nổ của tuổi trẻ phản kháng. Thượng tọa Trí Quang ra lệnh đem bàn thờ ra đường. Ông dựng lên đài phát thanh "Cứu nguy dân tộc". Sáng hôm đó Phụng hớt hải đến báo với Nguyễn:

- Ðêm qua mình nghe được tiếng nói của thầy Trí Quang.

- Nói ở đâu?

- Trên làn sóng điện ba mươi mốt thước. Trời ơi, mình chỉ vừa nghe mấy tiếng "Tôi, Trí Quang đây" đã rụng rời tay chân. Chưa bao giờ mình trải qua cơn xúc động lạ lùng như thế. Thì ra thầy chưa bị bắt, thầy lập một đài phát thanh bí mật.

Dã Nhân không sùng bái thầy Trí Quang như Phụng nhưng anh rất mê triết lý nhà Phật.

Những bàn thờ Phật được đem ra đường. Ðàn bà con gái mặc áo dài thắp hương quỳ lạy, xe cộ không hề dám chạy ngang qua, cảnh sát dã chiến cầm dùi cui, khiên mây, đeo mặt nạ phòng hơi độc đứng thành một tốp ở xa xa quan sát động tĩnh. Phụng đến lạy trước bàn thờ Phật và Nguyễn lạy theo anh. Khi ngồi riêng với nhau Nguyễn hỏi Trần Quang Long:

- Tại sao chúng ta làm theo sự điều động của Thích Trí Quang?

Long nói:

- Không phải. Chúng ta là người của Mặt Trận Giải Phóng nhưng chúng ta liên minh với Phật Giáo.

- Tại sao phải liên minh với họ?

- Vì họ và chúng ta đều chống Thiệu.

- Nhưng lập trường của ta và lập trường của Thích Trí Quang khác nhau rất xa. Ta chống Thiệu và chống Mỹ còn Trí Quang chống Thiệu nhưng không chống Mỹ.

- Ðúng như thế, Long nói. Chính Mỹ đã trang bị cho ông ta một cái đài phát thanh bí mật. Trí Quang muốn làm một Makarios của ViệtNam. Ông lãnh đạo quần chúng đấu tranh với Thiệu Kỳ là để đòi hỏi những quyền lợi chính trị cho phe nhóm ông, muốn đưa các đệ tử của ông vào các ghế bộ trưởng, các ghế ở quốc hội và chính bản thân ông, hoàn toàn có thể làm một kiểu như Makarios của đảo Chypre.

Nguyễn hỏi:

- Vậy thì theo thầy, Mỹ đang ủng hộ Trí Quang trong mưu đồ ấy sao?

- Không. Không bao giờ.

- Thế thì tại sao họ trang bị cho ông ta một đài phát thanh mật?

- Họ đang lừa Thích Trí Quang đấy. Ðể rồi xem. Họ làm nhiều cử chỉ để Trí Quang tin tưởng rằng họ ủng hộ ông ta, và Trí Quang sẽ thi thố hết các ngón nghề ra để chống Thiệu Kỳ. Cuối cùng Mỹ sẽ lật ngược thế cờ và thế là Trí Quang sẽ thất bại, uy tín của ông ta trước tín đồ phật giáo sẽ bị tổn thương và sau này người ta sẽ không dễ dàng gì nghe theo lời ông ta nữa.

Nguyễn nghĩ đến Phụng, đến lòng kính phục vô bờ bến của anh trước nhà sư này, một người đã từ lâu trở thành huyền thoại. Có lần Phụng cầm một tờ báo Time có in hình thầy Trí Quang ở bìa và bảo:

- Xem họ viết đây này: Một nhà sư uyên bác, một người biết rất nhiều ngoại ngữ nhưng chỉ nói tiếng Việt, một người không bao giờ đi xe du lịch Hoa Kỳ. Và Phụng chỉ cho Nguyễn xem tấm hình in trên báo Time chụp lúc Thích Trí Quang ngồi xe xích lô đạp.

Phụng thần thành hóa Trí Quang cũng như rất nhiều tín đồ, nhiều tăng ni phật tử khác. Họ sẵn sàng "tự thiêu dưới chân thầy" vì họ đều nghĩ rằng thầy đang đấu tranh để bảo vệ đạo pháp và dân tộc.

Và họ đã cùng Long xuống đường. Một cuộc mít-tinh cả chục ngàn người trước hội trường Qui Nhơn. Long đọc bài diễn văn dài một tiếng đồng hồ. Ðám đông sôi nổi, cuồng nhiệt.

Nửa đêm, cảnh sát bắt đẩu tấn công vô đại bản doanh của chúng tôi. Chúng ném lựu đạn cay, bắn vỡ các bóng đèn. Không ai còn một chút không khí nào để thở. Khói cay tràn ngập khắp nơi. Súng bắn loạn xạ. Nguyễn bảo tôi:

- Nếu cần chết, chúng ta sẵn sàng chết.

Anh nói câu ấy với hào khí ngất trời. Nhưng rốt cuộc chúng tôi chẳng ai chết. Cảnh sát chỉ bắn chỉ thiên, bắn vào tường và bắn các bóng đèn. Ðiều đó mãi sau này nằm chèo queo trong trại giam chúng tôi mới biết và chúng tôi rất buồn, chúng tôi thấy mình bị coi thường, bị xúc phạm ghê gớm.

Chỉ có Long mới là mục tiêu của cảnh sát. Chúng vây đánh anh, dùng báng súng đánh vào mặt vào chân anh. Anh ngã chúi xuống trong đống bàn ghế ngổn ngang. Chúng lôi anh ra sân trường đánh đấm túi bụi rồi vứt anh lên xe cây. Chiếc xe chạy giữa khuya thẳng tới ty cảnh sát. Tôi và Nguyễn đỡ Long nằm xuống đất, anh kêu lên một tiếng nhỏ. Tôi nhìn xuống thấy chân anh đẫm máu, máu rịn ra ướt cả ống quần. Tôi lần tay xuống tìm vết thương, Long nói nhỏ:

- Gãy xương rồi.

Nguyễn cởi cái áo thun mình đang mặc ra lót đầu cho Long và ngồi xuống một bên. Mặt đất đầy cát sạn, những viên sạn nhỏ, sắc cạnh như những cái gai của đất. Ðèn pha ở chung quanh Ty cảnh sát xoi mói vào trong từng mặt người. Mặt đất cũng sáng lên nhưng mấp mô lồi lõm bởi những ổ gà, những vết xe đi. Những người bị bắt ngồi lố nhố như đàn chim cánh cụt bị lùa vào sa mạc nóng bỏng. Các em học sinh không còn đùa giỡn nữa, chúng ngồi ngủ gật hay nằm lăn lộn dưới đất vì bị khói cay làm cho ngộp thở, làm cho nước mắt chảy ràn rụa.

Trời sáng dần. Bình minh đến phía sau những tán lá đen bên ngoài những bức tường nám khói và đầy kẽm gai. Bình minh xanh lơ không chút gợn mây. Mặt trăng như nét kẻ lông mày của ai đó anh đã thấy, nét lông mày màu sáng bạc nằm lẻ loi trong bầu trời quá rộng. Thằng nhỏ bán thuốc lá lúc nãy đã lên tiếng chào mời. Mọi người thức dậy, tụ tập lại chỗ vòi nước. Bọn cảnh sát bắt đầu la hét. Thằng nhỏ bán thuốc lá thì cứ cười. Nó vừa đi vừa đọc câu thơ:

Nếu đời là một chuyến đi

Dừng chân giây lát có chi mà buồn.

Ðó là hai câu thơ Long đã nghĩ ra đêm qua và truyền miệng cho thằng nhỏ. Thằng nhỏ rất thích hai câu đó. Và mọi người đều thích.

Buổi sáng chúng tiến hành hỏi cung. Trần Quang Long được đặt nằm trên một cái băng ca và khiêng thẳng vào phòng thẩm vấn. Sau đó lần lượt đến các thầy khác, các huynh trưởng gia đình phật tử ở chùa Long Khánh. Buổi chiều cô giáo dạy triết đến gởi cho Long cuốn Histoire duVietnamcủa Bernard Fall và gởi cho Nguyễn gói quà bánh, hộp sữa. Cô nghiêm nghị và buồn. Cô chỉ hỏi Nguyễn:

- Em cần gì nữa không?

Nguyễn thấy cô có vẻ gì hơi bực dọc nhưng anh lại không buồn về điều ấy, anh thương cô vô hạn, anh muốn nắm lấy bàn tay thon thả của cô mà hôn. Anh hiểu rằng giữa anh và cô có một khoảng cách lớn trong suy nghĩ, trong cách nhìn cuộc sống nhưng sao anh vẫn yêu mến cô lạ lùng, nhất là cái vẻ đăm chiêu, cái nhíu mày, cái thở dài kín đáo.

Buổi chiều đó rất buồn. Người ta đã đem Long đi đâu, chỉ còn lại Nguyễn và Dã Nhân cùng mấy anh em trong gia đình phật tử. Họ lần lượt bị hỏi cung, có người bị đánh bằng báng súng vô ngực, có người bị nện dùi cui vào đầu gối, vào ống quyển. Họ bước ra khỏi phòng thẩm vấn nhăn nhó và khập khiễng. Nguyễn ngồi đợi đến lượt mình. Nhưng người tiếp theo là một bác xích lô đạp mà bọn cảnh sát cho là kẻ xách động biểu tình. Sau đó là Dã Nhân. Cái dáng cao lêu khêu, hai tay dài quá gối, anh bước đi im lặng, anh ở trong phòng thẩm vấn gần một tiếng đồng hồ và bước ra cũng im lặng, cũng chậm chạp, hai tay dài quá gối. Anh trở lại chỗ cũ, ngồi ôm gối hút thuốc lá, không nói một lời. Ðến nửa đêm, Nguyễn cũng chưa thấy ai gọi đến tên mình, anh nằm cạnh Dã Nhân, lòng bồn chồn nghi hoặc. Tại sao họ lại không hỏi cung mình? Chúng quên chăng? Hay chúng không biết mình là ai? Nhưng làm sao lại có thể như thế được. Lúc nào mình cũng sát cánh bên Long, cùng Long thảo ra những bản tuyên cáo, những truyền đơn, những bài báo đọc liên tiếp trong các buổi phát thanh… A, có thể, có thể lắm. Chúng đang muốn đánh đòn cân não mình đây. Chúng bắt mình phải chờ đợi căng thẳng, phải hoang mang lo sợ và cuối cùng chúng sẽ làm thịt mình.

Suốt buổi sáng ngày hôm sau, Nguyễn chờ đợi nhưng vẫn không có ai gọi đến tên mình. Gần đến giờ cơm trưa, một viên cảnh sát mặc thường phục đến và ra lệnh:

- Ai có tên trong danh sách đứng qua một bên. Ai không có tên được trả tự do, chuẩn bị sắp hàng để ra cổng.

Các em học sinh reo lên mừng rỡ, không khí huyên náo khác thường.

Và Nguyễn lặng người khi biết rằng mình cũng không có tên trong danh sách những người ở lại.

Chưa bao giờ anh thấy mình bị coi thường, bị lăng nhục đến như vậy. Một viên cảnh sát áo trắng đẩy lưng anh về phía đám học trò nhỏ đang nhốn nháo chuẩn bị về nhà. Cử chỉ ấy làm anh tức nghẹn. Anh cưỡng lại cái đẩy thô bạo ấy và nói:

- Nhưng tôi chưa được thẩm vấn mà.

Viên cảnh sát ngạc nhiên trố mắt nhìn Nguyễn, rồi anh ta cười đầy vẻ chế diễu:

- A, chú em muốn thẩm vấn ha? Hay đấy. Vô đây!

Thế là hắn kéo Nguyễn vô phòng hỏi cung. Một nỗi vui sướng kỳ quặc nổi lên trong anh. Giữa lúc đám đông chuẩn bị về nhà thì anh bị giữ lại để thẩm vấn. Mọi người đều ngạc nhiên quay nhìn anh và điều đó làm anh sướng điên lên, kiêu hãnh bước đi như một tử tội hiên ngang bước thẳng tới pháp trường. Lúc ấy anh chỉ muốn bị chúng nó tra tấn ngay tại chỗ với đầy đủ dùi cui ma trắc, kềm kẹp.

Viên cảnh sát áo trắng đẩy anh vô phòng và anh gặp một ông già đang ngồi viết cái gì đấy nơi bàn làm việc của mình.

- Thằng nhỏ này nó muốn ông hỏi cung nó đấy.

Nói xong viên cảnh sát quay ra liền. Ông già đặt cây bút xuống và mỉm cười, hỏi:

- Em không muốn về à?

- Không. Nguyễn bực dọc về sự dịu dàng của ông già và đáp cộc lốc, cố chọc tức ông ta.

- Tại sao em không muốn về?

- Trong khi các bạn tôi còn ở lại đây chịu cảnh lao tù thì tôi không về.

- Các bạn em là những ai?

- Trần Quang Long.

- Em có biết Trần Quang Long là người thế nào không? Anh ta là cộng sản đấy.

Thật là quỷ tha ma bắt, suýt nữa Nguyễn đã buột miệng nói rằng "Tôi cũng là cộng sản đây." Anh đã kìm lại được nhưng rõ ràng trong lòng anh có ước muốn mãnh liệt muốn nói lên điều ấy. Ông già lại hỏi, vẫn bằng cái giọng thương hại:

- Thế em là bạn của một người cộng sản à?

Nguyễn không biết trả lời sao. Chẳng lẽ mình chối. Thế thì hèn nhát quá. Nhưng có nên nhận là bạn của một người cộng sản không? Nguyễn suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi là học trò của thầy Long. Tôi rất thương và phục thầy.

- Thế bây giờ em biết thầy là cộng sản, em còn thương và phục thầy không?

- Còn.

Ông già bật cười, chỉ chiếc ghế mời Nguyễn ngồi. Trong phòng chỉ có hai người, ông nói:

- Cậu em ạ, nói thế là dại nhé. Ở tù đấy. Em phải nói rằng em chỉ ham vui mà tham gia biểu tình thôi.

Nguyễn đỏ mặt cãi:

- Không đúng. Tôi biểu tình vì chống người Mỹ gieo rắc chiến tranh ở ViệtNam, vì tôi đã chọn lựa đứng về phía những người bị áp bức.

Một cái đạp bất ngờ từ sau tống tới. Nguyễn té nhủi xuống đất. Anh lồm cồm ngồi dậy và nhận ra tên cảnh sát lúc nãy dẫn anh vào. Hắn dứ dứ báng súng ru lô vào mặt anh và nói:

- Con điên rồi, con ạ.

Thế là Nguyễn bị tống ra đảo cùng với Dã Nhân. Từ chiều hôm qua, khi mới đến đảo này, Dã Nhân đã không ăn uống gì nhưng anh không làm ồn ào về chuyện đó. Anh nằm trên cát khi mọi người ăn chiều. Qua một đêm, sáng ra anh vẫn tỉnh táo đi theo toán quân. Buổi trưa đoàn người dừng lại nghỉ trong một vùng núi đá. Cây cối ở đây xơ xác, chỉ có dứa dại và những bụi sim rừng thấp lè tè, tuy vậy lại có nhiều hốc đá nên vẫn là một chỗ nghỉ chân rất tốt. Thấy Dã Nhân lại nhịn ăn và nằm xẹp trong một hang đá, Nguyễn cầm cà mèng của mình chui vào hang và ngồi cạnh anh, Dã Nhân mĩm cười với bạn, gương mặt tươi tỉnh và rất bình thường.

- Sao vậy? Nguyễn hỏi.

- Mình không thấy đói,

- Sao lại không đói. Từ hôm qua đến giờ anh có ăn gì đâu. Hay là anh tuyệt thực để phản đối.

Dã Nhân đặt bàn tay to lớn của mình lên lưng Nguyễn và nói rất hiền:

- Hồi nhỏ mình có theo học đạo với mấy thầy trong chùa. Các thầy đã dạy cho mình phép nhịn ăn.

- Nhưng cần gì anh phải làm như thế?

- Ðối với tôi, ăn hay nhịn ăn không có gì quan trọng. Tôi không muốn ăn những gì của người Mỹ và tôi có ý định nhịn ăn suốt thời gian ở đây, không biết là bao nhiêu ngày.

Ngày thứ tư, Dã Nhân vẫn tỉnh táo. Sáng sớm anh thức dậy ngồi xếp bằng theo lối kiết già trên một tảng đá lớn mặt hướng về phía Ðông và chờ mặt trời mọc. Anh ngồi im hàng giờ như thế lúc mọi người đang ngủ.

Toán quân đã leo được ba ngọn núi và đến đóng quân nơi một triền dốc đá dựng đứng mọc sát biển. Ðứng trên cao nhìn xuống thấy biển dường như câm lặng mặc dù sóng cứ từng lớp từng lớp bủa vào bờ trắng xóa. Buổi sáng lặng gió và tiếng sóng nghe xa, mơ hồ. Hai người bạn đứng nhìn ra khơi. Nguyễn nói:

- Anh không thể tiếp tục nhịn ăn mãi được. Chúng ta không biết là họ giữ chúng ta ở đây bao lâu.

- Mình đã nói với bạn là bạn đừng lo lắng cho mình về chuyện ấy nữa. Mình hiểu được việc mình làm chứ.

- Nhưng hôm nay anh ốm nhom.

Dã Nhân há cái miệng rộng gần đến mang tai ra cười. Anh nói:

- Tôi không ăn lương thực của loài người nhưng mặt trời đã nuôi tôi.

- Ðừng đùa, Nguyễn nói, anh tưởng là những người lính chai đá này và viên sĩ quan Mỹ kia sẽ nhượng bộ anh sao?

Dã Nhân nằm xuống tảng đá lớn ngửa mặt nhìn trời. Anh bắt đầu hát những ca khúc thật buồn. Ðó là thói quen của anh. Nguyễn ngồi xuống cạnh bạn và bỗng dưng anh thấy biển như sôi trào lên. Những đợt sóng trắng xóa cứ giăng hàng ngang mà đi vào bờ giống hệt như có từng đoàn người biểu tình cầm biểu ngữ trắng tiến sát vào vách núi dựng đứng nơi anh và Dã Nhân đang bị giữ.

Lúc ấy có tiếng bước chân của hai ba người đi đến. Viên trung úy Mỹ, trung úy ViệtNamvà hai người lính vũ trang cùng mình đang xăm xăm tiến lại gần.

°

Nguyễn và Dã Nhân được đưa về đất liền trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ của dân chài. Họ được trả về ty cảnh sát và người ta trả tự do cho họ một cách nhanh chóng, không bị hạch hỏi hay làm thủ tục giấy tờ gì rườm rà.

Về đến nhà, Nguyễn gặp Phụng và được biết hai cái tin quan trọng: Trần Quang Long đã được đưa từ Tây Nguyên về nằm điều trị tại quân y viện Qui Nhơn và Nguyễn đã có kết quả đậu tú tài hai.

Phụng vẫn còn hào hứng về kết quả kỳ thi.

- Hồi hộp dễ sợ. Tụi tao có mặt từ sân trường từ sáng sớm. Bảy giờ họ bắt đầu đọc danh sách. Thí sinh đứng đông nghẹt. Số ký danh cứ lớn dần. Chỉ cần nghe số ký danh là biết đậu rớt. Tụi con gái khóc thút thít, mắt đỏ kè. Tao nghe xướng tên tao, mừng run cả người, chừng ba phút sau là tên mày. Có một cái thằng nào, vừa nghe xướng tên nó, nó rú lên một tiếng, búng hai chân nhảy vọt lên qua khỏi cái xà ngang ở sân trường. Mày biết cái xà ngang bên gốc cây phượng chớ. Cao một thước bảy, thế mà không biết ma quỷ gì khiến mà nó nhún mình một cái đã vọt thẳng lên, nhảy qua luôn. Y như Tôn Ngộ Không.

Nguyễn hỏi:

- Còn Tiểu Phượng?

- Ðậu bình.

- Tụi nó có bàn tán gì vụ tao ra đảo không?

- Tụi con gái nó nói mày là nhà đại cách mạng.

Nguyễn cười lớn:

- Tao cũng mong như thế.

- Tụi nó nói mày bị cộng sản giựt dây.

- Ðồ ngu! Nguyễn tức điên lên. Ai giựt dây tao? Vì chính tao là cộng sản đây.

Phụng ngó quanh, sợ có người nghe câu ấy, còn Nguyển thì hả hê, vung tay nói oang oang giữa phố:

- Giỡn sao. Mày biết thầy Long là ai không? Người của Mặt Trận Giải Phóng. Chính ổng nói với tao như thế. Ổng còn dạy tao hát bài quốc ca của Mặt Trận. Mày muốn không, tao hát cho mà nghe.

Nguyễn định hát thì nghe có tiếng còi của cảnh sát thổi rét rét. Những người đi xe đạp và xe gắn máy đều bị chặn lại. Một đoàn xe Falcon đen bóng đang từ dưới đường Gia Long chạy lên, đậu ngay trước lầu Việt Cường. Trên xe bước xuống toàn sĩ quan tướng tá Mỹ. Bọn quân cảnh Mỹ bồng súng chào. Các sĩ quan Mỹ đi thẳng vô phòng khách của tòa cao ốc nơi được thuê làm đại bản doanh của quân đội Mỹ đóng ở Qui Nhơn. Trong bãi đậu xe có tới trên dưới ba mươi chiếc xe vừa falcon vừa xe jeep lùn. Những người đi đường bị chặn lại hơn mười lăm phút mới được giải tỏa cho đi.

Dã Nhân ở trong một căn nhà tôn thấp nghèo nàn trên bờ đầm Thị Nại. Nói là đầm nhưng thực sự đây là một cái biển lớn mênh mông trải rộng từ thành phố Qui Nhơn tới những ngọn núi xa của làng Phước Hải, Phước Lý, Gò Bồi… Những gia đình sống ở ven đầm Thị Nại thường làm nhiều nghề như bán hàng rong ở bến xe, đạp xích lô, khuân vác hay làm nghề chài lưới.

Ba Dã Nhân là một ông già thấp bé nhưng chắc chắn. Chân tay ông không to nhưng đầy bắp thịt. Nguyễn ngồi coi ông vá lưới trong khi chờ Dã Nhân thay quần áo.

- Mày sửa soạn đi đâu đấy? Ông già hỏi.

- Con đi với bạn vô bệnh viện thăm thầy.

- Thầy bịnh sao vậy con?

- Thầy bị gãy chân.

Ba chàng trai trẻ cưỡi ba chiếc xe đạp trành đi dọc theo bờ biển. Người đi đường sẽ không có ai hiểu được rằng trong ba chàng trai ấy có một chàng là kẻ hiền tài. Một người sẽ là đức Phật, người kia sẽ là nhà đại cách mạng, ôm mộng lớn cải tạo xã hội đem lại công bằng ấm no hạnh phúc cho cả loài người.

°

Trần Quang Long nằm trong một căn phòng rất rộng và thoáng, giống hệt như phòng riêng của anh. Giường kê cạnh cửa sổ, đầu giường là một cái tủ lớn cánh cửa tủ có thể đẩy qua đẩy lại được. Ðối diện với cửa sổ là bàn viết và một cái ghế tựa. Rõ ràng là căn phòng này rộng rãi và sang trọng hơn cả căn phòng ở nhà Long rất nhiều. Long đang nằm đọc cuốn Histoire du ViệtNammà cô giáo dạy triết đã cho hôm ở trại giam.

Long xanh xao hơn trước. Cái chân gãy đã được băng bột và trên lớp băng trắng cứng ngắc ấy, Long đã vẽ vời hoa lá chim chóc mặt người gần kín hết.

- Ðưa cho mình cái xe lăn.

Nguyễn ngó quanh phòng. Cái xe lăn ở ngoài hành lang, anh chạy ra kéo nó vô. Long to lớn dềnh dàng nên cả Dã Nhân lẫn Nguyễn mới đỡ anh vào xe được. Ngồi vào xe Long trông có vẻ phong độ hơn là nằm trên giường, giống hệt như anh đã leo lên được trên lưng ngựa. Anh lăn mạnh hai bánh xe cho chiếc xe lăn đi một đoạn dài, rồi cười ha hả.

- Bây giờ mình giống hệt đứa con nít mới tập đi, Long nói. Cho mình một điếu thuốc.

Bastos xanh, Bastos xanh, Bastos xanh. Mỗi người thảy vô mình Long một gói thuốc. Long chụp như một người làm xiếc. Cái dáng Long lúc đánh lửa diêm trông rất hay, bàn tay khum khum che ngọn lửa nhỏ, đầu nghiêng qua một bên. Long trẻ trung như một cậu học trò. Anh nói:

- Mình có rất nhiều cam và sữa hộp.

Cánh cửa tủ mở ra và, giống như một tiệm tạp hóa mọi người thấy hàng đống cam, sữa hộp, đường, kẹo, thuốc lá…

- Trời ơi! Ở đâu mà nhiều vậy?

Câu trả lời đã chờ sẵn ngoài cửa phòng. Hơn mười người phần lớn là đồng bào Phật tử. Họ đem quà đến thăm người lãnh tụ phong trào đấu tranh chống Mỹ Thiệu Kỳ đàn áp Phật giáo. Từ hôm Long được chuyển về điều trị tại đây, đã có biết bao nhiêu lượt tín đồ Phật giáo đến thăm anh như thế.

Long chắp tay xá mọi người để đáp lễ và rồi anh đưa tay chỉ lên mấy ngăn tủ:

- Xin đa tạ tấm lòng của bà con, nhưng mấy hôm nay bà con cho quà nhiều quá, ăn làm sao cho hết.

Nhưng cam sữa và đường vẫn cứ bay lên những ngăn tủ, xếp hàng ngay ngắn cạnh những thứ đã có. Những cụ già, những chị phụ nữ, những ngư dân xúm lại an ủi, cầm tay, vuốt ve Long. Gần một tiếng đồng hồ sau mọi người mới về hết. Bốn thầy trò bày bánh mì sữa và trái cây ra bàn. Một cái tiệc chay thịnh soạn. Thầy trò ăn uống no nê. Long kể chuyện lên rừng, Nguyễn và Dã Nhân kể chuyện ra đảo. Phụng thì ngồi nghe, trong đầu hình dung ra đủ thứ chuyện. Anh nghĩ một cách đơn giản rằng thầy Trí Quang chống Mỹ Thiệu thì cũng có khác gì là Mặt Trận Giải Phóng và như thế là Phật giáo và cộng sản chắc là có những điểm căn bản giống nhau.

Xế chiều, Dã Nhân và Phụng ra về. Nguyễn đẩy cái xe lăn đi loanh quanh dọc theo những dãy hành lang của bệnh viện. Những người lính Sàigòn bị thương cũng ăn mặc giống như Long, họ cũng đi loanh quanh trên hành lang hay đứng nói chuyện với nhau trong sân. Tất cả đều có vẻ mệt mỏi và uể oải. Nguyễn có ý nghĩ buồn cười là trong một quân y viện từ các bác sĩ, y tá đến bệnh nhân đều là quân nhân của chế độ Mỹ –Thiệu, bỗng dưng lại lọt một "đồng chí" Việt cộng (và cũng có thể là hai) vào đây và đi loanh quanh khắp nơi. Tuy vậy dường như những người lính này không cần biết Long là ai, họ nhìn anh bằng những đôi mắt mệt mỏi và u buồn của những người bệnh đang xa nhà.

Trời tối dần, những cái bóng trắng bây giờ chỉ còn là những bệt màu nhạt nhòa phía xa. Nguyễn đẩy xe lăn ra đứng nơi hành lang ngó ra biển. Biển cũng buồn và gió thì cứ lồng lộng. Tiếng sóng vỗ nghe ì ầm, dữ dội, nhưng vẫn cứ buồn, vẫn cứ thấy xa thẳm mơ hồ mặc dù những ngọn sóng kia chỉ cách chỗ hai người có một hàng dương. Long nói:

- Niên khóa tới chắc mình sẽ bị đổi đi nơi khác.

- Ði đâu?

- Chưa biết được, nhưng chắc là nó không để mình dạy ở đây nữa. Còn em, em sẽ vào đại học nào?

- Chắc là Sàigòn.

- Sàigòn là nơi phong trào sinh viên rất mạnh. Ðời em sẽ trưởng thành ở môi trường đó. Mình vẫn hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở đó.

Long đốt thuốc lá và ép Nguyễn hút một điếu cho vui.

Hai thầy trò lặng lẽ hút thuốc. Dường như cả hai đều lắng nghe tiếng sóng. Cả hai đều cảm thấy sóng rất gần mình nhưng lại ở mãi đâu xa không thấy được. Sóng như tiếng gọi cồn cào trong lòng.

Có tiếng ai ca vọng cổ ở đầu hành lang. Phía ấy lô nhô mấy cái bóng trắng. Có lẽ đó là những người lính gốcNambộ bị thương về nằm đây. Thấy Long và Nguyễn đứng gần, họ gọi:

- Lại đây chơi, mấy anh.

Long bảo Nguyễn đẩy xe lại gần họ. Ðó là những người lính Sàigòn còn rất trẻ và trông có vẻ quê mùa tội nghiệp. Hai người cụt tay, một người khác chân bị cưa lên tới quá đầu gối. Người thứ tư bị băng kín một con mắt. Họ xa nhà, nhớ người thân nên ngồi lại với nhau hát vọng cổ. Thấy Long băng bột, họ hỏi:

- Anh đụng trận nào vậy?

Long cười, nói:

- Tôi cũng giống như các anh. Mình là người ViệtNam, có muốn đánh nhau đâu nhưng vẫn cứ ăn đạn. Cũng may là không đến nỗi phải cưa. Anh em ở tỉnh nào?

- Dạ, tụi em ở Bến Tre. Có thằng ở Sa Ðéc nhưng đều là lính của sư đoàn 22.

- Các em nằm ở đây, người nhà có hay không?

- Không. Ở xa quá, tụi em cũng không nhắn làm gì. Ðể xuất viện về luôn. Anh ăn mấy hột đậu phộng cho vui.

Long tiếp lấy mấy hạt đậu rang trên tay người lính trẻ. Rồi anh bảo Nguyễn:

- Về mở tủ. Lấy nhiều nhé.

Nguyễn ôm quà trước ngực. Quà nhiều quá làm những người lính sửng sốt. Long nói đùa một cách đáng yêu:

- Các bạn biết không, nhà tôi giàu lắm. Ba má, anh em và bè bạn tôi đem cho tôi cả một tủ quà, không cách gì ăn cho hết. Xin các bạn hãy ăn giúp tôi nhé. Và đem về chia cho những anh em khác nhất là những người bị thương nặng.

Cung cách của Long làm họ đổi cách xưng hô, một người nói:

- Cám ơn đại úy. Ðại úy cho tụi em nhiều quá.

Long cười khà khà. Nguyễn đẩy xe đưa Long về phòng. Và khi anh vừa đỡ Long nằm xuống giường thì một tiếng nổ vang rền dữ dội, từ phía thành phố vọng lại.

Sau đó là một phút im lặng ghê gớm.

- Chuyện gì vậy?

Có tiếng hỏi nhau xì xào ngoài hành lang.

Nguyễn nhìn Long sửng sốt. Long nghiêng người qua, nói nhỏ vô tai Nguyễn:

- Ðặc công. Chắc là đặc công rồi.

Hỏa châu bắn đỏ trời. Ánh đèn xoay vòng trên cao soi rõ từng con kiến trên mặt đất. Tiếng hỏa châu nổ lụp bụp. Bóng cây lá trong vườn hoa đổ ngả nghiêng theo chiều hỏa châu xoay vòng. Tiếng trực thăng bắt đầu lạch bạch nổ, càng lúc càng nhiều, càng khua động bầu trời và át cả tiếng sóng ì ầm. Hỏa tiễn bắt đầu rít lên khủng khiếp. Ðó là lần đầu tiên trong đời Nguyễn nghe hỏa tiễn bắn từ trên trực thăng xuống thành phố. Nó rít lên ghê rợn rồi nổ bùng ở đâu đó. Thế mà thành phố thì vẫn câm lặng. Mấy chục chiếc trực thăng quần đảo cả giờ đồng hồ, phóng hàng trăm hỏa tiễn và vô số đạn đại liên M60 rồi mới chịu im tiếng.

Không ai biết chuyện gì đã xảy ra.

°

Lầu Việt Cường sụm xuống như một cái đèn xếp. Cảnh vật tự nhiên lạ hẳn đi vì cái khối bê tông khổng lồ kia bỗng nhiên biến mất. Sáng hôm qua nơi đây cảnh sát đã dọn đường cho phái đoàn quân sự cao cấp Mỹ đến lầu Việt Cường họp. Và sáng nay những người cảnh sát này lại đến, cùng với quân cảnh Mỹ, cô lập khu vực này lại cho công binh Mỹ dùng cần cẩu bốc những tảng bê tông lên và chui vào lấy xác.

Ðến chiều ngày thứ hai mùi hôi thúi đã bốc lên nồng nặc. Người Mỹ phải dùng xe vòi rồng đến xịt thuốc sát trùng và thuốc giảm mùi hôi để cho đội cấp cứu có thể làm việc được.

Nhưng Nguyễn không để ý đến những xác chết ấy, anh chạy đến nhà Dã Nhâ