Ghi chép tản mạn ở nước Nga 1. Thảo nguyên
Tháng 7 năm 1993.
Tôi đang ghé thăm một thành phố biên giới ở Mãn Châu Lý và trong cái tên Vương Gia Bảo, tôi nối gót một đoàn du khách vượt qua biên giới đặt chân lên nước Nga trong vòng hai tư tiếng đồng hồ.
Những thành phố của nước Nga chưa bao giờ là nơi hấp dẫn đối với tôi, cũng chưa bao giờ nghĩ là mình đến thành phố Nga để mua sắm gì; mục đích của tôi theo chân đoàn du khách vào đất Nga cốt là để ngắm thảo nguyên. Quê hương tôi cũng có thảo nguyên nhưng nó không hoàn toàn giống như trong trí tưởng tượng của tôi. Trong tưởng tượng của tôi, thảo nguyên là phải ngút ngàn tầm mắt, phải có cỏ mọc xanh mướt, phải có bò có dê thấp thoáng xa gần, phải có những đóa hoa dại tươi tắn điểm xuyết trong màu xanh rợn ngợp của cỏ, phải có những cánh chim chao liệng và hót vang giữa mây ngàn và bên dưới là những dòng sông quanh co uốn khúc. Nhưng những thảo nguyên quê tôi lúc nào cũng hiện ra trước mắt tôi với một màu vàng úa, đây đó lại có những ngọn đồi trọc chẳng khác những chiếc đầu hói nhấp nhô. Không có gió lùa qua kẽ lá, không có những làn sóng cỏ xôn xao, nhưng bò dê lại rất nhiều, hết đàn nọ nối đàn kia. Một thảo nguyên khô cằn, những cọng cỏ lơ thơ gầy yếu, làm sao có thể cung cấp đủ lượng thức ăn cho những đàn bò đàn dê kia? Cũng không có những đóa hoa, lớn thì to bằng nắm tay, nhỏ thì như những hạt thóc điểm xuyết trong biển cỏ xanh rờn vươn đến tận chân trời như trong trí tưởng tượng của tôi. Cũng có những con sông, nhưng đa phần chúng đều cạn khô đến trơ đáy, họa hoằn mới có những khúc sông còn nước nhưng là một thứ nước đục ngầu những bùn. Cũng có chim nhưng cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay và tôi nghĩ, những con chim này cô độc ghê gớm, có con đang lững thững những bước chân nặng nề trên đường, có con chấp chới trên trời và buông những tiếng kêu buồn da diết. Không may làm sao, con đường rải nhựa rộng thênh thang lại xẻ vùng thảo nguyên vốn chẳng rộng rãi cho lắm ra làm hai nửa, hai bên đường thi thoảng cũng có một vài quán rượu tồi tàn với những chiếc đầu dê máu thịt bầy nhầy vất lăn lóc trên sạp hàng trước quán, vẫy gọi những đàn ruồi bay vù vù như ong vỡ tổ. Tìm ở đâu cho ra một thảo nguyên như trong mộng tưởng của tôi? Người bạn Mãn Châu Lý nói: Đi qua phía bên kia mà xem, thảo nguyên bên ấy có lẽ sẽ làm anh hài lòng!
Vượt qua biên giới, chiếc xe khách nghiêng nghiêng vẹo vẹo chạy trên con đường đất gồ ghề tiến thẳng vào địa phận nước Nga. Hai bên đường, thảm cỏ xanh ngát, hoa dại đua chen rực rỡ khoe sắc. Trên vùng thảo nguyên ngút ngàn tầm mắt, không có bóng dáng một gia súc nào và tất nhiên cũng chẳng có bóng dáng một con người. Đêm qua có lẽ đã có một trận mưa lớn ập xuống nên trên con đường đất, những vũng nước ngầu đục một màu vàng, con mương hai bên đường nước ngập tràn bờ, không màu và trong suốt. Ở bên phía chúng tôi thường không có mưa, trên thảo nguyên thường là khói bụi mù mịt. Chỉ cách nhau một tuyến biên giới mà cả trời lẫn đất đều có những khác biệt dị thường, đây là điều làm tôi kinh ngạc nhất. Tôi hỏi người bạn Mãn Châu Lý ngồi bên: Việc này là thế nào? Anh bạn trả lời: Thảo nguyên của chúng tôi bên ấy chăn thả gia súc quá nhiều nên quá tải, nó đã biến thành một kiểu thảo nguyên già nua mỏi mệt. Ở bên này, trên thảo nguyên không quá nhiều gia súc cho nên cỏ bời bời xanh ngăn ngắt và nhìn toàn cảnh là một thảo nguyên tươi trẻ, khỏe mạnh và đầy sức sống. Tôi lại hỏi: Thế tại sao chúng ta lại không nuôi ít gia súc? Anh bạn cười: Lẽ nào tôi lại phải trả lời anh câu hỏi này? Đúng rồi, câu hỏi này kể ra cũng chẳng cần phải có câu trả lời nữa.
Càng tiến sâu vào trong đất Nga, hơi thở của cuộc sống càng trở nên nhạt nhòa, hình bóng con người càng trở nên thưa thớt. Cỏ dại mọc lan ra đến tận giữa đường, lòng đường càng lúc càng trở nên hẹp và rất khó phân định đâu là đường đi, đâu là bãi cỏ. Thảo nguyên mênh mông vượt ra khỏi tầm nhìn. Cả đất trời này chỉ có mỗi chiếc xe của chúng tôi hiu quạnh bò trên con đường hiu quạnh. Thỏ hoang và chuột thi thoảng chạy băng ngang qua đường, con nào cũng to tướng và mập mạp, ung dung và dạn dĩ, chẳng tỏ vẻ gì sợ hãi. Trên đầu chúng tôi, không biết cơ man nào là chim đang chao liệng trong ánh nắng rực rỡ, có con bay vòng, có con bay thẳng, có con hạ cánh xuống, có con bay vút lên… Tôi vẫn nghe được tiếng chim ríu rít như những em nhỏ vừa nghe chuông tan lớp trong tiếng gầm rú của chiếc xe cà tàng. Xa xa là những dãy núi nhấp nhô cùng một màu với thảo nguyên, chứng tỏ rằng những bãi cỏ bằng phẳng cũng đang phủ dày trên những sườn núi thoai thoải. Dãy núi nhấp nhô khiến tôi liên tưởng đến một thiếu nữ mỡ màng đang nằm ngửa, những ngọn núi trông như những khuôn ngực đẫy đà. Tôi đã cảm nhận được hơi thở của thảo nguyên Nga, hình bóng của những nhà văn Nga vĩ đại như Dosxtoiepxki, Tuocghenhiev, Solokhov… cũng hiện ra trước mắt tôi một cách rõ ràng. Bởi tôi đã từng đọc sách của những con người nổi tiếng ấy, đã từng bị họ mê hoặc bởi những trang viết về thảo nguyên Nga của họ, nên lòng tôi cũng sản sinh những cảm giác rất đặc biệt, cho dù những thảo nguyên dưới ngòi bút của họ chưa chắc đã là vùng thảo nguyên đang ở dưới chân tôi bây giờ, mặc dù tôi thầm ao ước điều này. Đúng rồi, đây phải là thảo nguyên của họ, mà thảo nguyên của họ cũng chính là thảo nguyên của toàn nhân loại.
Đến gần trưa thì xe dừng. Chúng tôi cúi khom người bước xuống xe, đàn ông đàn bà chia ra hai bên đường và bắt đầu tưới thêm một chút dinh dưỡng cho thảo nguyên Nga. Xong rồi thì vươn vai cúi người khom lưng và tranh thủ hít thở cái không khí hoang sơ ngát mùi hoa cỏ, tinh thần thư thái vô cùng. Ai cũng nhìn gần nhìn xa, ai cũng cúi đầu xem hoa cỏ và ngẩng đầu nhìn trời cao. Quá đẹp, quá tự nhiên, nhưng quá đáng tiếc vì đây không phải là tổ quốc, là quê hương mình. Lại nghĩ đến Mặt trăng, sao Hỏa, sao Kim, sao Mộc hoang lương hiu hắt… Trong cõi vũ trụ mênh mang này có một địa cầu nho nhỏ xanh xanh màu ngọc thạch, trên đó có những vùng đất xinh đẹp như thế này và trong đó có tôi, với tư cách là một con người, vốn được kết hợp một cách ngẫu nhiên bởi những nguyên tố đồng, sắt, bạc, vàng…, có thể hít thở, có thể tư duy, đúng là một hạnh vận. Thảo nào con người đã từng cảm thán: Sống là tất cả, sinh mệnh là đáng quý; cỏ là một kỳ tích, cây là một kỳ tích, hoa là một kỳ tích còn tôi đây chính là kỳ tích trong tất cả những kỳ tích. Nghĩ được như vậy, chuyện tiếc nuối sẽ không còn tiếc nuối, chuyện cảm khái không còn cảm khái nữa. Nếu tất cả mọi người đều nghĩ như vậy, tôi nghĩ, nước này nước kia không còn biên giới nữa, không còn dân nước này nước kia nữa, không còn vua này vua kia nữa, không còn bầy tôi này bầy tôi kia nữa… Đến ngày ấy, thế giới này sẽ không còn cách xa với tư tưởng Cộng sản chủ nghĩa của Các Mác lắm đâu… Người hướng dẫn gọi to: Nào, lên xe thôi!
Chiếc xe không nổ được nữa. Người lái xe lầm bầm chửi, vất chiếc mũ lưỡi trai xuống ghế rồi nhảy xuống đất: Đồ chó chết, chạy mệt rồi à, nhưng đây đâu phải là chỗ để mày nghỉ ngơi! Anh ta mở nắp thùng máy, vươn đầu và tay vào trong không biết sờ mó chỗ nào. Mọi người chờ đợi mấy phút, có ai đó đã sốt ruột cất tiếng than phiền. Người hướng dẫn xuống khỏi xe cúi gập người bên cạnh lái xe, dùng tiếng địa phương hỏi một câu gì đó biểu thị sự quan tâm nhưng lái xe không thèm trả lời. Đã nửa tiếng trôi qua, mọi người đã tỏ ra lo lắng và bàn tán xôn xao, có những lời phát biểu rất khó lọt lỗ tai. Mặt mày lái xe đầy mồ hôi, cằm và cổ lấm lem dầu mỡ, tức giận trừng mắt nói: Nói thế mà nghe được à? Ai muốn nó hỏng giữa đường thế này. Chiếc xe chết tiệt này đáng ra phải về hưu lâu rồi nhưng nó cũng như cán bộ nhà nước vậy, lần khần mãi có chịu về hưu đâu. Nhưng cũng không phải nó không muốn nghỉ hưu mà là sếp của chúng tôi không muốn cho nó nghỉ hưu đấy thôi. Cục trưởng của chúng tôi là người vắt cổ chày ra nước, các người có bực tức gì thì cứ đi tìm lão ấy mà nói, nói với tôi phỏng có ích gì? Lại có một người nào đó buông một câu rất khó nghe nữa, lái xe cáu tiết: Muốn chờ thì cứ chờ, không chờ được thì xuống mà đi bộ vậy! Nói xong thì vung quyền đấm mạnh vào thùng xe. Rầm! Mọi người trên xe giật mình. Đưa mắt nhìn thảo nguyên mênh mông với con đường hun hút, phía trước không thấy người Nga, phía sau không thấy đồng bào mình; đây quả là hoàn cảnh như người xưa nói: Trước không thấy làng, sau không thấy quán, huống hồ hoàn cảnh chúng tôi là ở trên đất của một quốc gia, một dân tộc khác. Mọi người đều đã nhận ra thực tế đáng sợ này nên những tiếng than thở chửi bới dần dần lắng xuống, ai cũng cố gắng ngậm miệng, trong lòng như lửa đốt nhưng vẻ mặt cố tình làm ra vẻ nhàn nhã ung dung chờ đợi. Có người huýt sáo mồm, có người tựa đầu vào ghế nhắm mắt, có người đưa điếu thuốc mời lái xe, động viên: Cứ bình tĩnh mà chữa, chúng tôi chờ, đừng vội. Có người xuống xe và tôi cũng là một trong những người ấy.
Chúng tôi không dám đi xa bởi sợ tay lái xe cục cằn này mà sửa được sẽ phóng chạy ngay, bỏ chúng tôi lại giữa mênh mông thảo nguyên này. Nhưng đến ba giờ chiều, chiếc xe vẫn là một đống sắt bất động. Người hướng dẫn chửi nhau một trận với lái xe, gương mặt trắng bệch gườm gườm nhìn lái xe. Lái xe cũng giận dữ chẳng kém, tay cầm mỏ lết đập mạnh vào thùng xe, vung chân đá vào bánh xe, chửi một câu rất tục rất bẩn rồi ngồi bệt xuống đất phì phèo hút thuốc. Tôi cố thu hết can đảm đến bên anh ta, hỏi: Ông anh ơi, chừng nào thì chữa xong? Anh ta trừng mắt nhìn tôi, gắt: Ông hỏi tôi, tôi hỏi ai đây?
Thế là tôi yên tâm sải bước đi sâu vào trong lòng thảo nguyên.
Những lá cỏ non mềm cọ vào quần tôi kêu lên lạo xạo, tay tôi thi thoảng lại vung ra ngắt những đóa hoa dại to bằng nắm tay màu đỏ sậm. Một cảm giác mềm mềm, lành lạnh từ những cánh hoa truyền vào lòng bàn tay khiến cho đầu óc tôi dấy lên một nhục cảm không lành mạnh. Tôi nghĩ đến Natasa, nghĩ đến Acxinhia… Tôi nghĩ đến cái đêm cắt cỏ khó quên ấy, đêm cắt cỏ của Grigori và Acxinhia. Tôi dự cảm rằng, đêm nay chúng tôi sẽ ngủ trên thảo nguyên này. Trời rất cao và lại rất trong nên ánh nắng trên thảo nguyên vô cùng gay gắt, những luồng hơi nóng từ dưới mặt đất bốc lên. Trong không khí ẩm thấp đậm đặc mùi cỏ, mùi hoa, mùi bùn… và còn có cả mùi văn học. Buổi chiều tà trên thảo nguyên như một chiếc nồi hấp vĩ đại, may mắn lắm mới có những làn gió nhẹ từ nơi xa xăm thổi về khiến những cảm giác bức bối được giải tỏa. Gió thổi lướt qua, những làn sóng cỏ cuồn cuộn đuổi theo nhau lúc nhô lên lúc thụp xuống, những cánh hoa rung rinh uốn mình trong gió dễ khiến người ta sinh lòng cảm thương, một lòng cảm thương không rõ ngọn nguồn nhưng rất ngọt ngào, rất êm dịu và không thể xác định được đó là lòng cảm thương trong hạnh phúc hay khổ đau. Tôi đứng lặng người rất lâu, đôi mắt dõi về nơi xa xăm nhưng kỳ thực là chẳng trông thấy gì. Đôi mắt tôi đang hướng vào lòng mình để nhìn nhận một dân tộc Nga vĩ đại với những tính cách buồn mà không thảm, phóng túng mà không điên cuồng.
Hoàng hôn đã buông xuống, mặt trời đỏ rực đã chìm sau dãy núi như người thiếu nữ nằm ngửa xa xa, cảnh sắc trên thảo nguyên trông như trong những bức tranh sơn dầu của trường phái ấn tượng, sắc màu đậm đặc đến độ không thể phân định được. Chim chóc đang ào ào hạ cánh xuống những lùm cây tìm chốn ngủ, bóng những con diều hâu đen mờ vút như điện xẹt trên không trung. Đến lúc này, thảo nguyên đã bắt đầu se lạnh. Bình thường, trong cảnh sắc thiên nhiên này cảm giác cơ bản của con người là thư thái, nhưng tất cả mọi người đang bực bội vì sự trở chứng của chiếc xe khiến họ bị giam cầm nơi thảo nguyên hoang vu không có bóng người, không có một sợi khói chiều nào, con đường phía trước mông lung, lành dữ thế nào mấy ai đã biết trước. Thế cho nên, cho dù cảnh sắc có hấp dẫn mấy đi chăng nữa cũng liệu có mấy ai quan tâm ngắm nhìn? Có mấy người đang vây lấy người hướng dẫn yêu cầu anh ta nghĩ cách gì đó để giải quyết. Anh ta lắc đầu cười khổ, đưa mắt nhìn lái xe. Lái xe nói: Chớ có nhìn tôi, nhìn tôi chẳng được gì đâu! Chiếc xe này ruột gan đã nát bét rồi, đừng nói là tôi chữa không được, ngay cả Thượng đế xuống đây cũng phải bó tay. Các người nhìn tôi làm gì? Muốn ăn tươi nuốt sống tôi à? Lẽ nào tôi không muốn lúc này mình đã có mặt tại thành phố Hồng Thạch, uống một ly rượu mạnh rồi chui vào tấm chăn trắng tinh, thú vị biết chừng nào? Anh bạn tôi ngắt lời anh ta: Anh bạn, anh nói ít thôi, nói nhiều phí lời, nên để cái đầu nghĩ cách gì đó đi! Lái xe nói: Tôi đã nói rồi, cách tốt nhất là cứ đợi, đợi đến khi có chiếc xe nào đó chạy qua đây, tôi sẽ nhờ nó kéo xe của chúng ta đi! Một cô gái khó đoán tuổi tác nói: Bác tài à, trên thảo nguyên này có chó sói không? Lái xe nói: Yên tâm đi! Nếu có cũng chẳng phải lo lắng gì vì thỏ hoang trên thảo nguyên nhiều vô số, sói ăn đã căng bụng rồi. Chị có tự nguyện đến trước mặt sói, nó cũng chẳng thèm há miệng ra đâu! Mọi người đều dở khóc dở cười. Cô gái vừa bỏ đi, lái xe đã hạ giọng nói: Thịt của cô liệu sói có thèm ăn hay không? Người bạn nói với tôi: Anh bạn, oan uổng cho anh quá! Tôi nói: Rất tốt, đúng là rất tốt! Có thể qua đêm trên thảo nguyên Nga là cơ hội ngàn năm có một. Người bạn nói: Rất mong đấy là những lời xuất phát từ đáy lòng của anh!
Mặt trời vừa lặn thì ánh trăng đã buông xuống trên thảo nguyên, ban đầu có chút đùng đục nhưng một lát sau đã trong veo. Trăng vàng rực rỡ lấp loáng như thủy ngân rót xuống mặt đất. Thảm cỏ im lìm, không gian yên ắng trong một thoáng rồi tiếng côn trùng bắt đầu vang lên chung quanh chúng tôi. Ban đêm, thảo nguyên vẫn không nghỉ ngơi, thậm chí còn biểu hiện một sức sống sinh động hơn cả ban ngày. Ai đó có chút tâm hồn lãng mạn nhặt một ít cỏ khô chất lại thành đống nhỏ và châm lửa. Trong ánh trăng vằng vặc, đống lửa trở nên yếu ớt bạc nhược và dường như chẳng có độ nóng nào, giống hệt một dải lụa hồng đang phất phơ. Côn trùng kéo thành đàn lao vào ngọn lửa, bị đốt cháy bốc mùi khét lẹt. Nhưng đống lửa đã lụi tàn, chỉ còn lại một đống tro âm ỉ khói. Độ ẩm trên thảo nguyên quá lớn, cỏ khô khó cháy, vả lại ai nấy cũng đều trĩu nặng ưu tư nên chút lãng mạn trong tâm hồn cũng không thể kéo dài. Thảo nguyên mênh mông và thoáng đãng, chỉ cần có một chiếc xe chạy trên đường với khoảng cách mười cây số là chúng tôi đã có thể nhận biết. Mọi người đưa mắt trông ngóng về phía hai đầu con đường, chỉ thấy ánh trăng mênh mang, thảm cỏ mông lung, chẳng thấy xe thấy người. Đã đến thời điểm này chắc có lẽ không còn chiếc xe nào lưu thông trên đường. Mọi người đã tuyệt vọng, người lẩm bẩm văng tục, người chửi vu vơ, có người trèo lên xe cố dỗ giấc ngủ để qua cái đêm dài dằng dặc này nhưng tôi biết tất cả đều ở trong trạng thái mơ mơ hồ hồ mà thôi.
Tôi kéo tay anh bạn đi sâu vào trong lòng thảo nguyên. Chúng tôi rẽ cỏ mà đi và có cảm tưởng như chúng tôi đang rẽ ánh trăng mà đi, chính xác hơn là tôi như đang bơi trong dòng sông trăng. Tôi mở lòng bàn tay ra và nắm lại, có cảm giác là mình đã nắm đầy ánh trăng trong lòng bàn tay cồm cộm, thậm chí là cảm nhận được tiếng vỡ của trăng. Cứ thế chúng tôi đi, ban đầu còn tỉnh táo, tiếp theo dần dần bước vào trạng thái mộng du tê liệt nhưng tràn trề hạnh phúc. Người bạn của tôi không thể đi nổi nữa rồi, anh ta bảo: Ông bạn à, đừng đi nữa, đi nữa là chúng ta sẽ đến Matxcơva mất thôi! Tôi không để ý đến anh ta nữa, tiếp tục bước đi. Tôi biết anh ta đã cảm thấy buồn chán, đi như mộng du dưới trăng thảo nguyên, chân bị sương đêm làm cho ướt đầm, tay và mặt bị muỗi đốt cho ngứa ngáy khó chịu; người đi bên cạnh là một gã đàn ông thô lỗ mà không phải là một thiếu nữ đa tình, cho nên chuyện buồn chán của anh ta thật dễ hiểu. Mọi chuyện cứ lặp đi lặp lại: Cỏ quấn vào chân chúng tôi, côn trùng kêu rỉ rả và muỗi đốt lên mặt chúng tôi, trăng vẫn chiếu lên người chúng tôi… Nhưng những hứng thú của tôi chính là ở sự lặp đi lặp lại này, hạnh phúc của tôi cũng chính là ở sự lặp đi lặp lại này.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng dừng chân ở một triền đồi thoai thoải. Tôi đưa mắt nhìn bốn phía và phát hiện từ một nơi rất xa có những vầng sáng nhạt nhòa hắt lên trời. Anh bạn bảo: Đó chính là thành phố Hồng Thạch, chỉ có thể nhìn mà không thể đến! Tôi nói: Lão huynh à, tôi đã vô cùng thỏa mãn. Cảm ơn người lái xe, cảm ơn chiếc xe cà tàng. Anh ta nói: Tôi có quen biết với một nhà văn, để chứng minh sự khác biệt của mình với những người bình thường, người ta nói thối thì anh ta nhất định phải nói là thơm; người ta nói thơm thì nhất định anh ta bảo thối. Tôi nói đó là chính tôi. Anh ta cười lên ha hả. Cỏ trên triền đồi không ướt lắm, chúng tôi ngồi xuống, hút một điếu thuốc rồi nằm ngửa ra. Những con côn trùng nho nhỏ đã bò lên bắp chân tôi nhưng tôi chẳng thèm quan tâm. Tôi ngửa mặt nhìn trời. Đây là lần đầu tiên tôi biết bầu trời đêm rực rỡ đến nhường ấy. Trong bản hòa âm đủ giọng điệu và đủ cung bậc tạo nên một sự yên tĩnh lạ kỳ của thảo nguyên, tôi cố gắng lắng nghe tiếng nói của các vì sao trên cao tít tắp kia. Sao đêm lấp lóa chao đảo như đang muốn rơi xuống. Sao băng như những ngọn lửa vạch ngang vòm trời. Người già Trung Quốc nói với thế hệ con cháu: Dưới mặt đất có một người chết đi thì trên trời rụng một vì sao. Người già Nga nói với thế hệ con cháu: Trên trời rụng một vì sao thì dưới đất có một người chết đi. Chúng ta cùng có chung một bầu trời trên đầu và khi chúng ta ngẩng đầu lên nhìn nó, ý thức về biên giới quốc gia lại trở nên mơ hồ mông lung. Nhưng chúng ta không thể ngẩng đầu mãi mãi, chủ yếu là chúng ta cúi đầu. Khi cúi đầu là chúng ta đối diện với hiện thực tàn khốc. Con người đang tràn ngập trên lãnh thổ Trung Quốc nhưng trên đất nước Nga này, con người thưa thớt vô cùng. Trên các thảo nguyên Trung Quốc có quá nhiều gia súc nên chúng trở nên già cỗi mỏi mệt; những cánh rừng già trên lãnh thổ Trung Quốc ngày càng ít đi, diện tích gieo trồng ngày càng thu hẹp… Cho dù là như vậy, thị trường của chúng ta ngày càng phồn vinh, vật giá ổn định. Còn Nga thì sao? Anh có những thảo nguyên mênh mông, anh có những cánh rừng rậm bát ngát, anh có những cánh đồng màu mỡ… nhưng tại sao anh vẫn còn nghèo đến như vậy? Người Nga muốn đưa kinh tế gia đình trở thành thường thường bậc trung thực tế là chẳng khó khăn gì. Những thử nghiệm về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô trước đây đã thất bại một cách tương đối triệt để, còn nền kinh tế lúc này vẫn còn đang ở trong trạng thái mơ mơ màng màng sau cú sốc lớn. Nhưng điều kiện tự nhiên của Nga quá ưu việt, đất đai mênh mông, tài nguyên phong phú, nhân khẩu không nhiều, nếu người Nga muốn giàu lên chắc chắn là sẽ dễ dàng hơn người Trung Quốc chúng ta nhiều. Lúc này tôi đã nghĩ: Họ chẳng bao giờ nghèo khổ mãi đâu. Chúng tôi muốn dùng sự nghèo khổ tạm thời của người Nga để chứng minh một suy nghĩ thực sự rất ấu trĩ: Tư bản chủ nghĩa không bằng xã hội chủ nghĩa. Và cũng với cái lý ấy, nếu mấy năm sau người Nga giàu mạnh lên, chúng ta cũng không thể dùng điều ấy để chứng minh là tư bản chủ nghĩa hơn hẳn xã hội chủ nghĩa. Nhân dân, cho dù sống trong bất cứ chế độ xã hội nào cũng đều cần cù, cũng đều dũng cảm, là quần thể đầy sáng tạo. Chỉ cần nới lỏng những ngón tay đang siết chặt cổ họ, để họ có đủ không khí để thở; chỉ cần mở xiềng tay cùm chân cho họ, để có đủ sự tự do để lao động, họ có thể sáng tạo nên những thành tựu văn hóa và kinh tế huy hoàng, nếu không, sẽ không thể nào lý giải được thế giới trong quá khứ, cũng chẳng thể nào lý giải được thế giới trong hiện tại.
Sáng hôm sau, một chiếc xe du lịch xuất phát từ thành phố Mãn Châu Lý đã dừng lại ở phía sau xe chúng tôi. Mọi người rùng rùng chen lên xe như người thân lâu ngày gặp lại. Lái chiếc xe này là người quen với lái xe của chúng tôi. Anh ta hỏi: Ông bạn, bị làm sao thế? Lái xe chúng tôi trả lời: Đừng hỏi nữa, một lời không nói hết đâu! Có dây thừng để kéo chúng tôi không? Làm sao kéo nổi? Để tôi xem nó hỏng ở chỗ nào! Nói xong, anh ta leo lên xe mày mò trong mấy phút, tiếng động cơ lại gầm lên. Có gì đâu, ông làm cái quái quỷ gì thế? Lái xe của chúng tôi có vẻ buồn phiền, lẩm bẩm: Đúng là quỷ quái, quỷ quái! Hành khách trên xe điên tiết, rất nhiều lời tục tằn kèm theo những tiếng chửi phun ra tới tấp, tất cả như muốn trút cơn giận dữ xuống đầu lái xe. Anh ta há mồm định thanh minh gì đó nhưng cuối cùng câm bặt, cái đầu kiêu ngạo cúi xuống lặng lẽ.
Hộ chiếu của chúng tôi là loại hộ chiếu du lịch tập thể hai ngày, do vậy đành phải cúi đầu buồn bã quay về Tổ quốc.
2. Thành phố biên giới
Mùa hè năm sau tôi lại đến Mãn Châu Lý, vẫn hóa thành Vương Gia Bảo theo chân một đoàn du lịch tiến vào biên giới nước Nga. Cũng vẫn là tour du lịch hai ngày, mục tiêu vẫn là hướng về Hồng Thạch, thành phố Nga gần Trung Quốc nhất. Lần này, lái xe là một cô gái có đôi tay trông thật điêu luyện, dáng đi nhún nhảy chẳng khác khiêu vũ, nói năng như hát. Không hiểu vì sao người ta gọi tên cô là Lão Long. Xem ra cô gái này chỉ khoảng hai mươi tuổi, nước da trắng nõn, lông mày rất đen, đôi môi rất hồng, đôi mắt rất to, trên mép có một hàng lông tơ rậm rạp, nếu không sợ mích lòng thì có thể gọi đó là hàng ria mép cũng không quá đáng. Anh bạn năm ngoái lại tiếp tục dẫn tôi đi, anh ta có vẻ rất thân với Lão Long, trước mặt tất cả du khách trên xe mà anh ta vẫn liếc mắt đưa tình với cô. Phải công nhận là miệng mồm của Lão Long rất nhanh nhẹn, dí dỏm khiến cả xe luôn luôn chật ních tiếng cười đùa. Bảy giờ sáng chúng tôi lên xe xuất phát, một giờ chiều là đến thành phố Hồng Thạch.
Xe dừng trước một khách sạn nhỏ. Cô hướng dẫn đoàn đi vào trong làm thủ tục ăn ở, còn chúng tôi ngồi tản mát trên những viên đá trước khách sạn chờ đợi. Có hai cô gái Nga đang ngồi trên bãi cỏ đối diện với khách sạn, một cô thả mái tóc vàng óng xuống đến ngang lưng, cô còn lại có mái tóc màu hạt dẻ cắt ngắn như con trai. Cả hai cô đều chăm chú nhìn chúng tôi, trên môi điểm nụ cười vô cùng thân thiết, không nói năng gì, yên lặng hút thuốc. Tôi cũng móc gói thuốc ra đưa cho anh bạn Mãn Châu Lý một điếu rồi cũng đốt cho mình một điếu. Cô lái xe liếc xéo về phía chúng tôi. Tôi linh cảm rằng cô cũng biết hút thuốc nên vội vàng đưa gói thuốc ra mời. Cô ta lắc lắc đầu, nói: Cải tà quy chính rồi! Anh bạn nói: Vờ vịt làm gì, hút đi, thầy giáo Vương Gia Bảo cũng không phải người lạ lắm đâu! Cô ta nói: Không phải vấn đề ở thầy giáo Vương mà là ở ông nhà tôi. Ông ấy rất ghét mùi thuốc lá trên miệng vợ, thời gian gần đây ông ấy cứ tránh né mỗi khi tôi muốn hôn! Anh bạn nói: Lão Long! Hỏng, hỏng tất cả rồi! Cô tròn mắt: Sao thế? Hỏng cái gì? Anh bạn nói: Căn cứ vào kinh nghiệm của tôi, một thằng đàn ông không bao giờ từ chối những nụ hôn vì trên miệng vợ có mùi thuốc lá. Tôi nghĩ, đó là điềm báo ông ấy muốn làm loạn rồi! Lão Long nói: Cứ mong ông ấy làm loạn đi! Tôi cũng đang muốn làm loạn đây! Tôi chen vào: Ngay cả chồng muốn làm loạn mà chẳng sợ, lẽ nào lại sợ hút một điếu thuốc sao? Cô nói: Vương Gia Bảo nói rất đúng, thôi thì tôi sẽ làm theo lời Vương Gia Bảo vậy! Lao Long tiếp lấy điếu thuốc và anh bạn tôi đánh lửa giúp cô. Rất điệu nghệ, cô rít một hơi thuốc dài, nuốt khói thật sâu và thật lâu mới để cho hai luồng khói trắng tuôn ra từ hai lỗ mũi.
Cô hướng dẫn viên đã làm xong thủ tục, vẫy tay gọi chúng tôi tiến vào khách sạn. Phòng ngủ lớn nhỏ không đều, trông chẳng ra quy phạm nào cả nhưng có một điểm thống nhất chung là rất thoáng vì đã lợi dụng được không gian kiến trúc, những chiếc giường được kê sát bên cạnh cửa sổ. Cho dù phòng ngủ có hơi chật một tí nhưng tôi cảm thấy vô cùng hài lòng bởi tất cả các vật dụng trên giường đều một màu trắng tinh, drap trải giường màu trắng, chăn màu trắng, vỏ gối cũng màu trắng. Tất cả đều thoang thoảng một mùi xà phòng thơm hấp dẫn, tinh khiết. Chiếc gối rất to nhưng rất mềm khiến tôi thoáng nhớ đến Natasa, Anna Karenina… Trên những chiếc giường của các cô gái Nga đặc biệt này chắc chắn cũng có những chiếc gối to đùng thế này và bên trong có lẽ là độn lông ngỗng. Chúng tôi rửa mặt và định nằm xuống chiếc giường tinh khiết ấy tận hưởng một vài phút thoải mái thì người hướng dẫn đã gọi tập trung ăn cơm. Nhắc đến cơm, chúng tôi mới cảm thấy đói nên nhanh chóng đi theo cô ta xuống dưới lầu.
Chúng tôi đi bộ đến gần hai cây số mới tìm ra được một quán ăn. Vì đi quá xa nên có một vài tiếng càu nhàu nổi lên trong đoàn, hướng dẫn viên nói: Toàn thành phố có mười mấy quán ăn nhưng đây là quán gần nhất. Trước khi đi tôi đã thông báo với các vị rồi, tốt nhất là mang theo lương khô nhưng các vị có tin tôi đâu, như vậy trách nhiệm không phải là ở tôi nữa!
Chúng tôi bước vào quán. Quán rộng thênh thang nhưng chỉ có mỗi đoàn chúng tôi. Một người đàn ông mặt đỏ au lười nhác tiến về phía chúng tôi, đôi mắt chẳng mấy thân thiện nhìn khắp một lượt mặt tất cả mọi người rồi nói gì đó với hướng dẫn viên. Cô lái xe có biết một ít tiếng Nga, nói lại cho chúng tôi biết rằng, gã đàn ông này cho rằng đoàn chúng ta quá đông, không muốn phục vụ. Tôi cảm thấy chán nản và có một chút lạ lùng. Mở quán ăn mà lại ngại khách đến quá đông, trên đời này có cái đạo lý này hay sao? Đây có lẽ là cửa hàng ăn quốc doanh chăng? Cô lái xe nói: Anh ta lười. Nói chung người Nga rất lười! Tôi cảm thấy lời giải thích của cô chưa hẳn là đúng. Gã mặt đỏ đưa cho hướng dẫn viên một tờ thực đơn, hướng dẫn viên nhìn chúng tôi nói: Chẳng có món gì ngon, chỉ có canh rau đỏ, lạp xưởng và bánh mì. Mọi người đồng thanh nói: Thế cũng được, bảo anh ta nhanh nhanh lên một tí! Hướng dẫn viên cười nói: Mỗi người một phần, một nghìn rúp. Nhanh thì hơi khó đấy, mong là mọi người chịu khó chờ một tí. Thế là chúng tôi đành phải ngồi chờ, không dưới một tiếng đồng hồ sau mà vẫn chưa thấy nhà bếp có động tĩnh gì, ngay cả gã mặt đỏ cũng không hề thấy tăm dạng đâu. Mắt tôi nhàn nhã phóng ra ngoài cửa sổ dõi nhìn con đường rộng rãi ngay trước quán. Xe cộ thưa thớt, chỉ có một vài thanh niên phóng xe mô tô gầm rú vụt qua. Có người bực dọc vì chờ đợi, bảo hướng dẫn viên đến gặp chủ quán giục làm nhanh. Hướng dẫn viên cười khổ: Giục cũng chẳng được tích sự gì đâu! Nhưng cô ta cũng đứng dậy đi vào nhà bếp, nhưng ngay lập tức đã quay trở lại, nói: Ngay cả một bóng ma trong nhà bếp cũng không có! Lấy làm lạ và rất bất mãn, mọi người rầm rộ đứng dậy đi vào nhà bếp. Quả nhiên không có một bóng người, chỉ thấy ruồi bay vù vù, trên bàn có vất lỏng chỏng mấy quả ớt đỏ, trong góc phòng có một nhúm củ hành tây. Cô lái xe chụp lấy con dao chém thật mạnh xuống chiếc thớt trên bàn, gào to: Vaxili! Vaxili! Ông chạy đi đằng nào rồi? Một tiếng kêu trả lời rồi gã mặt đỏ xuất hiện đằng sau một cánh cửa nhỏ, phía sau gã ta là một người đàn bà to béo. Cô lái xe vung vung con dao trong tay, dùng một thứ tiếng Nga không mấy thuần thục nói xì xồ gì đó. Tròng mắt của gã đàn ông cứ chuyển theo cánh tay cầm con dao vung lên hạ xuống của cô lái xe, miệng xổ ra một tràng hình như là nhằm giải thích. Chúng tôi hỏi hướng dẫn viên: Hắn nói gì vậy? Hướng dẫn viên cười khổ: Hắn bảo là hắn đã mất quên chuyện ăn cơm của chúng ta!
Chúng tôi đành phải ra ngoài ngồi chờ. Tôi hỏi Lão Long vì sao cô biết gã đàn ông ấy tên là Vaxili, cô ta bảo: Tôi gọi anh ta là Vaxili thật à? Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, canh rau đỏ đã được mang lên, mỗi người mỗi bát, màu sắc không đỏ không đen, nhiệt độ không nóng không lạnh, mùi vị không nhạt không mặn, dùng thìa múc húp thử vài ngụm bèn đẩy sang một bên. Lại chờ thêm nửa tiếng nữa, món ăn chính cuối cùng cũng đã được mang ra. Mỗi người một đoạn lạp xưởng, hai miếng bánh mì màu xám xịt. Lạp xưởng rất tanh, bánh mì thì nhơn nhớt, bụng thì muốn ăn nhưng miệng nhét không vô, tôi thất vọng vô cùng. Tôi đã từng hy vọng rằng sẽ được thưởng thức những củ khoai lang nướng đến bỏng tay, những chiếc bánh mì nướng thơm phức, những miếng thịt bò nấu nhừ thơm và ngọt lịm… toàn là những đặc sản mà tôi đã từng tiếp xúc trong tác phẩm văn học. Không ngờ là phải gặm những của chết tiệt này! Đọc không biết bao nhiêu là tiểu thuyết Nga, bị những gì được các ông nhà văn miêu tả trong ấy làm cho tiết nước bọt, hy vọng quá lớn nên thất vọng càng ê chề. Đối với tôi, ấn tượng về một quốc gia hay một vùng đất nói chung bao giờ cũng ở chỗ các món ăn ngon hay dở. Món ăn Nga quá kém, do vậy mà ấn tượng của tôi về nước Nga theo đó mà nhạt dần.
Ăn xong bữa cơm đọa đày, chúng tôi rảo bước trên những đường phố chính. Đã xế chiều, hướng dẫn viên bảo đã đến thời gian sinh hoạt tự do, chúng tôi tụm năm tụm ba thành một đội và bắt đầu tách đoàn. Tôi và anh bạn Mãn Châu Lý cùng cô lái xe kết thành một nhóm. Cô lái xe này vốn rất muốn quay về khách sạn ngủ vì mọi ngóc ngách xó xỉnh của cái thành phố nhỏ này đã có dấu chân của cô. Anh bạn Mãn Châu Lý nói: Lão Long! Thầy Vương Gia Bảo là khách quý từ phương xa đến, cô mà từ chối lời mời là không hiếu khách, là thiếu tế nhị đấy! Lão Long đưa mắt nhìn tôi, nói: Tôi nghĩ thầy Vương là người chân thật, thôi thì tôi phục vụ ông ấy một lần vậy. Nếu chỉ có mình anh, tôi quyết không thể mạo hiểm đâu! Anh bạn cười: Cô nghĩ mình là một cô gái đài các khuê môn sao? Cô không mở to mắt mà nhìn đi, đầy đường là những thiếu nữ Nga mỹ miều, tôi mà muốn cợt nhả thì thể nào tôi chẳng tìm đến họ? Cô lái xe nói: Một con quỷ ho lao như anh mà dám cợt nhả với các cô gái Nga hay sao? Tôi khẳng định là khi đi thì anh đi một cách bình thường, khi trở về là anh phải bò về thôi! Đúng là trên đường có rất nhiều thiếu nữ Nga, tất cả đều ăn mặc rất thời trang, thư thái ung dung tự tại, ánh mắt lúng liếng sáng ngời, miệng hé nụ cười để lộ những hàm răng trắng đều tăm tắp. Tôi hỏi Lão Long: Lão Long, những cô gái này ở nhà ăn những thứ gì? Có phải là họ cũng ăn những thứ như chúng ta vừa thưởng thức ở quán? Lão Long nói: Thầy Vương! Câu hỏi của thầy làm tôi cứng miệng mất thôi. Làm sao tôi biết ở nhà họ ăn những thứ gì? Hay là chúng ta hỏi cho biết nhé? Tôi nói: Như thế không hay, người ta sẽ nghĩ là người Trung Quốc chúng ta không biết văn minh lịch sự là gì!
Chúng tôi thong thả đặt chân lên quảng trường trung tâm thành phố. Một thành phố nhỏ mà có quảng trường rộng thế này sao? Một nửa quảng trường được lát bởi những viên gạch xi măng hình bát giác, còn lại là những thảm cỏ dại xanh rì và hoang sơ, hình như chưa bao giờ được cắt xén thì phải. Trung tâm quảng trường có một chiếc xe tăng, phía sau xe tăng có một tấm bia kỷ niệm. Cô lái xe nói, tất cả các quảng trường trên toàn nước Nga đều có một chiếc xe tăng, có thể đó là một cách giáo dục truyền thống. Có mấy đứa nhỏ đang đá bóng trên quảng trường, một số bé gái đang hát say sưa. Một thiếu phụ dung mạo vô cùng xinh đẹp đang đẩy một chiếc xe nôi màu sắc rực rỡ đang, nhàn nhã dạo trên những con đường lát gạch bát giác. Xiêm y của người thiếu phụ bay phất phơ trong gió, thoạt nhìn cũng biết ngay nó được may bằng những loại vải đắt tiền. Thằng cu nằm ngửa trong xe nôi, miệng ngậm đầu vú nhựa mút chùn chụt. Tôi nói, người thiếu phụ này nếu không phải là con dâu của một nhà quyền quý nào đó thì cũng là vợ một đại phú thương! Anh bạn Mãn Châu Lý nói: Anh không hiểu gì hết. Đàn bà Nga sau khi sinh con tất cả đều như vậy! Cô lái xe nói: Hai anh cá cược đi! Anh bạn hỏi: Cá cược cái gì? Tôi nói: Anh bảo cá cái gì chúng tôi cá cái nấy! Anh bạn nói: Thế thì một tút thuốc Hồng Trung Hoa vậy, quay về bên ấy mua! Cô lái xe bước thẳng về phía trước, lắp bắp một câu tiếng Nga, người thiếu phụ cũng nói một câu ngắn. Họ nói với nhau những gì, chúng tôi không thể hiểu nổi. Cô lái xe nói: Thầy Vương Gia Bảo, thầy thắng rồi! Người phụ nữ này tên Dania, là con gái của thị trưởng thành phố này!
Đối diện với quảng trường là một tòa nhà rất đường bệ màu xám - hình như tất cả các kiến trúc trong thành phố này đều là màu xám. Cô lái xe nói: Đây là hội trường trung tâm thành phố. Chúng tôi đi đến cổng, trên trụ cổng có dán một tờ gì đó trông giống như thông báo hoặc quảng cáo gì đại loại thế. Cô lái xe chăm chú đọc giây lâu rồi nói hình như tối nay ở đây có biểu diễn, tôi hỏi biểu diễn gì, cô ta bảo diễn ca kịch. Tôi bảo chúng ta mua vé đi, ở đây mà được xem một vở ca kịch Nga là rất có ý nghĩa, không uổng phí một lần đến Nga. Cô lái xe nói: Tôi cũng không dám chắc là ca kịch. Tôi nói: Quan tâm làm gì, cứ mua vé rồi hãy nói. Cô lái xe bước vào bên trong mua ba tấm vé. Chúng tôi tiếp tục đi dạo, đến thời gian ghi trên vé, chúng tôi quay lại và xuất trình vé vào hội trường. Trên sân khấu rộng mênh mông có treo một tấm màn bạc lấp lánh không to lắm. Té ra không phải ca kịch gì cả mà là chiếu phim. Tôi bảo xem phim cũng tốt, được xem một bộ phim trên đất Nga thì về nước có điều kiện để bốc phét. Không ngờ người xem lại đông đến như thế, chủ yếu là thanh niên nam nữ khoác vai ôm eo đi vào hội trường. Đèn trên tường phụt tắt, buổi chiếu phim bắt đầu. Đầu đề của phim hiện ra, bất giác chúng tôi không nín được cười. Té ra là họ đang chiếu bộ phim rất nổi tiếng của Trung Quốc “Cuộc chiến dưới địa đạo”. Tôi nghĩ mãi mà vẫn không ra là tại sao một thành phố nhỏ của Nga mà lại chiếu một bộ phim như thế này. Anh bạn Mãn Châu Lý nói, năm nay là năm thế giới kỷ niệm năm mươi năm cuộc chiến tranh chống phát xít thắng lợi. Chiến tranh chống Nhật của Trung Quốc là một bộ phận hợp thành của chiến tranh chống phát xít trên toàn thế giới.
Đêm đó, nằm trên chiếc giường vô cùng thoải mái, tôi muốn ngủ một tí nhưng vừa chợp mắt thì lại nghe có tiếng hát bên ngoài cửa sổ. Mở mắt nhìn, bắt gặp ngay một ánh trăng sáng ngời lọt qua khe hở của rèm cửa chiếu vào phòng. Lắng nghe kỹ, người hát là đàn ông, tuy không hiểu được ca từ nhưng làn điệu của các bài hát rất quen thuộc. Đó là những bài “Chiều ngoại ô Matxcơva”, “Kachiusa”… Hết bài này thì nối tiếp bài khác. Tôi đi đến bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra. Trong ánh trăng vằng vặc, một cậu thanh niên đang đứng tựa lưng vào gốc cây, hướng mặt về một cánh cửa sổ hát say sưa. Đương nhiên, cánh cửa sổ ấy không thể là của phòng tôi mà là phòng của cô lái xe và các cô gái trong đoàn. Tôi hỏi anh bạn Mãn Châu Lý, có lẽ nào trong đoàn của chúng ta lại có cô nào tính chuyện yêu đương với chàng trai Nga? Anh bạn nói rằng trong cái thế giới này bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tôi hỏi, thế theo anh cô nào trong đoàn chúng ta đủ sức hấp dẫn để chàng trai Nga đến bên cửa sổ hát như thế? Lẽ nào lại là Lão Long? Anh bạn nói, biết đâu đó lại là Lão Long. Cô ấy lái xe cho tuyến du lịch này đã mấy năm nay nên làm quen được với các chàng trai Nga là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi bảo, thế Lão Long không phải đã kết hôn rồi sao? Anh bạn nói, thầy Vương nói như vậy chứng tỏ thầy không phải là người sống trong các thành phố lớn rồi, kết hôn rồi thì đã sao nào, kết hôn rồi vẫn tìm tình yêu khác là chuyện thường tình thôi. Chúng tôi đang bàn tán những câu không đâu vào đâu như thế thì bỗng nhiên cửa sổ căn phòng ấy bật mở. Một cô gái thò nửa thân hình ra ngoài cửa sổ và cất tiếng hát. Tôi giật mình kêu lên: Lão Long, đúng là cô ta rồi! Tiếng hát của Lão Long rất trong trẻo và mềm mại như một tấm vải nhung cao cấp. Tiếng nam tiếng nữ đan quyện vào nhau, hòa lẫn trong nhau, tuy không đạt đến độ trùng khít nhưng rất tròn trịa khiến lòng tôi bồi hồi rung động. Một bài ca chấm dứt, Lão Long đóng cửa sổ lại, không hề xuất hiện nữa. Chàng trai hát tiếp mấy bài nữa rồi buồn bã bỏ đi. Yên lặng bao trùm không gian, hình như những gì diễn ra vừa rồi đều là mộng ảo. Ánh trăng như nước, cảnh đêm sao mà thanh bình. Đây chính là lúc ngủ ngon nhất nhưng tôi không hề cảm thấy buồn ngủ tí nào.
Sáng hôm sau, chúng tôi theo đoàn đi tham quan trụ sở Ủy ban thành phố. Khi chúng tôi đến nơi, nhân viên trong trụ sở vẫn chưa đi làm. Chúng tôi đi dạo bên ngoài, vừa dạo vừa ngắm nhìn toàn cảnh ngôi nhà. Ngôi nhà rất đồ sộ nhưng hình như các bức tường đều xiêu xiêu vẹo vẹo, thi thoảng lại có những viên gạch lồi lõm trên tường. Những ngôi nhà như thế này không thể tồn tại ở Trung Quốc, ngay cả những đội thợ xây hạng tồi nhất ở vùng nông thôn cũng không thể xây nên những sản phẩm như thế này, huống hồ đây lại là một trụ sở Ủy ban thành phố. Cổng chính đi vào tòa nhà càng thô thiển và nặng nề, cánh cổng không hề được sơn, những phụ kiện bằng sắt đã hoen rỉ. Tôi nghĩ thầm, phi thuyền vũ trụ tại sao lại được sản xuất ở Nga, và nếu có sản xuất được thì làm sao chúng có thể bay được nhỉ?
Tham quan Tòa thị chính xong, chúng tôi được đưa về các cửa hàng để mua đồ. Những loại hàng nặng nề là đáng để ý nhất trong các cửa hàng, ngoài ra chẳng có gì đáng xem và đáng mua. Có ai đó đề nghị đến chợ trời nhưng ở đó chủ yếu lại là hàng Trung Quốc, do vậy cũng chẳng có gì để mua, chúng tôi đành đứng tựa lưng vào những bức tường lặng lẽ hút thuốc. Đúng lúc ấy, một ông già ăn mặc xộc xệch tiến đến, dùng một thứ khẩu âm không mấy chuẩn nhưng rất lưu loát tỏ ý muốn mua bán một loại hàng nào đó. Anh bạn hỏi ông ta có những loại hàng gì, ông ta nói: Loại hàng gì cũng có, các anh muốn những thứ gì? Anh bạn nói: Ông nói đi, có loại hàng gì? Ông ta bèn nói tên những mặt hàng: Hàng gang thép có cần không? Anh bạn nói: Không cần! Ông ta nói: Đồ gỗ? Không cần! Thế phân hóa học? Cũng không cần! Thế chất Uranium 235? Tôi kinh hoàng, hỏi: Ông nói cái gì? Ông ta nói: Chất Uranium 235! Có lẽ nào đó là loại hóa chất 235 có thể chế tạo bom nguyên tử? Đúng, đó là loại hóa chất 235 để chế tạo bom nguyên tử! Anh bạn hỏi: Ông có bao nhiêu? Không nhiều, chỉ khoảng một tấn! Anh bạn nói: Chúng tôi phải suy nghĩ một tí, nhưng làm sao để chuyển qua biên giới? Ông ta nói: Nếu các ông cần thật sự, chuyện vận chuyển để chúng tôi lo! Tôi nói: Chất uranium 235 thì tôi không cần, nhưng nếu ông có bom nguyên tử thì chúng tôi mua ngay một quả! Ông ta cực kỳ hưng phấn, nói: Có thật không? Tôi có thể giúp các ông tìm được, có điều các ông phải ứng trước ba mươi phần trăm đặt cọc! Tự nãy giờ không hề mở miệng, cô lái xe lúc này mới nói: Cút đi, ông đừng ở đây làm phiền người ta nữa! Ông ta lắc đầu, nói: Đúng là các người chẳng có một chút thành ý nào… Nói xong, với dáng vẻ cực kỳ thất vọng, ông ta chầm chậm bỏ đi.
Không ăn cơm trưa, chúng tôi leo lên xe hướng về Tổ quốc, trên đường đi vẫn cứ trông thấy những thảo nguyên mênh mông và xanh thẳm như năm ngoái đã từng thấy cùng với những đàn bò sữa đang nhàn nhã gặm cỏ trên những thảm cỏ xanh mướt, thi thoảng cũng có những cô thiếu nữ Nga xách thùng đựng sữa đi trên đường. Tâm hồn tôi trở nên bình lặng, không hoàn toàn hài lòng nhưng cũng không hẳn là thất vọng. Tất cả không hoàn toàn giống như trong trí tưởng tượng của tôi nhưng tất cả đều nằm trong trí tưởng tượng của tôi.
Tháng 7 - 1997