← Quay lại trang sách

Những con cừu và... tôi

Họ nhà dê có rất nhiều chủng loại, hình dáng cũng khác nhau, nhưng để lại ấn tượng sâu nhất cho tôi vẫn là con cừu.

Hai mươi năm trước, tôi có hai con cừu làm bạn, hình bóng của chúng cho đến bây giờ vẫn còn lưu lại trong ký ức của tôi. Lúc ấy, bộ dạng của tôi thế nào khó mà có thể khảo chứng một cách rõ ràng, bởi lúc ấy ở quê tôi chuyện chụp ảnh là rất hi hữu; một thằng nhóc năm sáu tuổi lại càng không thể biết đến chuyện này. Theo lời mẹ kể, thuở nhỏ tôi rất xấu, khuôn mặt dài ngoẵng và loang lổ trông như mặt chó mặt mèo, lúc nào cũng thò lò mũi xanh, người trong làng gọi là “hai chiếc râu rồng”. Mẹ còn bảo, lúc nhỏ tôi ăn rất dữ, chẳng khác nào quỷ đói đầu thai. Tết năm ngoái tôi về thăm nhà, mẹ tôi lại bắt đầu kể lể những chuyện cũ. Bà bảo, tôi vốn là một mầm cây rất tốt, nhưng khi đang sức lớn sức ăn thì bị cái đói làm cho què quặt, kết quả là trở thành một kẻ cong cong vẹo vẹo như bây giờ. Vừa nói, mẹ vừa chảy nước mắt. Tôi không chịu nổi những giọt nước mắt thương tâm của mẹ, phải đánh trống lảng, hỏi mẹ về chuyện hai con cừu.

Vẫn còn nhớ, đó là một buổi chiều mùa xuân, một ông già ăn mặc rất tươm tất đến nhà tôi. Tôi nấp sau cánh cửa hiếu kỳ nhìn ông ta, nghe ông ta dùng một thứ ngôn ngữ địa phương khác nói chuyện với ông nội. Ông ta lôi từ trong túi áo ra hai miếng bánh khô đưa cho tôi. Bánh rất ngọt, nhai trong miệng nghe giòn tan. Mùi vị ngon ngọt của hai chiếc bánh ấy đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in. Ông nội bảo tôi gọi ông ấy bằng ông Hai. Sau đó tôi mới biết ông Hai là anh em kết nghĩa của ông nội, trên đường vận chuyển lương thực cho Giải phóng quân trong chiến dịch Hoài Hải, hai người đã gặp nhau, có thể gọi đó là “hoạn nạn chi giao”. Ông Hai hỏi tôi: Cháu Ba, có thích chăn cừu không? Tôi sốt sắng: Cháu rất thích! Ông Hai bảo: Thế thì tốt, chờ đến chợ phiên gia súc sang năm, ông sẽ mang cừu đến tặng cho cháu!

Ông Hai đi rồi, ngày nào tôi cũng trông chờ đến ngày chợ phiên, lân la bên cạnh ông nội để xem ông dùng sợi đay bện một chiếc roi mềm. Cuối cùng thì chợ phiên mà tôi trông đợi cũng đã đến. Quả nhiên ông Hai mang hai chú cừu con đến thật. Chúng được nhốt trong một chiếc giỏ, lông trắng như tuyết, xoăn tít; đôi mắt màu xanh lục, trong như hai viên thủy tinh. Khi mới về, chúng kêu la liên tục, chẳng khác nào hai đứa trẻ con lạc mẹ. Nghe thấy tiếng kêu của chúng, tôi thường mủi lòng, nhiều khi sa nước mắt. Ông Hai bảo, hai chú cừu non này mới chỉ có hai tháng tuổi, đáng ra còn phải được bú sữa, nhưng mẹ chúng không may đã chết. Nhưng cũng rất may là đã đến mùa xuân, cỏ non rất nhiều, chỉ cần chăm sóc một cách chu đáo thì bọn chúng không thể chết được.

Lúc ấy là đầu những năm 60, cuộc sống rất khó khăn, đồng tiền mất giá nên bất kỳ thứ gì ngoài chợ cũng đắt đỏ vô cùng, cừu càng đắt. Tuy ông nội và ông Hai là bạn vào sinh ra tử với nhau nhưng ông nội vẫn mang một ít tiền ra đưa cho ông ấy. Ông Hai tức đến độ râu tóc dựng ngược lên, quát lớn: Đại ca! Đại ca nhìn thằng em không ra cái gì hết. Hai con cừu này là tôi tặng cho cháu Ba! Ông nội nói: Nhị đệ à, đây không phải là tiền mua cừu, là đại ca đây giúp nhị đệ một chút lộ phí thôi! Vợ của ông Hai vừa mới chết đói, ông ta chỉ sống một mình, gia sản lại không có gì nên ông vất bỏ tất cả định chạy đến vùng Đông Bắc để tìm một người đàn bà. Ông Hai run rẩy cầm số tiền ông nội đưa cho, nước mắt lưng tròng nói: Đại ca, thằng em này ghi nhận tấm lòng của đại ca…

Đôi cừu này một đực một cái, chị cả tôi lúc bấy giờ đang học trung học đặt cho chúng hai cái tên, con đực tên “Kaliosa”, con cái tên “Kalinia”. Lúc bấy giờ quan hệ Trung - Xô rất tốt đẹp, trong trường học nào cũng có môn Nga văn, chị cả tôi là một trong những học sinh giỏi Nga văn nhất lớp.

Làng tôi nằm ngay vị trí giao tiếp giữa ba huyện. Rời khỏi thôn đi về phía đông khoảng vài cây số là một cánh đồng cỏ mênh mông bát ngát. Mùa xuân vừa đến, điểm trên những thảm cỏ xanh rì mênh mông là hằng hà sa số các loài hoa trông như một tấm thảm hoa văn rực rỡ. Tôi và hai con cừu của mình đã tìm thấy “lạc viên” cho riêng mình. Hình như bọn chúng đã quên hết những nỗi sầu khổ, ăn đầy một bụng cỏ non là bắt đầu chạy nhảy tung tăng, tôi cũng nằm trên thảm cỏ mà hưởng thụ những phút giây yên bình. Thi thoảng, những loài chim làm tổ trên cỏ bị chúng tôi làm cho hoảng sợ, như một mũi tên bay thẳng lên bầu trời.

Kaliosa và Kalinia lớn rất nhanh, lại rất mập; riêng tôi vẫn cứ lùn và vẫn cứ gầy. Những người trong nhà đều san sẻ phần cơm cho tôi nhưng lúc nào tôi cũng vẫn cảm thấy mình không bao giờ được ăn no. Mỗi lần tôi nhìn hai chiếc mồm xinh xắn và sinh động gặm cỏ non của chúng là tôi cảm thấy thèm muốn vô cùng. Có lúc, tôi bắt chước chúng bứt một nắm cỏ non bỏ vào miệng nhai, nhưng suy cho cùng tôi không phải là loài dê cừu, nên những gì trông rất ngon lành ấy lại chán ngấy trong miệng, không thể nuốt nổi.

Rồi có một ngày, tôi vô tình phát hiện ra trên đầu Kaliosa xuất hiện hai chấm tròn màu hồng hồng. Tôi cảm thấy kinh dị vô cùng, vội vàng chạy về nhà để hỏi ông. Ông nội bảo, cừu sắp mọc sừng. Tôi rất phản cảm với việc Kaliosa mọc sừng, bởi trên đầu nó mà có hai chiếc sừng, có lẽ trông rất khó coi.

Xuân qua thu về, con Kaliosa đã trông rất to lớn và đường bệ, bốn chân thẳng và rất cứng cáp, hai chiếc sừng trên đầu to, thô và cong veo đâm thẳng lên trời. Nó đã hoàn toàn mất đi vẻ đẹp của tuổi thiếu niên, đi lại ngông nghênh với một vẻ tự cao tự đại, sao mà giống với những cán bộ công xã đã thoát ly khỏi kiếp lao động đọa đày. Tôi vẫn thường nắm chắc lấy hai chiếc sừng, dùng chút sức lực nhỏ bé của mình ấn đầu nó cúi thấp xuống một tí với mong muốn nó hãy dẹp bớt đi cái vẻ kiêu ngạo, khiêm tốn hơn một tí. Hình như việc làm của tôi khiến nó bất mãn, nó lắc đầu một cái là tôi đã ngã chỏng vó. Kalinia cũng đã lớn, trông nó rất mơn mởn, lại rất nhu mì hệt một cô gái đài các. Nó cũng có sừng, có điều rất nhỏ.

Hai con cừu của tôi nổi tiếng khắp làng. Mỗi khi tôi thả chúng trên đồng cỏ, thường thì có một bầy trẻ con bao vây lấy chúng tôi, đứng xa xa ngắm nhìn cặp sừng trên đầu Kaliosa và thách đố nhau: Đứa nào dám sờ cặp sừng trên đầu Kaliosa, mọi người sẽ hái đầy cho đứa ấy một sọt rau dại. Có một đứa to gan tên là Trình Anh Hùng rón rén tiếp cận, nhưng không chờ thằng này động thủ, Kaliosa đã lắc đầu húc cho một cú ngã ngửa. Tất nhiên tôi không hề sợ Kaliosa, chỉ cần tôi không ấn đầu nó xuống, lúc nào nó cũng nghe lời và đối đãi tốt với tôi. Tôi có thể cưỡi lên lưng Kaliosa để nó đưa tôi đi một đoạn khá xa.

Có người nhiều chuyện khuyên ông nội hãy bán hai con cừu này, bảo mỗi con có thể đáng giá 300 đồng. Nghe tin này, tôi hoảng sợ và căm hận vô cùng. Đêm đó tôi không về nhà, muốn cùng đôi cừu yêu quý của mình ngủ trên đồng cỏ. Ông nội đi tìm chúng tôi, bảo: Yên tâm đi, các con. Ông không bán đâu. Cháu rất khổ công để nuôi chúng lớn lên, ông nỡ lòng nào bán chúng.

Ngoài tôi cùng với Kaliosa và Kalinia còn có một đàn cừu của nông trường quốc doanh cũng thường được chăn thả trên đồng. Trong số đó có một con, nghe đâu là loài cừu Tân Cương. Có lẽ nó đã sáu bảy tuổi gì đó, xác to hơn Kaliosa chút ít. Toàn thân con cừu này được phủ bởi một lớp lông vô cùng bẩn thỉu màu vàng đất, hai chiếc sừng xanh xanh cong vẹo trên đầu như hai thanh thép. Nó rất thích liếc xéo nhìn người ta, bộ dạng trông thật đáng sợ. Xưa nay, tôi ghét và tránh xa đàn cừu này. Không ngờ có một ngày, Kaliosa và Kalinia lại dám vi phạm những điều cấm đoán của tôi, chủ động tiếp cận với đàn cừu ấy. Người chăn dắt đàn cừu này là một thanh niên khoảng hai bảy hai tám tuổi, mặc bộ quần áo học sinh màu lam, khuôn mặt trắng nhợt trông như người bị đói muối. Anh ta rất nhiệt tình nói với tôi: Cậu em à, cậu chăn hai con cừu này quả thật không tồi tí nào! Tôi ngẩng cao đầu kiêu ngạo. Anh ta lại nói: Đáng tiếc chúng không phải là giống cừu tốt. Nếu con cừu cái của cậu mà cho giao phối với con cừu gốc Tân Cương của anh đây, nhất định con do nó sinh ra sẽ rất tuyệt vời! Vừa nói, anh vừa chỉ vào con cừu xấu xí đang gặm cỏ trước mặt tôi. Tôi vội vội vàng vàng định dắt Kaliosa và Kalinia quay về, nhưng đã muộn mất rồi. Con cừu già xấu xí ấy đã trông thấy Kalinia, điên cuồng nhảy xộc đến, cái mồm bẩn thỉu gớm ghiếc ngửi khắp người Kalinia, vừa ngửi vừa chun mũi, nhe răng nhìn lên trời, bộ dạng vô cùng lưu manh. Kalinia kẹp đuôi trốn tránh nhưng con cừu khốn kiếp ấy vẫn lẵng nhẵng bám theo đuôi không rời. Tôi điên tiết vung chiếc roi lên quất cho mấy roi, nhưng nó vẫn không thèm để ý. Lúc ấy Kaliosa dũng cảm xông đến. Con cừu già kia vốn là tay đấu sừng có hạng, đứng yên trên cỏ, đôi mắt khinh miệt chờ Kaliosa, bộ dạng đúng là một kẻ lưu manh chính hiệu. Hiệp đấu thứ nhất mở màn, con cừu già dùng miếng “dĩ hư tị thực”, chỉ cần bước tránh sang một bên là Kaliosa đã ngã lăn ra đất. Tuy thất thế nhưng Kaliosa không hề tỏ ra sợ hãi, đứng dậy rất nhanh, tiếp tục một đợt tấn công dũng mãnh mới. Đôi mắt nó phát ra ánh sáng đỏ rực, mũi căng phồng lên, thở phì phò, trông chẳng khác nào một con chó sói trong trí tưởng tượng của tôi. Lão cừu già không dám khinh địch nữa, giơ cặp sừng ra sẵn sàng nghênh chiến. Mấy tiếng cộp cộp vang lên, bốn chiếc sừng quấn chặt lấy nhau, hình như có những tia lửa tóe sáng. Một trận ác đấu thật sự, tiếng va của sừng cồm cộp như tiếng gõ của trái bóng bàn lên mặt bàn vang lên liên tục, một mảng cỏ xanh bị bốn chiếc chân xéo nát. Cuối cùng thì cả hai đã đuối sức, bọt mép trắng xóa rơi cả xuống cỏ, mồ hôi túa ra ướt cả lớp lông dày. Cuộc chiến đã đi vào giai đoạn quyết định, bốn chiếc sừng lại quyện chặt lấy nhau. Kaliosa tiến ba bước, lão cừu già thối lui ba bước; lão cừu già tiến ba bước, Kaliosa thối lui ba bước. Tôi lo lắng quá, khóc và chửi bới lão cừu già om sòm nhưng lão nào có để ý gì đến tôi. Tôi chửi người chăn cừu, người chăn cừu cũng chẳng thèm để ý. Hình như anh ta chẳng nghe thấy tiếng chửi của tôi mà đang cúi đầu chăm chú vẽ vẽ cái gì đó trên một tấm bảng. Đúng là đồ trứng thối! Tôi xông đến, vung roi quất liên tục xuống mông lão cừu già. Người chăn cừu nhào đến lôi tôi rời xa, lắp bắp: Người anh em, tôi xin cậu, để cho tôi vẽ xong bức vẽ đấu cừu này… Tôi trông thấy một tờ giấy trắng nằm trên tấm bảng, trên tờ giấy là Kaliosa và lão cừu già trông như thật, chỉ có điều phần sau của lão cừu già vẫn chưa vẽ xong. Đến lúc ấy, tôi mới biết rằng những con vật sống trên thế gian này có thể sống được trên trang giấy. Không ngờ anh chàng trông như kẻ thiếu muối này lại có bản lĩnh dường ấy.

Rất tự nhiên, tôi sùng bái anh chàng chăn cừu từ ngày ấy và chúng tôi đã trở thành đôi bạn thân, ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau trên đồng cỏ. Anh ta đã khiến tôi biết được nhiều chuyện ly kỳ cổ quái, tôi cũng cho anh ta biết những chuyện bí mật trong làng tôi. Anh ta đã đem bức họa cừu đánh nhau tặng cho tôi, lại còn đề tên, nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Nâng niu như một bảo bối, bằng cả hai tay tôi mang bức họa về nhà, ai cũng trầm trồ thán phục. Tôi dùng một củ thục địa dán bức họa lên tường.

Chủ nhật, chị tôi từ trường quay về để lấy lương thực, trông thấy bức họa thì kêu lên rằng, đây là một họa sĩ nổi tiếng trong toàn tỉnh, không may là bị quy vào phái hữu. Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi giới thiệu chị tôi làm quen với anh chàng họa sĩ chăn cừu.

Sau đó, lão cừu già và Kaliosa còn đấu với nhau mấy lần nữa, bất phân thắng bại và không hiểu vì sao, bỗng dưng cả hai lại tỏ ra vô cùng thân thiện với nhau.

Năm sau, Kalinia sinh được hai cừu con, lông rất dài, chiếc đuôi phết đất, đúng là loại cừu không hề tầm thường. Lúc ấy, cừu không còn đắt giá nữa, bốn con cừu không đáng một trăm đồng. Tôi biết ông nội có chút hối hận nhưng ông vẫn không nói lấy một lời về chuyện này.

Thắm thoát mà đã hai mươi năm, ông nội cũng đã gần chín mươi, tôi nhập ngũ cũng đã đến mấy năm. Năm ngoái tôi quay về thăm gia đình, ông nội bảo: Tấm da cừu ấy đã bị côn trùng cắn nát rồi… Ông Hai của cháu có lẽ cũng không còn sống nữa…

Ông nội nhắc đến tấm da cừu, đó chính là da của Kaliosa. Năm ấy, sau khi đấu một trận chí tử với lão cừu già, tính cách của Kaliosa bỗng nhiên biến đổi, động một cái là húc người. Húc không được người, nó bèn húc vào tường. Tường của chuồng cừu đã bị nó húc vỡ một mảng to tướng. Có một lần, ông nội đi đổ nước cho nó uống, đồ súc sinh ấy chẳng biết nhận mặt người thân, húc ông nội đến suýt chết. Ông nói: Đồ súc sinh này không để lại được nữa. Nhân một ngày không có tôi ở nhà, ông nội bảo chú Tứ giết chết nó. Tôi trở về chỉ còn trông thấy Kaliosa oai phong lầm lẫm ngày xưa đã chui vào trong nồi, thịt đang nhào lên lộn xuống. Mười mấy đứa trẻ trong gia tộc đang ngồi chầu chung quanh chiếc nồi chờ đợi được ăn thịt. Nước mắt tôi trào ra. Khi mẹ đưa một bát thịt đầy ú đến trước mặt tôi, cho dù không thấy ngon chút nào nhưng tôi cũng lùa vội vàng tất cả vào dạ dày.

Kalinia và hai đứa con của nó cũng bị ông nội dắt đến chợ phiên gia súc bán luôn.

Tiếp theo sau đó, chị tôi cùng chàng họa sĩ chăn cừu bỏ trốn, bức họa cừu đánh nhau bị chị bóc mang đi hay bị mẹ dùng làm vật mồi lửa, tôi không thể nào nhớ được nữa.

Bảo Định, tháng 5 - 1981