Tạp cảm về chó 1. Lời ai điếu cho chó
Mối quan hệ giữa con người và chó vốn đã hình thành từ rất lâu đời. Khi con người còn ở trong hang động đốt lửa để sưởi ấm, để xua đuổi thú dữ thì có lẽ chó đã vây quanh đống lửa mà sủa, không hề có ý định biến con người thành mồi ngon của chúng, tuy tiếng sủa của chúng vẫn còn đầy dã tính. Khi xã hội loài người đã phát triển đến một trình độ văn minh nhất định, chó đã được con người thuần hóa, vẫn nằm bên bếp lửa mà sủa song tiếng sủa bên bếp lửa ấy đã chuyển từ dã tính sang gia tính, từ chỗ là địch thủ, chó đã trở thành trợ thủ của con người. Hãy suy nghĩ một cách nghiêm túc xem, điều này là sự tiến hóa hay là sự thoái hóa của chó? Là hạnh phúc hay bi kịch của chó? Loài thú tuy không có cái oai hùng phong độ của hổ báo hay sư tử trong rừng sâu nhưng vẫn là loài thú dữ này từ đó trở nên thoái hóa hay văn minh? Dẫu sao thì loài chó cũng đã ở với con người, từ bỏ rừng sâu mà bước chân vào xã hội loài người.
Từ xưa đến nay, những chuyện có liên quan đến chó là cả một kho tàng mà không thể nào kể ra hết được. Nào là chuyện chó cứu chủ, nào là chó dắt chủ đi chơi, nào là chó báo thù, nào là chó trông nhà giữ cửa, nào là chó giúp chủ săn mồi, nào là chó đánh nhau với sói - đồng loại của chúng, nào là chó phục hồi dã tính quay về với sơn lâm… Rồi trải qua không biết bao nhiêu lần phối giống để biến chó thành một loài tạp nham chó không ra chó: chó Cáp Ba, chó sư tử, chó bướm, chó ong mật, chó Quý Phi, chó Tây Thi… Những loài này trở thành những con vật yêu của quý bà quý cô với những giá tiền cao ngất ngưởng, nhiều khi đến cả chục vạn đồng một con với rất nhiều tên gọi chủng loại khác nhau, nếu biên tập lại thành một cuốn đại từ điển về chó e rằng chí ít cuốn từ điển này cũng phải dày như viên gạch xây nhà. Nhưng loài được gọi là chó này đúng là rất đáng yêu, nhất là lúc tôi đã ăn no xong. Tôi vốn không hề phản đối chuyện nuôi chó, đôi khi còn có những câu tán tụng - cốt để cho chủ nhân vui lòng. Ví dụ: Ôi, sao mà đáng yêu thế! Nhưng bảo tôi hãy nuôi một sủng vật chó, đó là điều tuyệt đối không thể xảy ra. Nghe đâu rằng, khẩu phần của những “danh cẩu” thường do những đầu bếp danh tiếng chế biến, mỗi loài “danh cẩu” đều có một kiểu “chăm sóc viên” chuyên nghiệp riêng, ấy là chưa kể “vú em” riêng. Tiêu chuẩn để tuyển chọn “vú em” cho những sủng vật này nghe đâu còn nghiêm khắc hơn cả tuyển chọn vú nuôi cho những đại quý tử thuộc thế giới loài người! Vú nuôi của những đại quý tử thuộc thế giới loài người chẳng qua là những người trẻ, không có bệnh tật gì, nguồn sữa dồi dào và nhiều chất là đạt yêu cầu. Còn “vú em” của “danh cẩu” ngoài những điều kiện như con người đã kể trên còn phải mày thanh mắt sáng, khí độ cao nhã - đây là những điều mà một người bạn có tên là Cẩu Tam Thương nói với tôi, không biết thực hư thế nào, nhưng những vật sủng này cực kỳ khó nuôi là điều mà ai cũng biết. Phu nhân của vị lãnh đạo cơ quan tôi nuôi một con chó hồ điệp, mỗi tuần cậu công vụ phải tắm nước nóng cho nó ba lần, dầu tắm phải là thứ dầu nhập khẩu đắt tiền, tắm xong còn phải dùng máy sấy để làm cho khô lông, cuối cùng là xịt vào lông nó một loại nước hoa Pháp hảo hạng. Những đãi ngộ của con người đối với nó khiến tôi thèm muốn, đời nó sao mà hạnh phúc lắm vậy? Dân Tràng An - Bắc Kinh, theo tôi thì chưa đến một nửa được tắm bằng thứ sữa tắm cao cấp nhập khẩu cũng như được tắm ba lần nước nóng trong một tuần, tắm xong được sấy khô rồi xịt nước hoa Paris hảo hạng thì lại càng ít. Điều đó cho thấy, mức sống của chó thành phố cao hơn mức sống chung của nhiều người Trung Quốc. Bao giờ mức sống của nhân dân Trung Quốc ngang bằng với chó thành phố như bây giờ, ngày ấy chúng ta có quyền tuyên bố là xã hội Trung Quốc đã đạt được trình độ “đại khang” - tức xã hội có đời sống kinh tế phát triển tột đỉnh mà không phải là “trung khang”, tất nhiên càng không phải là “tiểu khang” - loại xã hội có nền kinh tế thường thường bậc trung. Những lời này có vẻ lạ lùng khó nghe, tựa như tôi đang có ý châm chọc gì đó, nhưng quả thực là tôi chẳng có ý châm chọc bất kỳ ai, châm chọc cái gì cả, chẳng qua lời nói thật thì dễ nói nhưng lại khó nghe, thế thôi.
Giống như xã hội loài người phân chia thành năm bảy hạng, chó cũng được phân chia thành năm bảy hạng. Tôi vừa nói đến những loại chó “sủng vật”, tất nhiên được xếp vào loại một, loại thứ hai có thể kể đến là loại chó nghiệp vụ của công an, của bộ đội biên phòng. Loài chó này có vẻ ngoài oai phong hung dữ, mới nhìn là đã phát khiếp, trên thực tế chúng cũng thật sự ghê gớm. Tôi đã từng gặp một người chuyên huấn luyện chó cảnh sát mới hay rằng việc chọn giống cho chúng vô cùng nghiêm ngặt, giá cả một con chó thuần chủng dễ dàng làm một người có thu nhập bình thường bị đứng tim. Giá cả đã cao, việc nuôi dưỡng và huấn luyện chúng càng không dễ dàng gì. Trước đây người ta thường kháo với nhau rằng, nuôi được một phi công cho quân đội Quốc dân đảng thì vàng phải chồng hàng đống, còn bây giờ thì nói nuôi được một con chó cảnh sát phải tốn cả đống nhân dân tệ cao ngất ngưởng. Những con chó cảnh sát lập được công trạng mà hy sinh đã được con người truy phong cấp bậc và làm lễ truy điệu vô cùng long trọng. Chuyện này tôi đã đọc được rất nhiều trong tác phẩm văn học Liên Xô trước đây, liệu ở Trung Quốc có chuyện này không?
Năm ấy tôi có đọc “Rừng thẳm tuyết dày”, đọc đến chỗ con chó dũng cảm có tên Trại Hổ của Khương Thanh Sơn, em họ Lý Dũng Kỳ đã chế ngự được hai tên thổ phỉ với đầy đủ trang bị vũ khí, tôi nghĩ rằng đấy chẳng qua là trí tưởng tượng quá đà của người viết tiểu thuyết nhằm ca tụng Khương Thanh Sơn - một con người có nhiều kinh nghiệm núi rừng, những kỹ năng trượt tuyết cao siêu, múa đao như thần trông chẳng khác những hiệp khách giang hồ trong truyện kiếm hiệp mà thôi. Còn trong hiện thực, một con chó làm gì có khả năng chế ngự hai con người khỏe mạnh, huống hồ đó lại là hai tên thổ phỉ có trang bị vũ khí? Sau đó tôi có đọc truyện “Tiếng gọi nơi hoang dã” của nhà văn Mỹ Jack London, con chó có tên là Puck càng lợi hại hơn gấp nhiều lần, chỉ trong một loáng là đã cắn chết cả một đám người có súng ống hẳn hoi, chuyện này càng khiến tôi khó tin. Tôi cho rằng trên quả đất này không thể có loài chó như thế tồn tại, Puck chẳng qua là một con chó thần thoại giống như con Hao Thiên khuyển của Dương Tiễn mà thôi.
Nhưng đến lúc này thì tôi đã tin vào những điều mà các nhà văn đã miêu tả. Chó, đích xác là lợi hại hơn con người nhiều. Vì sao những nhận thức của tôi về chó lại thay đổi như vậy? Bởi vì, mới cách đây mấy ngày thôi, tôi bị con chó gầy đến độ giơ cả xương nuôi trong nhà đớp cho mấy miếng. Qua một lớp quần bông, rồi đến một lớp quần lông; một lớp áo sơ mi, hai chiếc áo lông mà trên người tôi vẫn bị ba vết thương tóe máu, một vết xanh tím bởi những chiếc răng của nó. Nếu là mùa hè, chắc mạng tôi đã tiêu dưới răng chó rồi, tôi nghĩ, nếu không chết, lòng ruột chắc cũng phải lòi ra khỏi da bụng thôi. Quả thật là chó rất đáng sợ, chó mà sắp phát điên, con người rất khó chế ngự. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi bị chó cắn, tâm hồn tôi có những nhận thức sâu sắc như vừa được học một lớp về giáo dục giai cấp sâu sắc cho nên tôi mới viết bài có liên quan đến chó và răng chó này.
Nghe nói tôi bị chó cắn, bố tôi lật đật đi từ quê lên thăm. Tôi nói: Một con chó ghẻ, không ngờ lại lợi hại đến như thế! Bố tôi bảo: Kể ra con chó này cũng chưa có gì là ghê gớm, những con chó của bọn quỷ Nhật Bản mới đáng được gọi là lợi hại! Tất cả đều là những con chó sói thuần chủng, răng trắng nhởn, mắt xanh lè, tai đen dựng đứng, lưỡi đỏ thè ra ngoài, ăn thịt người đến độ lông da láng mượt, to lớn chẳng khác một con trâu nghé, tiếng sủa đinh tai nhức óc… Tại sao Trung Quốc lại có nhiều Hán gian và tay sai đến như thế?… Một nửa là bị bọn quỷ Nhật Bản đánh chết, một nửa là bị chó Nhật Bản cắn chết! Trời ạ, thì ra là như thế!
Ở nông thôn người ta cũng nuôi chó. Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, lương thực không đủ nuôi sống con người, bốn vách nhà của người nông dân trống trơn, chẳng có gì đáng để ăn trộm - quan trọng hơn là quá đói nên người ta rất ít nuôi chó. Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa “nằm gai nếm mật” ấy, người ta nâng chuyện ít nuôi chó lên thành một trong những tiêu chuẩn quan trọng để khẳng định xã hội mới tốt hơn xã hội cũ nhiều. Mấy năm trở lại đây, lương thực đã trở nên dồi dào, tài sản trong nhà cũng khá hơn nên phong trào nuôi chó lại trở nên rầm rộ. Trộm đạo ở nông thôn nổi lên như rươi, không có con chó trong nhà là không được. Tôi nghĩ, có lẽ trong lịch sử Trung Quốc, đây là thời gian chó xuất hiện nhiều nhất ở nông thôn, việc nuôi chó nhất định không phải là để thưởng ngoạn mà là phòng ngừa bọn trộm cắp. Nhưng bọn chó này hầu hết là giống chó cỏ bản địa, bé gan lại thiếu trí, nếu có bọn trộm vặt mò vào nhà, chúng chỉ sủa lên mấy tiếng gọi là cho có thôi. Do vậy, cho dù đã nuôi chó nhưng của cải vẫn cứ mất như thường. Huống hồ bọn trộm đạo hiện đại đều là những kẻ đa mưu túc trí, tinh thông “cẩu học” nên đã nghiên cứu được đến mười mấy phương pháp đối phó với chó. Nghe đâu phương pháp hữu hiệu nhất vẫn là nướng một củ cải ném cho chó, bọn chúng đứa nào cũng nghĩ là bánh bao nhân thịt dê nên há miệng đớp lấy khiến hàm răng rụng cả, đánh mất bản năng cắn người và bọn trộm đạo cứ thế mà đường hoàng đĩnh đạc đi vào nhà. Cho dù không dùng củ cải, chỉ cần ném một cục thịt thơm lừng, miệng chúng cũng sẽ bị bịt kín, mắt nhắm mắt mở và trở thành những kẻ đồng lõa với bọn trộm đạo. Chẳng qua là bọn ăn trộm không đành lòng vất miếng thịt nên chủ yếu là dùng cách ném củ cải. Chó ở nông thôn nói chung là đói, sống kham khổ quá lâu nên dễ dàng bị mua chuộc cũng là chuyện thường tình; còn chó thành phố ăn còn chê không tinh, uống còn chê không chất, gà quay bơ vàng ươm đặt trước mặt cũng chẳng thèm ngước đầu liếc mắt, nên mua chuộc được chúng không phải là chuyện đơn giản.
Năm năm trước, vợ và con gái tôi được chuyển lên sống trên phố huyện. Để tạo an toàn và cũng là để có chút sinh động trong nhà, tôi xin một con chó bé xíu vừa mới sinh chưa được bao lâu của một người bạn đem về nuôi. Mẹ nó là một con chó bẹc-giê lai tạp lung tung, nhìn kỹ mới nhận ra tổ tông bẹc-giê phảng phất trên người nó, nhưng không phải đó là nhân tố quyết định vẻ khôn lanh nhanh nhạy của nó. Khi tôi ôm nó trong lòng để về nhà, trông nó đáng yêu vô cùng, lông thẳng đuột, bước đi còn xiêu xiêu vẹo vẹo. Trán nó rất cao, thoạt trông thì biết ngay là loài chó có trí tuệ. Không phải nói đến sự khoái chí của con bé nhà tôi, con bé tình nguyện nhường một phần sữa theo tiêu chuẩn hàng ngày cho con chó. Khi tôi quay về Bắc Kinh, con bé viết thư thường xuyên báo cho tôi hay về chuyện con chó mỗi ngày mỗi lớn, nhưng càng lớn nó càng mất đi vẻ đáng yêu. Nó rất hung dữ, cộng thêm cái tật chỉ thích ăn những thức ăn ngon và cao quý nên những con gà vợ tôi nuôi để cải thiện kinh tế đã chui vào bụng nó không ít. Để đảm bảo an toàn cho gà, vợ tôi đành phải tròng cho nó một chiếc vòng cổ và một sợi xích sắt, từ đó nó mất đi sự tự do. Đúng là số nó khổ, nếu nó không bất hạnh đến độ lọt vào nhà tôi mà rơi vào nhà một cán bộ lãnh đạo hay một chủ xí nghiệp nông thôn nào đó, rất có nhiều khả năng nó sẽ to đùng như một con bê. Bất hạnh thay, khi về với tôi, ban đầu nó còn ăn được mấy bữa no, sau đó thì đói liên tục. Nó gầy đến độ xương lòi cả ra, thân xác chưa kịp trưởng thành đã vội vàng thoái hóa. Ngay cả làm cho nó một cái ổ cũng chẳng được chúng tôi quan tâm, một năm bốn mùa gió mưa bão tuyết đều nằm còng queo trong một góc tường. Có một ngày mưa bão thâu đêm suốt sáng, nó điên cuồng quay vòng tròn, mồm cố chụp lấy đuôi mà cắn, đôi mắt đỏ kè khiến tôi nghĩ là nó bị điên. Sau đó thì nó không thể chạy nhảy được nữa, sủa cũng không thành tiếng nữa, suốt ngày nằm cuộn tròn mặc cho nước mưa xối xả trên người, trông nó chẳng khác một lão ăn mày chỉ còn sức để rên lên ư ử, mỗi lần trông thấy người nhà là kêu lên những tiếng như khóc, nước mắt lã chã, đáng thương vô cùng. Nhưng chúng tôi nhất định không thể cho nó vào nhà bởi vì toàn thân nó đầy bùn đất, mùi hôi thối xông lên nồng nặc, chưa kể là chấy rận bâu kín thân thể. Tôi và vợ đội mưa làm cho nó một cái chuồng nhỏ nhưng nó chẳng hiểu gì cả, chẳng chịu chui vào trong đó để tránh mưa tránh gió. Đêm ấy, tôi không thể nào ngủ yên vì những tiếng rên rỉ ai oán của nó. Quả là nó sống dai, mặt trời vừa lên là nó đã đứng dậy, lắc mình thật mạnh để cho nước mưa bắn tứ tung rồi chạy nhảy lồng lộn điên cuồng. Tôi phải ghi nhận một điều là ý thức trách nhiệm của nó thật đáng nể, tuy sống kham khổ như vậy nhưng mỗi khi ngoài đường có những tiếng động bất thường là nó quên ngay những nỗi thống khổ đang phải gánh chịu, nhảy chồm lên như muốn bứt khỏi chiếc dây xích và sủa lên oang oang nhằm thị uy với chủ của mình.
Nó ở với chúng tôi quá khổ, tôi nhận ra điều ấy và tự cảm thấy xấu hổ về mình. Khi sửa nhà, chúng tôi đã nhân thể làm cho nó một căn nhà nhỏ, từ đó, những ngày dãi nắng dầm mưa của nó cũng kết thúc. Cũng từ đó, hình như nó càng tận tâm tận lực hơn trong việc trông nhà trông cửa để đền đáp hảo tâm của chủ. Xe đi trên đường, nó nhảy lên sủa; bọn học sinh đi ngang qua cổng, nó nhảy lên sủa; vợ chồng hàng xóm chửi nhau, nó nhảy lên sủa; nếu có ai đó đụng vào ổ khóa cổng nhà tôi, nó nhảy dựng lên cao cả thước; nếu có ai tự ý mở cổng bước vào sân, nó quên bẵng là cổ được nối với sợi xích sắt, dũng mãnh lao tới, thân hình đang lơ lửng trong không gian thì bị dây xích kéo ngược lại, rơi đánh bịch xuống đất lăn lộn mấy vòng, bò dậy lại tiếp tục lao về phía trước, cứ thế cho đến khi khách vào hẳn trong nhà mới thôi, hai mép sùi đầy bọt vì bị vòng cổ siết cho nghẹt thở.
Tất cả những ai đã từng ghé qua nhà tôi đều ca cẩm rằng đấy là một trong số ít những con chó hung tợn nhất mà họ đã gặp trong đời, cũng có cùng một điểm chung khi cho rằng thật may mắn là nó còm nhom, nếu nó mập hơn một tí nữa thì không biết sự hung tợn sẽ đạt đến mức độ nào. Bố tôi lại bảo: Ưng béo không bắt thỏ, chó mập không giữ nhà. Tất cả những ai muốn vào nhà tôi đều khép nép đi một bên tường nhưng sự sợ hãi vẫn không hề giấu giếm trên mặt và lần nào cũng thế, tôi phải chào hỏi thật lớn rồi chạy ra nghênh đón vì vẫn nơm nớp lo con chó sẽ đứt xích. Trước sau nó đã làm đứt ba sợi xích sắt to khiến tôi và vợ phải dạo quanh chợ bán xích rất nhiều lần mà vẫn chưa tìm ra sợi thứ tư vừa ý, cuối cùng mới tìm ra được một sợi khả dĩ trong chỗ bán đồ sắt đồng nát. Đó là một sợi dây xích vốn để kéo xe tải hạng nặng, rất giống với sợi xích cùm đôi chân của Lý Ngọc và Phó Hình Trường trong bộ phim “Hồng Đăng ký”, dài hơn ba mét, nặng gần mười ký. Trông thấy sợi dây xích này, chúng tôi mừng còn hơn bắt được vàng và tất nhiên là chộp ngay tức khắc. Lão chủ bán đồ đồng nát nghe tôi nói là dùng để xích chó thì trợn mắt kêu lên: Trời ạ, nhà hai vị nuôi loại chó gì thế? Đương nhiên tôi không hề có nhiệm vụ phải báo cáo với lão ta về việc nhà tôi nuôi con chó như thế nào. Về đến nhà, chúng tôi chật vật lắm mới tròng được sợi xích vào cổ nó, con chó cúi đầu đứng lặng, trông dáng điệu biết ngay là nó chưa quen với dây xích quá nặng này. Nhưng chẳng bao lâu, sợi xích không còn là chướng ngại của nó nữa và nó lại tiếp tục tấn công khách, sợi xích bị nó lôi kêu rổn rảng trên nền sân xi măng. Việc này làm tăng thêm tính bi tráng cho số phận không may của nó, mỗi khi thấy nó kéo lê sợi xích sắt to tướng trên nền xi măng, ai ai cũng dễ dàng sản sinh một sự liên tưởng có tính chất bi tráng liên quan đến con người. Lông cổ nó dựng đứng lên, đôi hàm răng nhọn sắc như khoe ra toàn bộ và cái nhìn rõ ràng là chất chứa một nỗi oán hận vô bờ đối với khách, trong cái nhìn ấy biểu hiện một năng lực, một khát vọng đấu tranh đến tận cùng. Cứ cách vài ngày, không tôi thì vợ tôi lại phải kiểm tra sợi dây xích buộc cổ và vòng cổ của nó, chỉ sợ một nỗi khi nó đã chộp được một phút giây tự do thì sẽ tranh thủ gây tổn thương đến tính mệnh của quần chúng nhân dân. Vẫn còn nhớ ba năm trước, lúc nó chưa hoàn toàn trưởng thành đã có một lần bứt đứt dây xích và nhắm vào cậu nhân viên trong đội tuyên truyền của huyện, đến nhà tôi đưa giấy tờ, mà cắn. Khi cậu ta đưa mọi thứ cho tôi xong và đang trao đổi vài câu thì một chiếc bóng nhanh như điện xẹt lao đến dưới ánh sao lờ mờ. Và chỉ trong một cái chớp mắt mở mắt, cậu ta đã bị nó đớp một miếng thật sâu vào bắp chân. Cậu ta đứng lặng trong một giây rồi chỉ với một cú nhảy, cậu ta đã ngồi gọn lỏn trên xà ngang cao dễ đến ba mét trong nhà tôi, bó gối chờ vợ tôi xích lại con chó và mang thang đến mới lò dò run rẩy bò xuống, đến lúc này mới mở miệng: Trời ạ, làm sao mà tôi phóng được lên ấy chứ? Từ đó trở về sau, mỗi lần đến nhà tôi đưa giấy tờ là cậu nhân viên ấy chỉ đứng nép ngoài bức tường bao quanh sân, ném tất cả vào trong rồi kêu lớn: Em không vào nhà đâu, thưa thầy Mạc!
Bây giờ thì nó đã lớn, tuy gầy còm nhưng ý thức chiến đấu dường như được củng cố thêm theo thời gian, nếu nó thoát khỏi dây xích thì hậu quả thực sự khó lường. Đặc biệt là khi con gái tôi dẫn bạn bè về nhà học tổ học nhóm, đứa nào cũng là bảo vật vô giá của bố mẹ chúng, vạn nhất bị chó dữ cắn thì không biết kết cục sẽ đi đến đâu, nào là bồi thường kinh phí tiêm thuốc ngừa dại, nào là lo lắng hậu quả thiểu năng. Điều đó mà xảy ra thì gia đình tôi không có cách gì bù đắp được cho người bị hại. Do vậy mà tôi sống ở Bắc Kinh nhưng hồn thì để ở nhà, tất nhiên không phải lo lắng hay nhớ thương gì vợ con đến độ như vậy, tất cả là tập trung ở con chó, mỗi lần viết thư và gọi điện đều không dám quên câu nói cuối cùng: Phải xích chặt con chó lại, nhớ chưa!
Theo lời của con gái tôi, có rất nhiều lần vòng cổ của con chó bị tuột ra và những lúc ấy, nó và ông nội trốn tiệt trong nhà không dám bước ra sân, chờ đến khi mẹ con bé đi làm về. Nói ra thì hơi kỳ lạ nhưng quả thực là thế này, con chó sẵn sàng nhe nanh và lao vào bất kỳ ai, nhưng với vợ tôi thì nó thuần phục vô điều kiện, mỗi khi trông thấy cô ấy là nó vẫy đuôi cúi đầu cụp tai, nằm bẹp xuống đất, dáng vẻ cung cung kính kính đến độ tội nghiệp trông chẳng khác nào thái giám đứng trước mặt hoàng hậu. Cho dù cô ấy có chửi, có đánh, có đạp…, nó vẫn không hề nhe răng, thậm chí còn không dám mở to mắt, dường như nó đã biến thành một con mèo hiền lành thùy mị. Vợ tôi mở cổng, nó nhận ra đấy chính là tiếng mở cổng của vợ tôi, hầu như không nhầm lần nào. Bố tôi nói, không phải là nó nghe tiếng động mà nó ngửi mùi; tôi cũng đã từng đọc thấy trong một cuốn sách nào đó bảo rằng, mũi của loài chó thính gấp mười mấy vạn lần so với mũi người. Mỗi năm tôi có mặt ở nhà chỉ vài tháng, nhưng nó vẫn nhận ra tôi. Có lúc tôi cố làm ra vẻ gan dạ cho nó ăn, nó còn vẫy đuôi biểu hiện lòng cảm tạ, có khi còn chụp lấy chân tôi mà nhay nhay rất thân thiện. Nhưng quả thật là tôi sợ nên quyết tâm không đến gần nó, bởi tôi biết giữa tôi và nó có tồn tại một khoảng cách nhất định. Nhưng chuyện nó cắn cả tôi thì chưa bao giờ có trong trí tưởng tượng của tôi, không chỉ cắn mà thậm chí cắn đến độ chẳng có chút lưu tình nào.
Ngày ấy, tôi tiễn một cậu thợ điện đến ghi số điện dùng trong tháng của nhà tôi ra cổng, con chó vùng vẫy dữ dội và vòng cổ tuột ra khỏi cổ nó cùng với dây xích nằm uốn lượn trên sân. Con gái tôi chỉ kịp kêu lên: Bố! Chó! Thì nó đã đến sát cạnh tôi, thân thể nó ép sát dưới mặt đất. Tôi đã nhìn quen hình ảnh nó gắn chặt với chiếc vòng cổ bằng da to tướng và sợi xích sắt đen sì nên lúc này tôi cảm thấy nó rất lạ lùng, hình như đó không phải là chó của tôi mà là một con chó hoang nào đó. Vận động viên thể dục đeo bao cát để luyện tập, đến một ngày vất bao cát đi sẽ biến thành một mũi tên rời khỏi cánh cung; con chó nhà tôi cả đời gắn liền với sợi xích sắt nặng nề, đến một ngày vất đi sợi xích thì tốc độ của nó còn nhanh hơn so với mũi tên rời khỏi cánh cung. Tôi đứng im, đẩy cậu thợ điện ra phía sau lưng mình, đưa một tay quơ qua quơ lại trước mặt nó, mồm quát: Chó! Chó! Chỉ cần một cú đớp là nó đã ngậm chặt chân phải tôi. May mà tôi đang mặc quần bông, bên trong quần bông lại còn có cả quần lông, cho nên nó ngoạm vào chân tôi vị tất răng nó đã xâm phạm đến da thịt tôi. Cứ nghĩ rằng nó ngoạm một miếng cho vui rồi thôi, không ngờ rằng nó tiếp tục tấn công, nhả chân phải tôi ra, nó quay sang tấn công chân trái rồi tung người lên đớp một cú cực kỳ ác hiểm vào bụng tôi. Đến lúc ấy tôi mới thực sự thấy nó đáng sợ như thế nào và đến lúc ấy tôi mới hiểu vì sao cậu tuyên truyền viên kia lại có khả năng nhảy lên chiếc xà nhà có độ cao hơn ba mét. Những vết thương nhức nhối vô cùng, tôi quơ tay và thật vừa vặn, tôi quơ ngay vào miệng nó và nó chẳng việc gì phải khách khí mà không đớp vào bàn tay tôi một miếng. Rất may là tôi vừa rời khỏi cửa chỉ được một bước nên tôi giãy thật mạnh thoát khỏi miệng nó, đẩy cậu thợ điện vào nhà và cùng con gái đóng cửa lại, sợ đến độ ba hồn mất đi hai hồn rưỡi. Cởi quần áo ra xem, ba chỗ tóe máu, một chỗ xanh tím tái, vết cắn ở bụng là nặng nhất, nguyên do là áo lông không dày bằng áo bông. Nếu tôi chỉ mặc áo sơ mi quần cộc, nếu là mùa hè…, nếu nó không cắn tôi mà cắn cậu thợ điện… Tôi nghĩ, đây chính là cái may mắn vô cùng trong cái bất hạnh của tôi!
Lúc này cổng không hề khóa, nếu nó chạy ra đường và gặp ai cắn nấy thì làm thế nào? Kể từ khi về với nhà tôi, chưa bao giờ nó bước ra khỏi cánh cổng sắt này. Nó có thể nghe thấy tiếng kêu tiếng sủa của những con chó nhà hàng xóm nhưng chưa hề gặp mặt, nó có thể nhận ra đồng loại của mình không?
Cuối cùng thì vợ tôi cũng đã đi làm về, nó vẫy đuôi chào mừng bà chủ, và rất ngoan ngoãn để cô ấy tròng vòng cổ lại như cũ.
Buổi chiều tôi đến trạm phòng dại mua thuốc rồi đến trạm y tế tiêm một mũi. Bác sĩ bảo phải tiêm liên tục năm mũi, cấm rượu bia, cấm trà trong một tháng.
Chỉ vì nhất thời không làm chủ được bản năng mà cắn chủ nên ngày tàn của nó đã đến.
Tôi bảo vợ đi thăm dò xem thử có ai đồng ý nuôi con chó này không. Khi trở về vợ tôi bảo: Ai cũng nói là ngay cả chủ mà nó còn cắn thì ai dám tiếp nhận nó. Nhưng có mấy tay quỷ nhậu ở trong xưởng vợ tôi tình nguyện ăn thịt nó.
Tình cảm của tôi tự nhiên yếu mềm hẳn đi. Con chó này rất đỗi trung thành, nhất là với nữ chủ nhân. Lại nghĩ, con chó này mà nuôi trong hoàn cảnh trật tự trị an không tốt nhất định sẽ mang lại sự an toàn cho vợ và con gái tôi. Con gái tôi đã nghe được ở trường rất nhiều chuyện làm người ta phải giật mình kinh sợ nên ban đêm thường ngủ không yên giấc. Vợ tôi trấn an nó: Đừng sợ, nhà ta có chó! Nó cắn tôi chắc cũng là do sự hồ đồ nhất thời? Thế là tôi quyết định vẫn giữ nó lại nuôi, thêm vào cổ nó một chiếc vòng nữa, nếu tuột cái này thì vẫn còn cái kia. Nhưng hai gã tửu đồ đã đến, vợ tôi suy nghĩ một lát rồi khẳng định: Không nuôi nữa!
Hai gã đàn ông trung niên này đều mang giày nhựa cao đến đầu gối, mỗi người xách trên tay một sợi dây thừng. Họ vừa bước vào cổng thì con chó đã nhảy dựng lên xông thẳng vào, gào rú kinh hoàng. Tôi sợ họ hành sự ngay trước mắt mình nhưng họ khẳng định là không. Họ chỉ nhờ vợ tôi tròng hai sợi dây thừng vào cổ nó để họ lôi đến xưởng rồi mới ra tay.
Con gái tôi rất đau lòng. Ngồi trước bàn nghe ca nhạc trên đài phát thanh, tôi vặn volume to hết cỡ để tiếng nhạc át đi tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con chó. Con gái tôi ngồi gục mặt xuống bàn, hai tay bưng lấy mặt, lặng lẽ khóc.
Quả thật tôi cũng cảm thấy đau lòng vô cùng nhưng vẫn cố gắng kiềm chế để khuyên giải con gái, nói dối rằng người ta dẫn nó đi về nhà ăn để nuôi, ngày nào cũng được ăn thịt ăn cá, nó ra đi lần này là tìm về với cõi phúc. Con bé vẫn cứ khóc, tôi cảm thấy phiền phức, nói: Thế bố mày quan trọng hay con chó quan trọng?
Con gái tôi chạy về giường, kéo chăn trùm kín đầu, không chịu ăn cơm. Tôi dỗ dành, tôi quát nạt nhưng chẳng hề tác động được đến con bé. Vợ tôi thì thầm vào tai tôi rằng, khi con chó rời khỏi cổng, nó quỳ mọp hai chân trước xuống đất và ngước mắt lên nhìn chủ, đôi mắt nó khó diễn tả lắm nhưng đầy nước mắt và khiến người ta muốn khóc.
Sáng hôm sau từ xưởng trở về, vợ tôi nói, hai gã đàn ông lôi nó đi, nó sống chết cũng không chịu đi, do vậy mà họ đã đập chết nó ngay trên đường. Tôi hỏi, nó có phản kháng gì không, vợ tôi bảo không có, hoàn toàn không có.
Tôi đã hứa với con gái rằng sẽ mua về cho con bé một con chó hiền lành, xinh đẹp hơn nhưng quả thật là tôi hơi do dự. Ai đã nuôi chó thì phải nuôi nó đến ngày cuối cùng, cho dù nó có cắn anh, anh có thể đánh chết nó nhưng phải đánh chết trong trạng thái đau khổ, đó mới chính là tình cảm chân chính của người nuôi chó!
Bây giờ, thân xác con chó của tôi đã sớm biến thành phân bón ruộng, những yếu tố vật chất tạo thành nó đã quay về với bản nguyên đại tự nhiên, và chắc chắn những dạng vật chất ban đầu ấy không còn cơ hội để kết hợp lại với nhau để tạo thành một con chó mới nữa, nhưng cuộc sống ngắn ngủi của nó đã gắn liền với một giai đoạn trong lịch sử tồn tại và phát triển của gia đình tôi. Những miếng cắn của nó trên thân thể tôi có khi lại biến thành những câu chuyện mà sau này con gái tôi sẽ kể cho con cháu của con bé nghe, có thể lắm chứ!
2. Nỗi oan của chóThực ra thì không chỉ có chó mới oan uổng, phàm là bất kỳ loài động vật nào đã bị con người thuần hóa đều oan uổng, trong đó có thể nói chó là oan uổng nhất. Chẳng hạn như trâu, vì con người mà kéo cày, vì con người mà cho sữa, vì con người mà cung cấp thịt xương lông da, ngay cả phân cũng hiến cho con người làm phân bón ruộng hoặc sưởi ấm, oan uổng thật đấy nhưng những cống hiến vô tư cùng với công lao của chúng đã được con người tán thưởng và xem đó là một phẩm chất đạo đức cao đẹp, thậm chí con người còn dùng phẩm chất ấy để tuyên dương những người chịu thương chịu khó, cần cù kham khổ.
Khi còn đang tại ngũ, tôi đã nhận ra rằng trong bộ đội là dễ vào Đảng nhất, dễ thăng tiến nhất, miễn là anh được yêu mến, cho dù trình độ văn hóa không cao nhưng phải là một “trâu vàng”, “trâu vàng cách mạng” có năng lực đặc biệt về trồng rau, quai búa, về chăn trâu và cả “dọn dẹp nhà xí”. Thế có loại trâu vàng không cách mạng không? Ai mà biết được! Nếu anh tốt nghiệp phổ thông trung học, miệng anh biết nói lời hay, bút anh biết viết những câu văn tốt thì việc kiếm sống của anh khó khăn hơn nhiều so với những “trâu vàng”, lại không được nhận những lời bình phẩm tốt đẹp gì trong tổng kết cuối năm chắc chắn người ta sẽ chụp lên đầu anh cái mũ “kiêu ngạo tự mãn, thiếu tinh thần cầu tiến”. Những chuyện ấy tự thân tôi đã trải nghiệm rồi chất chứa oán hận trong lòng. Rất nhiều năm gần đây, suy cho cùng đã có bao nhiêu “trâu vàng” được đề bạt làm quan trong quân đội, chưa ai thống kê được nhưng có thể khẳng định là số lượng không hề ít. Một ngày nào đó, những “trâu vàng” được đề bạt làm quân quan, một nửa phẩm chất “trâu” biến mất và quá trình đến với trụy lạc hủ hóa kể ra còn nhanh hơn nhiều so với giai cấp tư sản. Hành vi của bọn chúng chẳng khác nào bọn đánh bạc cố đấm ăn xôi để vớt vát lại một ít vốn mình đã bỏ ra, nếu có cơ hội thì còn kiếm được cả lãi. Sau một thời gian đào thải, hơn một nửa những “trâu vàng” này đã giải giáp về vườn, nhưng cũng có một số lại tiếp tục bò lên những vị trí cao hơn, dựa vào việc học như ăn tươi nuốt sống được vài trăm chữ Hán, dựa vào những khái niệm và những câu nhai đi nhai lại một cách vô nghĩa về “công tác chính trị tư tưởng” cho bộ đội để thống trị một địa hạt riêng của mình. Những con hổ từ “trâu vàng” biến thành này hễ mở miệng ra là “giác ngộ”, “tính đảng”, “nguyên tắc tổ chức”, “tác phong kỷ luật”, “quan tâm bồi dưỡng”, kỳ thực anh ta cũng không thể hiểu hết ý nghĩa chân chính của những từ này, chỉ là con vẹt học nói mà thôi. Về thực chất mà nói, trong đầu óc của anh ta chỉ có tư duy của gã tiểu quan dẫn vợ đến để phục vụ món vằn thắn cho Tuần Vũ đại nhân trong “Quan trường hiện hình ký” mà thôi. Anh ta quát nạt cấp dưới, cười trơn như mỡ với kẻ ngang cấp, còn với thượng cấp thì sao? Đó là một con chó Cáp Ba chính hiệu - Trông kìa, oan uổng đã xuất hiện rồi đó!
Người ta thường thích dùng trâu để tán dương người, dùng chó để chửi người. Có lẽ nào chó cống hiến cho nhân loại ít hơn so với trâu? Không! Không ít hơn tí nào cả. Căn cứ vào ý kiến của một chuyên gia về động vật, chó là loài dã thú được con người thuần hóa sớm nhất, có nghĩa là, chó có lịch sử bán mình cho con người sớm nhất so với tất cả các loài gia súc khác. Nghìn vạn năm qua, có bao nhiêu con chó đã bắt được bao nhiêu loài thú hoang về dâng cho chủ? Có bao nhiêu con chó đã săn đuổi những con vật đã bị bắn bị thương nhưng không chết về nộp trước mặt chủ, đổi lại là được thưởng một chiếc đầu chim hoặc một khúc xương thú? Có bao nhiêu con chó đã theo chủ quản lý dê cừu và đã bao nhiêu lần chó đuổi dồn những con vật cố tình lạc bầy về lại với chủ? Có bao nhiêu con chó đã vì chủ mà nằm canh ở chuồng vịt lồng gà không cho bọn sói và những con chồn tới ăn trộm vặt, đã có bao nhiêu cuộc chiến đấu một mất một còn xảy ra giữa chó và bọn này? Đã có bao nhiêu con chó trung thành đã nằm dưới móng vuốt của bọn sói hoang, vì lợi ích của chủ mà hy sinh cái sinh mệnh đáng quý của mình? Đã có bao nhiêu chó và bao nhiêu lần chó bị trọng thương vì chủ, da thịt nát bươm mà chủ nhân không hề thuốc thang gì, chỉ còn cách tự mình thè lưỡi liếm vết thương, có ông chủ còn bảo chân chó không bao giờ gãy, trên lưỡi của chó có sâm, trong nước bọt của chó có chất tiệt trùng kháng viêm? Đã có bao nhiêu chó vì con người mà vượt qua không biết bao nguy nan để đưa tin cứu được sinh mệnh của chủ? Đã có bao nhiêu chó theo chân con người để phát hiện ra bao nhiêu vùng đất mới? Đã có bao nhiêu chó kéo xe trượt tuyết chạy không mệt mỏi trên những vùng băng tuyết vĩnh viễn ở Bắc cực Nam cực, ban đêm ngủ trong hố tuyết, ban ngày chỉ được cho một vài chú cá con? Đã có bao nhiêu chó dựa vào chiếc mũi rất thính của mình để giúp đỡ cảnh sát điều tra phá án? Đã có bao nhiêu chó dựa vào hàm răng sắc, và đôi móng vuốt khỏe mạnh cũng như sự nhanh nhẹn của thân thể để khống chế những tên tội phạm, trừng trị kẻ ác, bảo vệ chính nghĩa? Có bao nhiêu chó suốt đời tận tụy với chức trách giữ nhà canh cổng vì tài sản của chủ, trấn tỉnh những trái tim yếu đuối và an ủi cô nhi quả phụ trong cuộc sống mỏi mòn? Có bao nhiêu chó với dáng vẻ đáng yêu, xinh đẹp hoặc quái dị đã làm vui lòng không biết bao nhiêu thiếu nữ thanh xuân, ông già bà cả, trẻ mồ côi, quý tộc bình dân, làm phong phú hơn đời sống tẻ ngắt của những linh hồn chán chường tuyệt vọng? Có bao nhiêu chó đã hiến bộ lông bóng mượt của mình để làm ấm lòng những kẻ lưu lạc giang hồ, giúp họ vượt qua những đêm dài tê cóng? Có bao nhiêu chó đã hiến thịt xương của mình cho những cái miệng thèm ăn của những bợm rượu để biến thành máu thịt, thành tế bào của chính họ? Có bao nhiêu bộ lông chó xinh đẹp đã biến thành những chiếc mũ nằm trên đầu của bao nhiêu người để giúp họ chống chọi với gió tuyết bão bùng? Có bao nhiêu tấm lông chó đã làm ấm thêm chiếc giường của bao nhiêu người trong đêm đông? Có bao nhiêu bộ xương chó đã được con người nấu thành “cao hổ cốt” để lừa người khác?… Thế thì, chó ơi! Những cống hiến của chúng mày rõ ràng không hề ít hơn so với trâu, lại càng không ít hơn so với ngựa, nhưng không hề có một câu tán dương nào dành cho mày. Khi người ta chửi một ai đó, họ ngoác mồm lên và câu đầu tiên văng ra là: Đồ chó! Đồ chó Cáp Ba! Đồ chó ghẻ! Đồ chó đẻ! Đồ cứt chó!… Cống hiến của mèo cho con người làm sao đọ được với chúng mày nhưng khi chửi người khác, có ai chửi là “đồ mèo đẻ”, “đồ mèo”… đâu! Hiện tượng bất bình đẳng này bắt đầu từ bao giờ và bắt đầu như thế nào? Ai có thể trả lời cho tôi đây?
Chó nghĩ: Con người quả đúng là một loài động vật thật đáng sợ, các người quả thật là khó đối đãi. Chỉ cần chúng tao hung bạo một tí là các người sẵn sàng ra tay giết chết, nhưng chúng tao quá hiền thì các người lại chê là đồ vô dụng và cũng chẳng ngần ngại gì mà không cho một dao, rồi biến thành một thứ thức ăn ngon vỗ béo chính mình. Ngày nào chúng tao cũng nghe các người than thở rằng làm người sao mà khó, nhưng liệu các người có biết là làm chó còn khó gấp trăm nghìn lần không? Lúc mới bắt đầu sáng tạo nên vạn vật, Thượng đế đều đã cho chó và con người một cái đuôi, dựa vào cái gì mà con người thống trị chó mà tại sao lại không phải là chó thống trị con người? Chúng tao không phản kháng được chẳng qua là vì chúng tao đánh không lại các người, các người phát minh ra cung tên, súng và không biết bao nhiêu là vũ khí khác, chúng tao chỉ còn nước cúi đầu xưng thần trước các người thôi. Những ai trong số chúng tao giác ngộ triệt để một tí thì bị các người gọi là “chó điên”, nhưng kỳ thực là chúng tao cực kỳ bình thường, chúng tao đang muốn khôi phục những vinh quang có từ thời xa xưa của loài chó và số ít bị xem là “điên” ấy xứng đáng được xem là những liệt sĩ “sát thân thành nhân”. Liệt sĩ của chúng tao hễ thấy người là cắn bởi vì chúng đã nhận chân ra một vấn đề mang tính bản chất: Con người đích thị là kẻ thù của loài chó! Mỗi một đồng loại “chó điên” của chúng tao bị các người hại chết đều đã biến thành một tượng đài nguy nga đồ sộ tồn tại mãi mãi trong thế giới loài chó chúng tao. Con người ơi! Các người chớ có đắc ý quá sớm như thế! Đương nhiên chúng tao cũng không thể phủ nhận là trong giống loài của mình cũng có những kẻ bại hoại về đạo đức, chẳng hạn như chuyện vi phạm nguyên tắc sáng tạo vạn vật, công khai giao cấu với nữ chủ nhân của mình, chuyện này có thể thấy được trong sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh người tỉnh Sơn Đông. Nhưng suy cho cùng, căn nguyên để dẫn đến chuyện này không phải từ chó mà là từ nữ chủ nhân của chó… Bên ngoài hình như có tiếng động gì đó? Có phải là bọn trộm đạo đang cạy cửa nhà chủ? Có phải bọn chồn sóc đang ăn trộm dưa của chủ? Gâu gâu gâu! Mặc dù đang đắm chìm trong những bộn bề suy nghĩ nhưng chúng tao không thể quên nhiệm vụ của chó đâu! Gâu gâu gâu gâu gâu gâu…
Nếu không thâm nhập vào tâm linh chó, có nằm mơ tôi cũng không thể tượng tượng được chó lại có những nỗi đau sâu sắc và những suy nghĩ phức tạp đến như thế. Chuyện gì chó cũng biết nhưng chẳng bao giờ thổ lộ tâm hồn một cách hời hợt. Chuyện gì chó cũng biết nhưng chúng giả vờ ngu độn đấy thôi. Ngay cả trong những tiếng gâu gâu kia cũng ẩn tàng không biết bao nhiêu là mâu thuẫn nội tâm mà không hề đơn thuần là những lời cảnh báo giản đơn cho chủ đâu!
Chuyện đã đến hồi kết thúc: vẫn cứ là Lỗ Tấn sâu sắc, vẫn cứ là Lỗ Tấn biện chứng. Tiên sinh cũng đã từng chửi “bọn chó hoang táng gia giai cấp tư sản”, cũng đã từng giơ cao ngọn cờ “đánh chết bọn chó rơi xuống nước”, nhưng tiên sinh lại kể rằng, sau khi bị thương, tiên sinh không kêu lấy một tiếng, nấp vào trong cỏ rậm và tự liếm vết thương của mình. Trong tất cả các loài động vật, chó là một trong số ít biết tự liếm để trị thương, do vậy mà thấy, mặc dù tiên sinh không hề bàn luận gì về chó nhưng đối với tính lưỡng diện của chó hay nói khác đi là hai loại chó, tiên sinh đã phân biệt đối đãi. Loại trước là loại tiên sinh rất hận, loại sau là loại tiên sinh bắt chước. Cho nên, tôi nghĩ, gọi người khác là chó ở thời kỳ đầu vốn không có ý chê bai và nhục mạ nhưng rồi sau đó, cách gọi này đã phát sinh biến hóa và trở thành danh từ chuyên dụng để chửi người.
Nhưng những người thầy trong cuộc đời tôi, kể cả chính cuộc sống này đã dạy tôi rằng, cái gọi là thuần túy chỉ là nói một cách tương đối, khó tìm được vàng mười, khó có người hoàn thiện, tất nhiên cũng khó có chó hoàn mỹ. Gọi người khác là chó nói chung trong mọi hoàn cảnh đều bao hàm sự ác ý, nhưng nhiều ông bố bà mẹ lại gọi con cái mình là “chó con”. Gọi “chó con”, “cún con” nhưng không hề ác ý, ngược lại là biểu hiện của sự thương yêu. Nghe đâu có bà vợ lại gọi đức lang quân là “cẩu cẩu”. Không đâu xa, trong sách “Lục hóa thụ” của Trương Hiền Lượng, nhân vật Mã Anh Hoa gọi Chương Vĩnh Lân là “cẩu cẩu”. Đây là cách gọi suồng sã gần gũi, là một kiểu biểu hiện tình sâu nghĩa nặng. Hiện tượng này tôi nghĩ là thường phát sinh ở những người đàn bà có mẫu tính mạnh mẽ, nhưng sự thật đã chứng minh rằng, những người đàn ông mặt sắt cần nhất có lẽ chính là những người đàn bà biết diễn xuất đúng vai trò làm mẹ nhưng đồng thời cũng làm tròn vai diễn tình nhân. Khi bắt tay vào viết kịch bản “Hán Sở tranh hùng” cho một đạo diễn danh tiếng, tôi phát hiện ra ở nhân vật anh hùng cái thế, khí lực trùm trời Hạng Vũ có loại tính cách này. Chuyện người anh hùng này và Ngu Cơ bịn rịn luyến lưu ở Ô Giang rất có khả năng là do Hạng Vũ là một “lão ngoan đồng”, còn Ngu Cơ là một điển hình cho hình mẫu “mẹ-tình nhân”!
Cho dù tôi có biện luận thế nào thì chó vẫn cứ là chó, người vẫn cứ là người, chó vẫn cứ bị con người nô dịch như thường, chó vẫn cứ biến thành những phù hiệu để chỉ loại người bại hoại về phẩm chất. Văn chương chính hiệu ngàn năm nay không thể làm thay đổi những thiên kiến, huống hồ là loại văn chương cứt chó như tôi đang viết ra đây!
Ta ôm ấp ngươi, ta nuôi ngươi lớn, ngươi lại đớp ta ba miếng, ta tìm người đánh chết ngươi, cả nhà ta bỏ công vì ngươi nhiều quá! Ta dùng hai bài văn này để giải tỏa những gì còn chất chứa trong đôi mắt ngươi, ngươi yên nghỉ nhé!
3. Vu vơ với chóNăm nay là năm con gà, nhưng tôi lại quá thiên về chó, lại cả gan viết mấy bài về chó nữa khiến tôi có cảm giác là mình đang sống trong năm chó. May mà thời gian trôi qua nhanh như bóng câu qua cửa sổ, chỉ trong chớp mắt mà “năm chó” đã lùi vào quá khứ và từ nơi xa xăm nó đang hướng về tôi sủa vang lên. Đầu năm con gà, tôi bị chính chó của mình cắn cho nhừ tử, tiêm chích thuốc phòng dại hơn một trăm ngày, ngoài việc lưu lại trên người mấy vết thương đỏ hỏn mỗi khi trái gió trở trời phát ngứa râm ran ra, tôi không còn chút cảm giác nào khác. Nghe đâu độc tố chó dại có khả năng tiềm ẩn, nhưng trăm ngày đi qua mà chẳng thấy mình có dấu hiệu gì khác thường tôi mới tin rằng khả năng phát bệnh của mình là rất nhỏ. Nếu mắc phải độc tố chó dại mà chết thì cũng chẳng bõ mình đã nhận một cái chết độc đáo, để có thể trở thành đề tài đàm luận của anh em bạn bè.
Sau khi xử lý con chó hung dữ đã cắn mình, tôi cầu khẩn bố mình tìm cho con gái tôi một con chó nhỏ. Trước yêu cầu của đứa cháu nội nhỏ nhất, bố tôi sẵn sàng đáp ứng, không những đáp ứng mà còn đáp ứng một cách rất nhiệt tình nghiêm túc. Chỉ cần ông phát ra hiệu lệnh là bạn bè thân thích nháo nhào hưởng ứng phân công nhau đi tìm, nhanh chóng tìm đến mười mấy hộ có chó mẹ đang mang thai, ai cũng bảo chờ đến khi đẻ xong thì đến lựa chọn tùy thích. Trước yêu cầu của cháu gái, chị tôi mặt dạn mày dày tìm đến một gia đình mà trước đó có quan hệ không mấy hữu hảo - con chó nhà này trước đây đã cắn con gái của chị. Nhà này đáp ứng vô cùng nhiệt tình, nói không có vấn đề gì, đến ngày chó đẻ nhất định sẽ để dành cho chị tôi một con đẹp nhất.
Trong lúc cả họ đang tất bật về chuyện ấy thì con gái tôi không biết tha từ đâu về một con chó nhỏ. Con chó vô cùng đáng yêu, lông trắng nhờ và mượt như nhung. Con gái tôi kiên quyết khẳng định đó là một con chó đực. Thế thì là chó đực vậy, chỉ cần con bé thích là được, chó cái mà nói thành chó đực thì có vấn đề gì đâu!
Vừa mới bước chân vào nhà, con chó đã làm cho không khí trong gia đình nhộn nhịp hẳn lên. Con bé ôm nó đi đi lại lại trong sân, líu lo cười nói không dứt. Mỗi lần trước khi đi học, con bé “bắt tay” từ biệt con chó; từ trường quay về, việc đầu tiên của con bé vẫn là “bắt tay” con chó và hàn huyên. Mỗi khi nhìn thấy cảnh ấy, tôi rất vui trong lòng. Thời niên thiếu của tôi trôi qua trong gian khổ thiếu thốn nhưng lúc ấy tôi vẫn không cảm thấy quá khổ, những lúc chạnh nhớ cũng chỉ thấy một màu bàng bạc thôi, nhưng tôi sợ con gái mình khổ. Chỉ cần con bé vui là tôi vui. Tương lai của thế giới này như thế nào, đến thời ấy con gái tôi liệu có phải chịu khổ như bố mẹ chúng một thời chịu khổ không, có ai nói trước được đâu? Chuyện của tương lai có lo lắng cũng bằng thừa, chuyện của trước mắt lo nghĩ nhiều một chút là đúng đắn nhất. Chó đem lại niềm vui sướng cho con tôi, chó vạn tuế! Viết đến đây, những bất mãn đối với chó đô thị của tôi cũng giảm đi phần nhiều. Người ta dùng sữa cao cấp tắm cho chó, dùng nước hoa cao cấp xịt cho chó… là tiền của người ta, là phúc phận của chó, có quan hệ gì đến tôi nào?
Mấy ngày trước, trong một cuộc hội nghị tôi đã gặp Đặng Cang. Anh ta bảo rằng mấy năm nay anh ta “treo chức” ở Nga, tầm nhìn đã mở mang vô cùng. Anh ta kể một lô một lốc những chuyện thú vị xảy ra ở Nga cho tôi nghe, trong đó có kể đến chó Nga. Anh ta bảo rằng, chó Nga có rất nhiều chủng loại, có loại nhìn đi nhìn lại vẫn nghĩ rằng đó là một con dê hoặc một con cừu nhưng vẫn cứ là chó. Anh ta còn bảo là có rất nhiều lái chó đáo qua đáo lại giữa hai thủ đô Bắc Kinh và Matxcơva, lái chó bỗng nhiên phát tài lớn, không chỉ phát tài mà còn trở thành chuyên gia về chó, thuộc làu những đặc điểm của chó trong lòng bàn tay. Lão Đặng còn bảo rằng anh ta đã từng nuôi một con chó tại Matxcơva có tên là “Nắm Đấm”, dung mạo của nó trông như gương mặt của một ai đó đang nghênh đón nắm đấm của một võ sĩ quyền Anh hạng nặng, còn tưởng tượng ra nó như thế nào thì tùy ý ông! Theo lời anh ta thì phụ nữ Nga không chỉ có kỹ thuật nuôi chó rất tốt mà còn có cảm tình đặc biệt với chó. Vú đàn bà Nga thường to, khe hở giữa hai “ngọn núi vú” có thể chứa được vài chú chó con, những chú chó ấy đều đội mũ nhung be bé trông chẳng khác nào những đứa bé đang vục đầu vào ngực mẹ bú sữa, nhưng tất nhiên là chó không phải đang bú sữa phụ nữ Nga. Phụ nữ Nga thường giắt những bình sữa bên hông, lợi dụng nhiệt độ thân thể để giữ ấm cho sữa trong bình. Trên những chuyến tàu quốc tế Matxcơva - Bắc Kinh, phụ nữ Nga chuyên buôn chó lôi chiếc bình sữa bên hông ra nhét vào miệng mấy con chó đầu đội mũ nhung đang ẩn thân trong “khe núi” ấy, và bọn nhóc vô cùng khoan khoái tận hưởng những hương vị ngọt ngào của sữa được thân nhiệt con người sưởi ấm. Cảnh tượng vô cùng sinh động trong từng lời kể của Đặng Cang như hiển hiện bằng xương bằng thịt trước mắt khiến lòng tôi ấm áp vô cùng. Thế giới này vô cùng đáng yêu, đàn bà Nga lại càng đáng yêu hơn! Tôi tưởng tượng ra nàng Acxinhia trong “Sông Đông êm đềm” của Solokhov. Chỉ có những người đàn bà mà trong “khe núi vú” có thể nhét được chó mới đẻ ra được những Acxinhia, mà cũng chỉ có những hậu duệ của Acxinhia mới có thể giấu được chó giữa “khe núi vú”!