Chương 1
“Em gái cô tự sát.”
Tại nhà xác công cộng Phú Sơn quận Sa Điền, nghe cảnh sát nói vậy, Di nổi nóng cãi ngay, “Không thể nào”, “Các anh chưa điều tra kĩ”, “Tiểu Văn việc gì phải tự sát”…
Cảnh viên Trình phụ trách vụ án là một ông chú gầy còm khoảng 50 tuổi, tóc lấm tấm bạc, bề ngoài ngang tàng nhưng ánh mắt hồn hậu. Trước phản ứng dữ dội của Di, ông vẫn bình tĩnh an ủi bằng giọng trầm đều đều, còn hỏi một câu khiến Di cứng họng, “Cô Âu Nhã Di, cô thực sự cho rằng em cô không thể tự sát ư?”
Dù không muốn, Di vẫn phải thừa nhận Tiểu Văn có lý do tìm đến cái chết. Áp lực đè trĩu suốt nửa năm qua đã vượt quá sức chịu đựng của một cô bé 15 tuổi.
Mà mọi chuyện, phải kể lại từ nỗi bất hạnh đeo bám nhà họ Âu bao năm ròng.
Sinh ra trong thập niên 1960, bố mẹ Di là thế hệ thứ hai của làn sóng di cư. Năm 1946, nội chiến Quốc-Cộng* nổ ra, tháng nào cũng có dân đại lục tràn sang Hồng Kông. Sau khi Đảng Cộng sản giành chính quyền và thực hiện cải cách chế độ, phát động vận động chính trị, số người chạy sang đây chỉ tăng chứ không giảm. Ông bà Di là dân Quảng Châu trốn sang, thời đó xã hội Hồng Kông cần lao động giá rẻ số lượng lớn nên hầu như không chối bỏ dân di cư trái phép, bởi vậy ông bà mới có cơ hội bám rễ xứ Cảng, giành quyền tạm trú trở thành người Hồng Kông. Mang tiếng đủ tư cách ở lại, song cuộc sống của “người Hồng Kông mới” thường rất vất vả. Họ phải làm các công việc chân tay nặng nhọc với giờ lao động dài, tiền lương thấp và điều kiện sinh hoạt tệ hại. Tuy nhiên nền kinh tế Hồng Kông giai đoạn ấy đang trên đà phát triển, chỉ cần chịu thương chịu khó ắt có cơ hội cải thiện cuộc sống. Thậm chí một số người còn nhân lúc này lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, đặt chân vào hàng ngũ những người thành đạt.
Cuộc nội chiến tân thứ hai giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng Trung Quốc tranh chấp quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục với chiến thắng thuộc về phe Đảng Cộng sản, dẫn tới sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau sự kiện này, rất nhiều người dân đã ồ ạt tìm đến Hồng Kông sinh sống vì không muốn chịu quyền kiểm soát của chính quyền Đảng Cộng sản.
Ngặt nỗi, ông bà Di không có duyên với cơ hội đó.
Tháng Hai năm 1976, cháy lớn bùng phát tại khu nhà gỗ vịnh Tiêu Cơ* và vịnh Aldrich, thiêu rụi hơn nghìn căn nhà, đẩy hơn ba nghìn người vào cảnh vô gia cư. Ông bà Di đều mất mạng trong vụ hỏa hoạn, để lại cậu con trai mới 12 tuổi là Âu Huy. Huy không còn người thân nào khác ở Hồng Kông, đành nương nhờ một người hàng xóm mất vợ trong hỏa hoạn. Người này có con gái 7 tuổi tên Châu Khởi Trăn.
Shau Kei Wan, thuộc quận Đông, đảo Hồng Kông.
Do gia cảnh nghèo khó, Huy và Trăn đều không có điều kiện học lên cao mà phải lăn lộn ra đời từ sớm. Huy làm công nhân kho bãi tại một kho hàng, còn Trăn làm nhân viên tạp vụ ở quán trà*. Hai người mến nhau rồi tiến tới cưới gả vào năm 1989, trước khi cha Trăn qua đời vì bạo bệnh.
Ba năm sau, Trăn sinh hạ một bé gái, đặt tên là “Nhã Di”*. Gia đình ba người thuê một căn hộ đơn tại tòa nhà cũ ở vịnh Thổ Qua. Trăn tảo tần, Di ngoan ngoãn, Huy cần cù dốc lòng kiếm tiền để sau này con gái được học đại học, không phải bỏ ngang đi làm như vợ chồng anh. Chưa kể mỗi thời mỗi khác, giờ không phải cứ bán sức là có việc làm nữa, xã hội Hồng Kông ngày càng coi trọng bằng cấp rồi.
Một hình thức nhà hàng cổ truyền, phục vụ trà và đồ ăn Trung Hoa.
“Nhã” nghĩa là “thanh cao, tốt đẹp”, “Di” là “vui vẻ hài hòa”.
Khi Di 6 tuổi, vận may lần đầu đến với gia đình họ: đơn đăng kí nhà ở xã hội Huy gửi đi bao nhiêu năm cuối cùng cũng có hồi đáp.
Ở nơi đất chật người đông như Hồng Kông, nhà ở luôn là vấn đề nan giải. Các gia đình thu nhập thấp được thuê nhà ở xã hội với giá rẻ, nhưng do cung không đủ cầu, nộp đơn xong thường phải chờ rất nhiều năm mới được duyệt. Năm 1998, Sở Nhà đất phân cho gia đình Huy một căn hộ tại tòa nhà Hoán Hoa thuộc cư xá Lạc Hoa, quận Quan Đường. Đây coi như may mắn trời ban giữa khi châu Á nói chung và gia đình Huy nói riêng đang lao đao vì khủng hoảng kinh tế. Tiền thuê nhà ở xã hội chỉ bằng nửa tiền thuê nhà tư nhân, miễn là ăn tiêu dè sẻn, họ vẫn có thể tiết kiệm một khoản nho nhỏ phòng khi cần đến.
Chuyển vào cư xá Lạc Hoa được hai năm, gia đình chào đón thêm thành viên mới: Âu Nhã Văn*. Căn hộ vốn thiết kế cho gia đình hạt nhân hai đến ba người, giờ bỗng thành chật chội. Huy xin đổi sang căn lớn hơn, Sở Nhà đất hồi đáp rằng nguồn cung nhà ở eo hẹp, trong cư xá này, thậm chí là trong cả quận này, không kiếm đâu ra căn hộ phù hợp để phân cho họ nữa. Nếu vẫn muốn đổi nhà, chỉ còn cách đi xa hơn, đến quận Đại Bộ* hoặc Nguyên Lãng*. Huy bàn với vợ, Trăn vốn an phận, liền bảo, “Chúng ta ở đây quen rồi, giờ chuyển nhà, anh đi làm bất tiện mà con lại phải chuyển trường, tội gì. Ở đây chật mấy cũng còn hơn năm xưa chen chúc trong khu nhà gỗ, phải không nào?”
“Văn” nghĩa là “vân mây”.
Tai Po, một trong 18 quận của Hồng Kông nằm ở Tân Giới.
Yuen Long, một trong 18 quận của Hồng Kông nằm ở phía Tây Bắc Tân Giới.
Huy vẫn cho rằng khi các con lên trung học thì cần có phòng riêng, tiện lợi mà cũng tự lập hơn. Nhưng anh không biết phản bác vợ thế nào, và cũng không ngờ là mình chẳng có cơ hội nhìn hai con lên trung học.
Năm 2004, Âu Huy qua đời vì tai nạn lao động, hưởng dương 40 tuổi.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và đại dịch SARS bùng phát năm 2003, kinh tế Hồng Kông chịu ảnh hưởng nặng nề, rất nhiều chủ doanh nghiệp phải chuyển sang thuê ngoài hoặc thuê nhân công hợp đồng, trốn tránh trách nhiệm của người sử dụng lao động nhằm giảm thiểu chi phí. Công ty lớn thuê công ty nhỏ phụ trách một vài khâu với chi phí thấp, công ty nhỏ lại chia tiếp việc cho công ty khác nhỏ hơn để ăn tiền trung gian. Mối quan hệ thuê mướn nhiều tầng khiến lương công nhân bị cắt giảm mạnh, nhưng vì kinh tế trì trệ, công nhân sợ mất cần câu cơm nên chỉ còn cách im lặng chịu bóc lột.
Huy đã qua tay một số “công ty nhỏ” như vậy, phải gắt gao tranh suất công việc có hạn với nhiều công nhân khác. Cũng may trong những năm làm ở kho hàng, Huy thi được giấy phép điều khiển xe nâng hàng nặng nên có lợi thế hơn khi tìm việc. Không chỉ ngành kho vận mà cả các cảng container cũng có nhu cầu thuê người biết lái và sử dụng xe nâng. Để tăng thu nhập, Huy kiêm luôn hai việc, vừa bốc vác cho kho ở vịnh Cửu Long, vừa lái xe nâng tại cảng container Quỳ Dũng, một lòng một dạ muốn tranh thủ kiếm tiền khi còn sức lực.
Một tối lất phất mưa phùn tháng Bảy năm 2004, quản lý kho hàng số 4 cảng container Quỳ Dũng phát hiện mất một xe nâng. Sau khi tra hỏi công nhân, ông ta mới biết không chỉ xe mà cả lái xe cũng mất tích. Có ông lái cần cẩu bảo thấy Huy lái xe nâng tới khu Q31 rồi không về nữa. Quản lý kho bèn dẫn người đến xem xét. Họ phát hiện dấu vết khác thường tại một trụ neo tàu ven bờ: bên trái trụ neo có vết xước sâu, trên mặt đất gần đó vương vãi nhiều mảnh nhựa màu vàng. Thoáng trông đã biết là các mảnh vỡ của xe nâng.
Quản lý cuống quýt báo cảnh sát. Đội phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ lặn xuống tìm kiếm. Nửa giờ sau, suy đoán không may của các công nhân được chứng thực. Huy gặp tai nạn, cả người và xe rơi xuống biển, xe lún phân nửa vào đáy cát, người thì mắc kẹt giữa giá nâng và càng nâng. Khi người ta cẩu được chiếc xe nặng trĩu bùn đất lên khỏi mặt nước, Huy đã vô phương cứu chữa.
Di mất cha khi mới 12 tuổi, còn Tiểu Văn chỉ có 4 tuổi.
Trăn đứt từng khúc ruột trước cái chết của chồng, nhưng không để bản thân suy sụp, vì chị biết từ giờ hai con gái chỉ có mẹ là chỗ dựa duy nhất.
Theo lý mà nói, vì Huy chết khi làm nhiệm vụ nên gia quyến sẽ được đền bù 60 tháng lương theo đúng Luật Lao động, ba mẹ con Trăn có thể cầm cự vài năm nhờ khoản bồi thường này. Nhưng xui xẻo lại đến với nhà họ Âu lần nữa.
“Chị ơi, không phải tôi không muốn giúp chị, nhưng công ty chỉ chi trả được ngần này thôi.”
“Anh Ngưu à! Anh Huy làm việc bạt mạng cho công ty Vũ Hải các anh, ngày đi làm từ tờ mờ sáng, tối về bọn trẻ đã ngủ say, hai con gái chẳng có cơ hội thấy mặt bố. Giờ anh ấy gặp nạn, mẹ góa con côi chúng tôi không nơi nương tựa, công ty lại chỉ đưa vài đồng bạc thôi sao?”
“Hầy, tình hình công ty khó khăn, chưa biết chừng sang năm phá sản ấy chứ, đến lúc đó khéo vài đồng còn chẳng có.”
“Vì sao Vũ Hải phải trả tiền? Anh Huy cố báo hiềm lao động cơ mà? Tiền phải do hãng bảo hiểm trả chứ?”
“Bảo hiểm của anh Huy… hình như không qua được cửa phòng giám định.”
Ngưu là đàn anh của Huy trong Công ty Vận tải và xếp dỡ Vũ Hải, từng gặp Trăn vài lần, bởi vậy ông chủ Hải mới phân công anh ta làm người trung gian đến “đàm phán” với Trăn. Theo như anh ta nói, công ty có mua bảo hiểm lao động cho Huy, nhưng sau khi ủy thác cho văn phòng giám định tai nạn, hãng bảo hiểm cho rằng trường hợp này không được áp dụng bảo hiểm. Bởi vì Huy gặp tai nạn khi đã hết ca làm, không thể chứng minh lúc anh điều khiển xe nâng là đang làm việc. Ngoài ra, sau khi kiểm tra, người ta xác nhận xe nâng không hề trục trặc, nên không thể loại trừ khả năng Huy mất ý thức trong lúc điều khiển xe do “vấn đề sức khỏe cá nhân”, dẫn đến tai nạn.
“Ý của họ là, có thể Huy mắc bệnh nhưng giấu, hôm đó hết ca tiện lái luôn xe nâng cho đỡ phải cuốc bộ, đi ngang qua khu Q31 thì lên cơn bệnh, làm xe nâng rơi xuống biển… Thậm chí có người còn nói phải truy cứu trách nhiệm phá hoại xe nâng nữa. Nhưng ông chủ bảo làm người không thể giậu đổ bìm leo, Huy làm việc ở công ty không có công cũng có cán, bên bảo hiểm không bồi thường thì công ty cũng phải làm gì đó. Khoản tiền tuất nghĩa tình này là tấm lòng của công ty, chẳng thấm tháp gì, nhưng mong chị nhận tạm.”
Lúc anh Ngưu đưa chi phiếu, tay Trăn run lẩy bẩy. Câu nói “truy cứu trách nhiệm phá hoại xe nâng” làm chị ức phát khóc. Nhưng chị biết tính tình anh Ngưu chính trực, chỉ thuật lại đúng những gì được bảo, nổi cáu với anh ta cũng vô ích. Khoản tiền tuất nghĩa tình bằng đúng ba tháng lương của Huy, chỉ như muối bỏ bể so với khó khăn kinh tế mà nhà họ Âu đang phải đối mặt.
Trăn mơ hồ cảm thấy bên Vũ Hải vẫn còn điều giấu giếm. Nhưng chị không biết làm cách nào đòi quyền lợi cho mình và con gái, cuối cùng đành nhận chi phiếu.
Trực giác của Trăn đã đúng.
Để đảm bảo quyền lợi công nhân và đề phòng công ty sụp đổ vì những khoản đền bù khổng lồ, Luật Lao động quy định mọi công ty phải mua bảo hiểm cho công nhân, như thế hãng bảo hiểm sẽ gánh lấy các rủi ro liên quan, công nhân bị thương hay qua đời trong lúc làm việc đều không ảnh hưởng tới tình trạng tài chính của công ty. Vấn đề là, ông chủ Vũ Hải không phải bỏ tiền đền bù, mà cũng không muốn hãng bảo hiểm phải đền bù quá nhiều. Bởi điều này sẽ ảnh hưởng đến “lịch sử tín dụng” của công ty, hễ hãng bảo hiểm phải chi trả một khoản lớn, sau này họ sẽ yêu cầu công ty đóng phí rất cao.
Trăn thì tưởng công ty sẽ đòi bên bảo hiểm mức bồi thường tối đa cho công nhân, nào ngờ hai bên lại cá mè một lứa. Hồng Kông ngoài mặt phồn hoa, bên trong chà đạp xương máu những kẻ yếu thế. Xí nghiệp lớn bóc lột xí nghiệp nhỏ, xí nghiệp nhỏ bóc lột công nhân. Đối với các ông chủ, lợi ích kinh doanh quan trọng hơn tương lai của gia đình lao động.
Nhà mất đi trụ cột kinh tế, tiền bồi thường lại không đủ chi trả sinh hoạt phí, Trăn buộc phải quay lại quán trà làm việc. Mười năm đã qua, giá cả tăng vọt, không ngờ tiền lương vẫn như cũ. Lương quán trà không đủ nuôi thân và các con, Trăn đành xin trực ca đêm ở cửa hàng tiện lợi ba ngày một tuần. Hết ca lúc 6 giờ sáng, ngả lưng chưa đầy năm tiếng đã phải đến quán trà làm việc.
Rất nhiều hàng xóm khuyên Trăn nghỉ việc, nộp đơn xin trợ cấp an sinh*, song Trăn một mực từ chối, “Đúng là thu nhập của tôi hiện giờ chỉ nhỉnh hơn tiền trợ cấp một chút. Nghỉ việc xin trợ cấp thì có thể toàn tâm toàn ý chăm sóc Di và Văn. Nhưng các bác bảo tôi sau này phải dạy hai đứa trở thành người có trách nhiệm như thế nào đây?”
Ủy ban Phúc lợi Xã hội Hồng Kông có một hạng mục là Hỗ trợ An sinh Xã hội Toàn diện (Comprehensive Social Security Assistance/CSSA), dành cho người thu nhập thấp. Nhà nào khó khăn có thể nộp đơn xin, sẽ được xem xét nhận trợ cấp.
Cứ thế, mẹ bận bịu tối ngày nên mọi công việc nội trợ từ quét tước dọn dẹp, đi chợ nấu cơm đến chăm lo cho em gái 4 tuổi đều do Di quán xuyến. Chưa đầy 13 tuổi, Di đã biết cách săn sóc gia đình, tiết kiệm chi tiêu, đảm bảo nhu cầu cuộc sống với mức sinh hoạt phí có hạn. Ngoài giờ học, Di từ chối mọi lời rủ đi chơi, cũng hoàn toàn vắng mặt khỏi các hoạt động ngoại khóa, dần dà xa cách với bạn học, thậm chí bị coi là cô độc lập dị, nhưng em không hề bận tâm, tự lực trưởng thành với tâm hồn chín chắn, có trách nhiệm hơn nhiều bạn bè đồng trang lứa.
So với Di, Tiểu Văn hầu như không bị ảnh hưởng vì cái chết của bố, lớn lên vô tư lự giữa vòng tay chở che của mẹ và chị.
Với Di mà nói, năm năm trung học không hề dễ dàng, nhưng cô không những vượt qua mà còn đứng đầu lớp, điểm thi đủ để lên thẳng dự bị đại học*, giáo viên chủ nhiệm còn đánh giá là cô có khả năng thi đỗ đại học hàng đầu. Nhưng mặc các thầy cô hết lòng khuyên nhủ, Di vẫn bỏ ngoài tai, quyết định học xong cấp ba thì đi làm. Khi bố qua đời, cô đã nhủ với lòng, bất kể thành tích ra sao cũng không học đại học, tập trung san sẻ gánh nặng kiếm tiền nuôi gia đình với mẹ.
Trước năm 2012, Hồng Kông vẫn áp dụng chế độ giáo dục 5 năm trung học, 2 năm dự bị đại học, 3 năm đại học theo kiểu của Anh. Sau này mới đổi thành hình thức ba-ba-bốn (tức 3 năm trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông và 4 năm cao đẳng/đại học) như bây giờ. (Chú thích cúa tác giả - T.G)
“Mẹ ơi, con đi làm thì nhà mình sẽ có thêm thu nhập, mẹ cũng được thoải mái hơn.”
“Chỉ thêm mấy năm thôi mà. Mẹ nghe nói đại học có các chương trình hỗ trợ, chắc học phí không đáng lo quá đâu.”
“Không phải, đại học tuy có cho vay học phí nhưng đến khi tốt nghiệp đi làm vẫn phải trả lại tiền. Hiện nay mức lương khởi điểm của cử nhân không cao, chưa kể con học khoa học xã hội nên rất ít lựa chọn công việc. Đi làm với thu nhập thấp, hằng tháng lại phải trả nợ, số tiền dư ra chẳng còn mấy đồng. Hơn nữa, con mà học đại học, năm năm tới nhà mình chỉ trông cậy vào mỗi thu nhập của mẹ, đến lúc con tốt nghiệp, trừ tiền trả nợ xong không còn bao nhiêu để đưa mẹ, chưa biết chừng mẹ lại phải cầm cự thêm năm sáu năm nữa. Mẹ, năm nay mẹ đã 40 rồi, chẳng lẽ mẹ muốn tiếp tục đầu tắt mặt tối đến tận 50 tuổi sao?”
Trăn không nói lại được câu nào.
“Nhưng nếu bây giờ con đi làm, mọi chuyện sẽ khác.” Di tiếp tục. “Một là con không cần chờ tận năm năm mới có tháng lương đầu tiên đưa mẹ chi tiêu hằng ngày, hai là con khỏi phải nợ chính phủ học phí, ba là con có thể tích lũy kinh nghiệm làm việc từ lúc còn trẻ. Quan trọng hơn cả, chỉ cần mẹ con mình cần cù làm việc, đến lúc Tiểu Văn tốt nghiệp trung học thì chúng ta cũng có tiền tiết kiệm, Tiểu Văn sẽ không gặp phải buồn phiền giống con hôm nay, có thể toàn tâm toàn ý học tập, biết đâu còn đi du học nước ngoài ấy chứ.” Di xưa nay không giỏi ăn nói, lần này lại trình bày rất lưu loát.
Rốt cuộc Trăn cũng đồng ý, dù lòng đầy bứt rứt, cảm thấy tại mình vô dụng nên con gái cả mới phải hi sinh tương lai vì con gái út.
“Mẹ hãy tin con, tất cả đều đáng.” Năm năm trung học kết thúc, Di cũng đã tính toán xong xuôi đầu ra. Vì phải trông nhà và chăm em, thú tiêu khiển duy nhất của Di là đọc sách. Mà vì nhà nghèo, phần lớn sách cô đọc đều mượn ở thư viện, thế nên cô rất mong được làm việc ở đây. Di ứng tuyển và được LSCD* nhận vào làm thủ thư hợp đồng tại Thư viện Trung ương Hồng Kông, phía Đông Vịnh Causeway.
Leisure and Cultural Services Department. Sở Dịch vụ Văn hóa và Giải trí, phụ trách tổng thể các hoạt động, dịch vụ liên quan đến thể thao giải trí và văn hóa văn nghệ tại Hồng Kông, bao gồm cả việc quản lý các thư viện công cộng.
Mang tiếng làm việc cho chính phủ, nhưng Di không phải công chức nên không được hưởng phụ cấp riêng. Để tiết kiệm chi phí, chính phủ Hồng Kông cũng không tuyển dụng nhân viên dài hạn mà chỉ thuê theo hình thức hợp đồng giống các công ty tư nhân. Hợp đồng thường có kì hạn hai năm, hết hợp đồng nhân viên tự động bị sa thải, bên thuê không cần lo ngại những rắc rối và tổn thất do việc cắt giảm nhân sự mang lại. Họ nắm trong tay toàn quyền kiểm soát, làm ăn sa sút sẽ để nhân viên “ra đi tự nhiên”, còn không lại kí hợp đồng tiếp. Trên thực tế, chính phủ cũng thuê công ty tư nhân làm một số công đoạn, nên nhân viên thư viện công cộng cũng có thể chỉ là nhân viên bán thời gian của công ty nào đó, đãi ngộ họ nhận được còn kém cả nhân viên hợp đồng. Di đi làm rồi mới biết chuyện, không khỏi nhớ đến vụ tai nạn bất hạnh của bố, cô như nhìn thấy bóng dáng bố mình năm xưa từ mấy bác bảo vệ già của thư viện.
Nhưng Di không bất mãn. Dù vị trí thấp, lương tháng của cô vẫn xấp xỉ 10 nghìn đô*, góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống gia đình. Trăn không phải đi làm thêm, gánh nặng trên vai nhẹ đi rất nhiều. Tuy vẫn đến quán trà, nhưng thời gian Trăn ở nhà nhiều hơn. Trách nhiệm chăm sóc Tiểu Văn giờ đang học lớp Bốn dần chuyển từ Di sang mẹ. Di làm theo ca nên thời gian ở nhà không cố định, ít được chơi cùng em gái. Cô đi làm về mệt mỏi, em gái vẫn hay bám lấy nói đủ thứ chuyện trên trời dưới bể, nhưng chỉ được thời gian đầu. Về sau có vẻ cô bé đã chấp nhận sự thật là chị gái bận rộn công việc nên không dính chị như keo nữa. Cuộc sống của ba mẹ con dần dần yên ổn.
Khoảng 30 triệu đồng Việt Nam.
Năm năm sau khi Di đi làm, sự yên ổn ấy chấm dứt.
Tháng Ba năm ngoái, Trăn ngã cầu thang ở quán trà, gãy xương đùi phải. Nhận được tin, Di cuống cuồng xin nghỉ, chạy vội đến bệnh viện. Chờ đợi cô ở bệnh viện lại là một tin còn đáng sợ hơn.
“Bà Trăn không phải gãy xương vì bị ngã, mà là ngã vì gãy xương.” Bác sĩ khám chính nói với Di. “Tôi ngờ là bà ấy mắc bệnh đa u tủy xương, phải kiểm tra chi tiết hơn.”
“Đa gì cơ?” Di ngớ ra trước cụm từ lạ.
“Đa u tủy xương… một dạng ung thư máu.”
Sau hai ngày nơm nớp chờ đợi, Di nhận được kết quả chẩn đoán. Trăn bị ung thư, hơn nữa còn là giai đoạn cuối, hóa trị hay cấy ghép tế bào gốc tạo máu đều vô ích. Bác sĩ dự đoán chỉ sống được nửa năm nữa là nhiều.
Thật ra Trăn đã thấy không khỏe từ lâu nhưng phớt lờ. Các triệu chứng của đa u tủy như thiếu máu, nhức xương, cơ thể mệt mỏi, Trăn lại nghĩ là viêm khớp và suy nhược do làm việc quá sức. Chị từng đi khám vì đau khớp, bác sĩ cũng chỉ chữa như các bệnh viêm và thoái hóa sụn thông thường, dù sao đa u tủy xương chủ yếu gặp ở đàn ông cao tuổi, chứ phụ nữ mới ngoài tứ tuần mắc bệnh này khá hiếm.
Di không ngờ mẹ lại mắc bệnh nan y. Trong mắt cô, Trăn mạnh mẽ hệt như bà Ursula vợ Jose Arcadio Buendia trong Trăm năm cô đơn, cho dù không sống được 100 tuổi thì cũng phải già đi thành cụ bà khỏe mạnh, chứng kiến con cháu trưởng thành và tự lập. Ngắm nhìn người mẹ đang nằm trên giường bệnh, cô giật mình nhận ra mẹ đã suýt soát 50 tuổi, không còn trẻ nữa, những vất vả bao năm qua đã ăn mòn cơ thể mẹ, vết chân chim hằn sâu như vết nứt trên vỏ cây khô héo. Cô nắm tay mẹ lặng lẽ ứa nước mắt, nhưng Trăn lại bình thản như không.
“Di, đừng khóc. May mà con khăng khăng đi làm luôn sau khi tốt nghiệp trung học, mẹ có ra đi cũng không lo hai chị em ăn không đủ no, mặc không đủ ấm…”
“Không, không, như vậy không được đâu…”
“Di, hứa với mẹ, con phải mạnh mẽ lên. Tiểu Văn là đứa mềm yếu, từ giờ việc chăm sóc em giao cả cho con.” Trăn không sợ chết, chị biết chồng chị đang đợi ở bờ bên kia. Điều duy nhất khiến chị nặng lòng là hai cô con gái.
Hai tháng sau Trăn qua đời, sớm hơn tiên lượng của bác sĩ. Chị gặp biến chứng do nồng độ canxi trong máu tăng cao, suy thận và đau tim dẫn đến tử vong.
Di nén nước mắt trong lễ tang. Giờ phút này, cô hoàn toàn hiểu tâm trạng của mẹ khi tiên đưa bố: dẫu đau buồn xót xa đến mấy thì vẫn phải gắng gượng chèo chống, bởi từ nay trở đi Tiểu Văn chỉ có thể nương tựa vào mình cô. Nhìn Tiểu Văn, Di như thấy hình ảnh mình trong đám tang mười năm về trước với ánh mắt trống rỗng vô định.
Tiểu Văn còn sốc vì cái chết của mẹ hơn cả Di năm xưa khi bố mất. Sau khi mẹ qua đời, cô bé ít nói và thu mình lại khác hẳn trước kia. Ngay cả ăn cơm với nhau, Di mà không chủ động hỏi han, Tiểu Văn sẽ chỉ lặng lẽ gảy từng hột, ăn xong buông một câu “Em no rồi” và rút về phòng mình lướt điện thoại với vẻ mặt vô cảm. “Phòng” đây là khoảng không gian riêng tư nho nhỏ cho các con gái do Trăn ngăn ra bằng cách tận dụng các tủ và giá sách trong nhà.
Cho con bé thêm thời gian vậy, Di nghĩ. Cô không muốn ép em gái thay đổi, hơn nữa Tiểu Văn mới 14 tuổi, còn đang độ ẩm ương, càng bắt buộc cứng cáp lên có khi càng phản tác dụng. Di tin rằng, chẳng bao lâu nữa Tiểu Văn sẽ thoát ra khỏi màn sương tăm tối.
Nửa năm sau khi mẹ qua đời, Tiểu Văn quả thật dần lấy lại tinh thần, thi thoảng Di còn trông thấy nụ cười trên môi em gái. Nhưng cả hai chị em đều không ngờ, bất hạnh của gia đình vẫn chưa chấm dứt.
Thứ Sáu, mùng 7 tháng Mười một, năm 2014.
Tầm hơn 6 giờ chiều, Di nhận được điện thoại, liền lo lắng tới đồn cảnh sát Cửu Long Thành. Cảnh sát dẫn cô vào văn phòng Ban Điều tra Hình sự. Tiểu Văn mặc đồng phục đang ngồi cùng một nữ cảnh sát trên băng ghế ở góc phòng. Vừa nhìn thấy Tiểu Văn, Di lập tức lao tới ôm chầm lấy em. Tiểu Văn không phản ứng, lơ đãng mặc cho chị gái ôm mình.
“Tiểu Văn…”
Di buông em gái ra toan hỏi han, Tiểu Văn mới như bừng tỉnh, ôm chầm lấy Di rồi vùi mặt vào ngực cô khóc nức nở đến gần mười phút. Nữ cảnh sát ngồi bên bèn khuyên nhủ.
“Em gái đừng sợ, chị em đã đến đây rồi, em hãy kể cho bọn chị nghe đầu đuôi sự việc đi.”
Nhận thấy Tiểu Văn thoáng do dự, Di bèn nắm chặt tay em thầm khích lệ. Tiểu Văn nhìn nữ cảnh sát, lại nhìn tờ khai đã điền thông tin tên tuổi trên bàn, thở dài rồi ngập ngừng kể lại chuyện xảy ra hơn một tiếng trước.
Tiểu Văn theo học trung học Enoch trên đường Waterloo, thuộc học khu* Du Ma Địa, gần các trường Wah Yan Cửu Long, trung học nữ sinh True Light, trung học tín hữu Cơ đốc ELCHK… Tuy thành tích học sinh không bằng mấy trường nổi tiếng như Wah Yan hay True Light, nhưng Enoch vẫn được xem như một trường dòng “hot” trong khu. Không những thế, nhà trường còn khởi xướng vận dụng các ứng dụng khoa học công nghệ như mạng internet và máy tính bảng vào học tập, khá có tiếng tăm trong ngành giáo dục.
Khu vực tập trung nhiều trường học.
Hằng ngày đến trường, trước tiên Tiểu Văn phải bắt buýt mini xanh từ cư xá Lạc Hoa tới ga tàu điện ngầm Quan Đường, ngồi tàu nửa tiếng mới tới ga Du Ma Địa; tan học lại bắt tàu đến ga Quan Đường rồi chuyển sang buýt mini. Trung học Enoch tan học từ 4 giờ chiều, nhưng thỉnh thoảng Tiểu Văn sẽ nán lại thư viện làm bài tập về nhà. Ví như hôm nay, mùng 7 tháng Mười một, Tiểu Văn về muộn hơn mọi hôm, khoảng 5 giờ mới ra khỏi trường.
Bắt đầu từ tháng Chín, người dân Hồng Kông phát động biểu tình phản đối chính sách cải cách bầu cử mà chính phủ đề ra. Khi chính phủ xua cảnh sát chống bạo động ra trấn áp, tình hình càng không thể cứu vãn, đông đảo dân chúng bất mãn tràn ra đường, chiếm đóng các tuyến đường lớn ở Kim Chung, Vượng Giác và Vịnh Causeway gây tắc nghẽn, khiến giao thông tê liệt cục bộ. Các phương tiện trên mặt đất phải thay đổi lộ trình, thậm chí tạm dừng hoạt động, nên người dân lũ lượt kéo nhau đi tàu điện ngầm.
Số hành khách bắt tàu tăng đột biến, sân ga giờ cao điểm chật kín những người đã chờ hai, ba lượt vẫn chưa lên được tàu, còn trong toa là cảnh tượng chen chúc nghẹt thở, hành khách muốn xoay người cũng khó chứ đừng nói kiếm được chỗ bám tay tử tế. Thậm chí họ phải nhón chân đứng sát rạt nhau, người nghiêng ngả theo mỗi lần đoàn tàu tăng giảm tốc độ. Cũng may vì quá chật nên không lo ngã.
Tiểu Văn lên tàu ở ga Du Ma Địa, đứng nép sát vào cánh cửa bên trái cuối toa số bốn. Tàu tuyến Quan Đường chỉ mở cửa trái khi đến ga Vượng Giác và ga Prince Edward, còn lại hành khách đều lên xuống cửa phải, thành ra sau khi đi qua ga Prince Edward, chỗ Tiểu Văn đứng không khác nào góc chết của toa. Cô bé đã quen đứng ở vị trí này vì không phải mất công di chuyển nhường chỗ cho khách lên xuống mỗi lần vào ga, dù sao mãi đến Quan Đường cô bé mới phải xuống tàu.
Hôm nay tàu vừa rời ga Prince Edward, Tiểu Văn đã phát hiện có điều bất thường,
“Em… em cảm thấy có người sờ soạng em…”
“Sờ chỗ nào của em?” Nữ cảnh sát hỏi.
“Sờ… mông.” Tiểu Văn lắp bắp trình bày, lúc ấy cô bé ôm cặp đứng quay mặt ra cửa sổ nên không biết ai ở sau lưng, chỉ biết có người đang sờ mông mình. Ngoái đầu lại nhìn thì không thấy ai khả nghi, toàn những gương mặt rất bình thường. Một nhân viên văn phòng béo ục ịch đang gà gật, một bác gái tóc xoăn đang nói điện thoại rất to, mấy người nước ngoài đang tán gẫu, còn lại đều cắm cúi lướt điện thoại, toa chật như nêm cũng không ngăn nổi họ tranh thủ lên mạng xã hội, chat chit, xem phim hoặc chơi game.
“Ban, ban đầu em nghĩ chắc là em hiểu lầm…” Giọng Tiểu Văn lí nhí như tiếng muỗi vo ve, “Toa tàu rất chật, có lẽ ai đó móc điện thoại trong túi ra chẳng may chạm phải em… Nhưng một lát sau, em phát hiện… hu hu…”
“Em bị sờ mông thật?” Di hỏi.
Tiểu Văn căng thẳng gật đầu.
Nữ cảnh sát gặng hỏi, Tiểu Văn mặt đỏ bừng miêu tả lại quá trình bị sàm sỡ. Cảm thấy bàn tay lạ chậm rãi xoa bóp mông phải của mình, cô bé vội quài tay ra chặn, nhưng vô ích vì tàu lúc đó quá chật chội. Không xoay người lại được, chỉ còn cách ngoái đầu lườm cảnh cáo tên yêu râu xanh. Nhưng ngoái đầu xong, cô bé lại không biết thủ phạm là người đàn ông mặc Âu phục đứng áp lưng vào mình, hay ông cụ trọc đầu đứng bên cạnh, hay một kẻ nào đó đứng khuất tầm mắt.
“Em không kêu cứu sao?” Vừa dứt lời, Di hối hận ngay vì thấy giọng mình sặc mùi trách móc.
Tiểu Văn lắc đầu, “Em… em sợ gặp rắc rối…”
Không phải Di không hiểu cảm xúc của em gái. Cô từng tận mắt chứng kiến một vụ quấy rối trên tàu điện ngầm, có điều khi nữ sinh kêu cứu và kẻ háo sắc bị bắt, người xung quanh lại nhìn nạn nhân với ánh mắt xem thường, đã thế thủ phạm còn lớn tiếng mỉa mai, “Mày tưởng mày là ngôi sao hay thần tượng hả? Việc quái gì tao phải sờ ngực mày?”
Tiểu Văn tạm dừng mấy phút để trấn tĩnh rồi mới từ từ đi vào chi tiết. Nữ cảnh sát hí hoáy ghi chép vào bản khai khẩu cung. Tiểu Văn kể, đang hoảng loạn thì đột nhiên bàn tay lạ biến mất, mới thở phào vì tưởng thoát nạn thì nó lại vén váy của cô bé lên sờ hẳn vào bắp đùi. Dù ghê rợn như bị sâu róm bò trên người, nhưng ngoài thấp thỏm cầu mong bàn tay lạ đừng nhích lên thêm thì cô bé cũng chẳng ngọ nguậy hay làm gì được.
Tất nhiên, cầu mong vô ích. Tên dê xồm nắn mông Tiểu Văn, ngón tay móc mép quần lót từ từ nhích tới vùng kín. Tiểu Văn sợ đến mức không dám cất tiếng, ra sức lấy tay đè váy xuống ngăn hắn lại.
“Em, em không rõ hắn sờ bao lâu… Em chỉ biết âm thầm van xin hắn dừng tay…”
Tiểu Văn run rẩy kể, Di không khỏi xót xa.
Sau đó, chính bác đã cứu em.”
“Bác?” Di hỏi.
“Vài người dân tốt bụng đã bắt tên yêu râu xanh lại.” Nữ cảnh sát nói với Di.
Khi tàu sắp tới ga Cửu Long Đường, một bác gái đột nhiên oang oang quát kẻ đứng sau lưng Tiểu Văn, “Anh kia! Anh làm gì đấy!” Chính là bác gái nói điện thoại rất to mà Tiểu Văn nhắc tới ban nãy.
“Bác vừa lên tiếng thì cái tay lập tức rút lại…” Tiểu Văn e dè kể tiếp.
Sau tiếng quát của bác gái, cả toa tàu nhốn nháo.
“Tôi bảo anh đấy! Anh vừa làm gì hả?”
Bác gái quát tên đàn ông cao to đứng phía sau bên phải Tiểu Văn. Từ chỗ bác đến chỗ hắn là hai, ba người khác. Tên này khoảng 40 tuổi, da vàng ệch, gò má cao, mũi tẹt, môi mỏng, mắt lấm la lấm lét. Hắn mặc sơ mi xanh lam xỉn màu, tương phản rõ rệt với nước da.
“Chị gọi tôi?”
“Chính anh! Tôi hỏi vừa rồi anh làm cái trò gì?”
“Tôi làm gì chứ?” Mặt tên đàn ông lộ vẻ căng thẳng. Hắn trả lời đúng lúc tàu vào ga Cửu Long Đường. Khi tàu dừng lại, cửa bên phải chầm chậm mở ra.
“Tôi hỏi, có phải đồ dê xồm nhà anh vừa sàm sỡ cô bé này không!” Bác gái đánh mắt về phía Tiểu Văn.
“Con mẹ điên.” Tên đàn ông lắc đầu, định lỉnh khỏi toa theo dòng người xuống tàu.
“Đừng hòng chạy!” Bác gái không nhượng bộ, nhân lúc hành khách di chuyển tạo ra khoảng trống bèn tiến lại gần túm lấy cánh tay hắn. “Cháu gái, cháu nói đi, vừa nãy có người sờ mông cháu phải không?”
Tiểu Văn cắn môi, ánh mắt do dự không biết có nên nói thật không.
“Cháu gái đừng sợ, bác làm chứng cho! Cháu nói ra là được!”
Tiểu Văn lúng túng gật đầu.
“Các người là một lũ điên! Đừng cản tôi xuống tàu nữa!” Tên đàn ông gào lên. Tất cả hành khách nhìn họ chằm chằm, có người còn bấm nút khẩn cấp và thông báo tình hình với lái tàu.
“Tôi thấy tận mắt! Anh đừng chống chế! Theo chúng tôi tới đồn cảnh sát!”
“Tôi, tôi chỉ chẳng may đụng phải nó thôi! Loại như nó ai mà thèm sờ mông chứ! Chị không cho tôi đi, tôi sẽ tố cáo chị giam giữ người trái phép!” Tên đàn ông đẩy bác gái ra, tìm cách chạy khỏi toa tàu. Không ngờ vừa xoay người đã bị một anh cao to lực lưỡng đứng lẫn trong đám đông hiếu kì tóm gọn.
“Anh có làm hay không, cứ đến đồn cảnh sát đã rồi tính.” Anh cao to nghiêm giọng nói.
Giữa cảnh lộn xộn, Tiểu Văn nép vào góc toa tàu. Các hành khách săm soi cô bé bằng những ánh mắt khác nhau, có cảm thông, có hóng hớt, nhưng nhiều nhất là tò mò. Đặc biệt, cái nhìn của một vài hành khách nam cứ như đang vặn hỏi “Vừa rồi em bị sàm sỡ à?”, “Cảm thấy thế nào?”, “Có thấy nhục không?”, “Có thấy sướng không?”, làm Tiểu Văn vô cùng khó chịu. Hai chân mềm nhũn, cô bé ngã bệt xuống đất, bắt đầu khóc nức nở.
“Cháu gái đừng khóc, có bác ở đây rồi…” Bác gái oang oang nói.
Cuối cùng thì bác gái, anh trai cao to và một chị nhân viên văn phòng hào hiệp cùng đến đồn cảnh sát cung cấp lời khai. Theo lời bác gái, tất cả hành khách trên tàu đều bận lướt điện thoại, chỉ mình bác phát hiện ra sắc mặt Tiểu Văn rất lạ. Lúc đổi khách ở ga Thạch Hiệp Vỹ, thoáng thấy váy đồng phục của Tiểu Văn bị nhấc lên, mông bị bóp lấy, bác định im lặng chờ tàu đến ga Cửu Long Đường rồi xông lên bắt tận tay thủ phạm. Nhưng nhìn vẻ mặt kinh hoàng của Tiếu Văn, bác buộc phải đánh động sớm để tên yêu râu xanh dừng lại. Một số hành khách nghe bác hét đã lấy điện thoại quay đầy đủ vụ to tiếng trên tàu.
Người đàn ông bị bắt tên là Thiệu Đức Bình, 43 tuổi, làm chủ một tiệm văn phòng phẩm ở khu nhà xã hội Hoàng Đại Tiên. Tại đồn cảnh sát, hắn phủ nhận cáo buộc, liên tục nhấn mạnh mình chỉ vô tình đụng phải Tiểu Văn, tại Tiểu Văn từng có khúc mắc với hắn nên ôm hận vu cáo mà thôi. Theo như Bình khai, Tiểu Văn cứ lề mề ở quầy thanh toán của cửa hàng tiện lợi ga Du Ma Địa, khiến khách hàng khác phải chờ lâu. Bình đứng ngay sau Tiểu Văn, thấy thế bèn mắng vốn mấy câu, Tiểu Văn không chịu thua kém liền quay ra cãi cự. Sau này gặp nhau trên tàu, Tiểu Văn mới khai báo bị sàm sỡ để vu oan cho hắn.
Nhân viên cửa hàng tiện lợi xác nhận với cảnh sát rẳng, đúng là hai người có lời qua tiếng lại ở chỗ họ, sau khi Tiểu Văn rời đi, Bình còn than phiền, “Thanh niên thời nay rặt một lũ trẻ trâu, toàn vô cớ gây chuyện, phá hoại Hồng Kông.”
Tuy nhiên cảnh sát không tìm được bằng chứng nào cho thấy Tiểu Văn thù dai nên vu cáo Bình. Trong khi đó, các hành động của Bình lại vô tình chứng tỏ hắn chính là thủ phạm: ủ mưu lỉnh khỏi hiện trường trước khi cảnh sát đến, cư xử thô lỗ xấu tính, và nhất là xuống tàu khi còn cách nhà những hai ga. Theo điều tra, chiều hôm đó Bình hẹn bạn ở Du Ma Địa, chia tay bạn xong phải về trông tiệm thay vợ nên xuống tàu ngang đường như thế là quá vô lý.
“Em gái, em xem lời khai này có chỗ nào sai sót hoặc chưa thỏa đáng không.” Nữ cảnh sát đặt biên bản xuống trước mặt Tiểu Văn. “Thấy ổn rồi thì em kí tên xác nhận vào đây.”
Tiểu Văn cầm bút bi, lo lắng viết tên mình vào khung chữ kí. Đây là lần đầu tiên Di nhìn thấy biên bản ghi lời khai của cảnh sát, bên trên khung chữ kí là lời cam đoan của nhân chứng, “Tôi hiểu nếu lời khai ở đây là giả hoặc không đáng tin, tôi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.” Dòng chữ này khiến cô cảm thấy thật nặng nề. Bản thân cô còn rất ít khi phải kí tên vào giấy tờ liên quan đến pháp luật, thế mà Tiểu Văn đang tuổi thiếu niên đã phải tự mình chịu trách nhiệm theo quy định của xã hội pháp quyền rồi.
Sau sự cố này, Tiểu Văn lại quay về kiệm lời như trước. Di chẳng biết an ủi em gái thế nào ngoài mấy lời sáo rỗng “Đừng sợ, chị đòi lại công bằng cho em”, “Tên khốn kia sẽ bị pháp luật trừng trị”. Do nửa năm trước đã dùng gần hết số ngày phép lo hậu sự cho mẹ, cô không thể xin nghỉ để ở bên em gái, mà chỉ còn mỗi cách về nhà thật nhanh sau mỗi ca làm.
Vụ việc được tiến hành theo trình tự tư pháp, truyền thông bắt đầu xuất hiện vài bài báo lẻ tẻ, gọi Tiểu Văn là “Cô A”. Phóng viên khui tin tiệm Bình ngoài văn phòng phẩm thì còn bán cả sách báo, trong đó có sách ảnh nữ sinh Nhật Bản, đồng thời chỉ ra Bình là người thích chụp ảnh, thường xuyên rủ đám bạn phó nhòm hẹn người mẫu chụp ảnh mát mẻ, cho thấy sở thích khá suy đồi. Các bài viết này chỉ chiếm một góc nhỏ trên báo, ít được độc giả quan tâm vì là dạng tin hầu như ngày nào cũng có, chưa kể báo chí còn phải dành phần lớn diện tích cho các cuộc biểu tình chiếm đóng và các tin tức chính trị liên quan.
Mùng 9 tháng Hai bắt đầu mở phiên tòa xét xử, Bình bị khép vào tội dâm ô. Bị cáo phủ nhận cáo buộc, luật sư bào chữa viện lý do truyền thông đưa tin tiêu cực làm ảnh hưởng đến tính công bằng của quá trình điều tra, vì thế nộp đơn xin hoãn vĩnh viễn công tác xét xử, nhưng thẩm phán bác bỏ. Phiên tòa sẽ tiếp tục vào cuối tháng Hai, công tố viên báo với Di rằng Tiểu Văn sẽ phải ra đối chất, nhưng bên công tố có thể sắp xếp lấy lời khai qua video hoặc lập vách ngăn trên tòa. Việc này càng khiến Di lo lắng, vì bước vào phòng xét xử, Tiểu Văn buộc phải tự mình xoay xở với hàng tá câu chất vấn, thể nào luật sư bào chữa cũng vặn hỏi chi tiết vụ việc và các vấn đề riêng tư một cách không khoan nhượng.
Nhưng mọi lo lắng của Di đều thừa thãi.
Ngày 26 tháng Hai, ở phiên tòa tiếp theo, bị cáo Thiệu Đức Bình bất ngờ đổi giọng nhận tội, các nhân chứng không cần lên làm chứng, giờ chỉ chờ thẩm phán xem xét hồ sơ sức khỏe tâm thần của bị cáo để cân nhắc mức độ hình phạt. Sau khi tham khảo án lệ, ngày 16 tháng Ba tòa tuyên án Thiệu Đức Bình phải chịu mức phạt ba tháng tù, nhưng vì bị cáo đã nhận tội và tỏ ra ăn năn nên thời gian thi hành án giảm một phần ba, chỉ còn hai tháng tù giam, chấp hành ngay lập tức.
Di cứ tưởng mọi chuyện đã chấm dứt, Tiểu Văn sẽ quên đi nỗi đau và dần dần hồi phục tinh thần. Nhưng một tháng sau khi Bình vào tù, cơn ác mộng đẩy em gái cô tới bước đường cùng mới thực sự bắt đầu.
Thứ Sáu, mùng 10 tháng Tư, một tuần trước sinh nhật 15 tuổi của Tiểu Văn, trên diễn đàn Củ Lạc, một diễn đàn trực tuyến Hồng Kông, xuất hiện bài viết có tên “Con khốn 14 tuổi hại cậu tôi ngồi tù”.
Diễn đàn: Củ Lạc
Người đăng: kidkit727
Tiêu đề: Con khốn 14 tuổi hại cậu tôi ngồi tù!
Thời gian: 10/04/2015 22:18
Hôm nay tôi thực sự không chịu nổi nữa, nên phải lấy lại công bằng cho cậu tôi!
Cậu tôi năm nay 43 tuổi, cậu mợ có một tiệm văn phòng phẩm ở Hoàng Đại Tiên, ngày ngày chăm chỉ làm việc nhặt vài cắc lẻ nuôi gia đình. Cậu không học rộng tài cao, hết cấp hai là nghỉ học đi làm thuê cho tiệm văn phòng phẩm, sau nhờ tính thật thà đứng đắn mà được ông chủ sang nhượng lại tiệm luôn. Cậu chưa bao giờ gian trá, bán hàng luôn đúng giá, hàng xóm láng giềng đều có thể chứng thực. Thế mà giờ lại ngồi tù, vì bị một con khốn 14 tuổi vu oan.
Sự việc bắt đầu vào tháng Mười một năm ngoái. Một nữ sinh 14 tuổi đã tố cáo cậu sàm sỡ nó, sờ mông nó trên tàu điện ngầm tuyến Quan Đường. Thật ra cậu tôi không làm gì cả! Con bé đó chỉ muốn trả thù thôi! Trước khi đón tàu, cậu vào cửa hàng tiện lợi ga Du Ma Địa mua thuốc lá, xếp hàng ngay sau con bé kia. Hình như nó mua thẻ nạp điện thoại, đến lúc thanh toán moi mãi không đủ tiền lẻ, lục lọi cặp sách rõ lâu làm hàng người phía sau càng lúc càng dài. Cậu tôi giục thì nó quay ngoắt lại lườm, còn lẩm bẩm chửi bậy. Cậu bèn nạt vài câu nữa cho nó im tịt. Nhưng người ta vẫn bảo chó không sủa mới là chó cắn người, con khốn đó chính là ví dụ. Lúc cậu tôi nạt thì chẳng nói chẳng rằng, đến lúc lên tàu mới trả thù, hãm hại cậu tôi bằng cách độc ác này.
Cậu tôi vốn không làm gì nên đương nhiên sẽ không nhận tội. Nhưng phóng viên đưa tin phiến diện làm cậu mợ tôi hết sức kinh hãi. Cậu tôi thích chụp ảnh, có thể nói đó là đam mê duy nhất, do gia đình không khá giả nên toàn dùng thiết bị rẻ tiền và đồ đã qua sử dụng. Cậu bán sách ảnh trong tiệm, cũng đi chụp phong cảnh và chân dung cùng một số người bạn chung sở thích, chỉ thế thôi mà báo chí mô tả cậu như một kẻ ái nhi, chụp ảnh vì muốn thả dê người mẫu. Trời ạ! Tiệm của cậu bán mấy chục cuốn sách ảnh khác nhau, phóng viên cứ nhằm một, hai cuốn chụp nữ sinh mặc đồng phục để viết bài. Cậu và bạn bè hẹn người mẫu chụp ảnh cùng lắm một năm đôi ba lần, phóng viên lại phóng đại như thể tháng nào cũng kiếm gái bao!
Cậu tôi sợ những bài viết này sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của thẩm phán. Cậu biết bỏ chạy khi bị vu oan là việc làm ngu ngốc. Luật sư bảo chính vì cậu có ý định bỏ chạy, cộng thêm tình tiết người bị hại chưa đủ 16 tuổi, rất có thể tòa vẫn sẽ phán quyết có tội dù là cậu trong sạch. Nếu nhận tội may ra được giảm nhẹ hình phạt, còn nếu không nhận, cậu sẽ phải gánh trách nhiệm ép người bị hại ra tòa làm chứng, tòa sẽ cho rằng cậu không biết hối lỗi và kéo dài thời gian thi hành án, Cậu tôi định kiên quyết không nhận, nhưng cuối cùng vẫn phải chịu thua. Sức khỏe mợ tôi yếu ớt, cậu lo mợ chịu đựng một mình, chẳng thà để sự việc mau chóng lắng xuống còn hơn. Từ ngày báo đăng tin thất thiệt, hôm nào cũng có người chỉ chỉ trỏ trỏ mỗi lúc mợ tôi mở cửa bán hàng. Vì rất yêu mợ tôi, cậu chấp nhận ngồi tù oan, khuất phục trước phán quyết bất công.
Một người đàn ông tình cảm trách nhiệm như thế sao có thể táy máy tay chân với nữ sinh trên tàu điện ngầm cơ chứ!
Vụ án này có rất nhiều điểm đáng ngờ:
1. Cậu tôi cao 1m80, nữ sinh kia cao chưa tới 1m60, hai người họ chênh nhau khoảng 20 centimet. Theo biên bản của cảnh sát, bên nguyên nói cậu tôi vén váy nó lên sờ mông, có điều thò tay xuống thấp như vậy ắt hẳn rất khó, chẳng lẽ người bên cạnh không phát hiện ra?
2. Việc cậu tôi muốn bỏ chạy là lẽ thường tình. Tự nhiên bị một kẻ xấu tính xấu nết từ đâu chui ra vu oan, có ai lại ngoan ngoãn để mặc người ta ức hiếp cơ chứ? Hồng Kông bây giờ phải trái lẫn lộn, cường quyền áp đảo công lý, trắng bị nói thành đen, có lý cũng chẳng ai nghe!
3. Vì người bị hại chưa đủ 16 tuổi nên cảnh sát coi đây là vụ việc nghiêm trọng, vậy tại sao họ không lập tức thu thập chứng cứ? Nếu cậu tôi sờ quần lót người ta, trên ngón tay cậu chắc có sợi vải, còn quần lót nữ sinh sẽ dính mồ hôi tay của cậu tôi, họ có thể xét nghiệm ADN.
Quan trọng hơn cả, cậu tôi không ngu xuẩn đến mức bất chấp gia đình và danh dự để xâm hại một cô gái vị thành niên có nhan sắc trung bình!
Cậu tôi vì muốn sự việc lắng xuống mới nhận tội, lẽ ra tôi cũng nên để tất cả sớm kết thúc theo ý cậu. Tuy nhiên, hôm nay tôi tình cờ biết một số chuyện, thế là lửa giận bùng lên.
Một đứa bạn tôi đã khui ra lai lịch nữ sinh 14 tuổi kia. Nó là đồ trơ trẽn xấu tính, thích đâm chọc sau lưng người ta, ngoài mặt giả vờ thân thiết nhưng thực chất toàn gài bẫy đặt điều. Nó từng giật bồ người ta, giật xong chơi chán rồi đá, thế nên không có bạn thân, đến bạn cùng lớp cũng né xa! Nó còn qua lại với một số thành phần bất hảo ngoài trường, chưa thành niên đã uống rượu, chưa biết chừng còn cắn thuốc, làm gái bao cũng nên.
Nghe bạn học của nó kể, nó lớn lên trong cảnh mô côi cha, năm ngoái mẹ già cũng chết, không có người lớn bảo ban nên ngày càng hư thân mất nết. Theo tôi thấy, nó coi cậu tôi là nơi xả bất mãn, biến tàu điện ngầm thành sân khấu, tự sắm vai nạn nhân yếu đuối, tranh thủ sự thương hại của người khác. Nhưng cậu tôi nào đã làm gì sai? Tại sao lại bắt cậu và người nhà hi sinh hạnh phúc chỉ để thỏa mãn tâm lý cá nhân của nó chứ?
Xin lỗi cậu, cháu biết cậu muốn nhân nhượng cho yên thân, nhưng cháu không nuốt trôi cục tức này!
Xuất hiện trên diễn đàn chưa đầy một ngày, bài viết “Con khốn 14 tuổi hại cậu tôi ngồi tù” đã trở thành bài viết nóng nhất, được cộng đồng mạng lũ lượt chia sẻ lên Facebook và các trang mạng xã hội khác. Trong suốt thời gian diễn ra biểu tình chiếm đóng, người dân thường xuyên nghi ngờ cảnh sát lạm quyền, lạm dụng vũ lực, móc ngoặc với xã hội đen. Những người chống đối còn coi bộ máy tư pháp như công cụ đàn áp tiếng nói của nhân dân để phục vụ chính quyền. Giữa bầu không khí xã hội ấy, cộng đồng mạng trên diễn đàn Củ Lạc nghiêng hẳn sang ủng hộ người viết bài, chỉ trích ngành tư pháp bất công, cảnh sát tắc trách khi tìm kiếm bằng chứng, cho rằng Bình ngồi tù oan, đồng thời viết bài lên án “Cô A”, dọa sẽ công khai danh tính cô ấy. Hôm sau, một người dùng tìm được ảnh của Tiểu Văn trên mạng liền đăng trên chính diễn đàn này, tiết lộ tên tuổi, địa chỉ nhà và tên trường học của Tiểu Văn. Công khai thông tin của nạn nhân vị thành niên trong vụ án hình sự là hành vi phạm pháp, admin diễn đàn đã nhanh chóng xóa bài viết. Nhưng admin nhanh đến mấy cũng không bằng đông đảo cư dân mạng. Họ đã lưu lại toàn bộ nội dung, đăng các bài viết chỉ trích chửi bới nhưng cố tình xóa một hai chữ để lách luật, chẳng hạn gọi Tiểu Văn là “Con khốn Âu X Văn trường X ở Du Ma Địa”, hoặc “Con cặn bã X Văn 14 tuổi ở cư xá Lạc X”, thậm chí còn sử dụng phần mềm chỉnh sửa để cắt ghép ảnh, ra sức bôi nhọ và giễu cợt Tiểu Văn.
Di chỉ thích đọc sách báo, có thể nói là mù vi tính, đã thế còn ít bạn bè. Với cô mà nói, mạng xã hội và các diễn đàn trực tuyến chẳng khác nào một thế giới xa lạ. Vì yêu cầu công việc, cô phải học cách sử dụng thư điện tử ở thư viện đã là giỏi lắm rồi. Bởi vậy, khi cô biết chuyện qua lời kể của đồng nghiệp thì đã là thứ Hai, ba ngày sau khi bài viết đăng trên mạng. Lúc này, cô mới hiểu nguyên nhân khiến Tiểu Văn như người mất hồn, trốn biệt trong nhà mấy hôm cuối tuần.
Mượn máy tính bảng của đồng nghiệp để đọc toàn bộ bài viết xong, Di nổi cơn thịnh nộ, căm phẫn bức xúc trước những chỉ trích sai sự thật cùng những lời bôi nhọ “cắn thuốc, làm gái bao”. Đến khi bình tĩnh lại, hiểu được mức độ nghiêm trọng của sự việc, Di phát hoảng, không biết phải làm thế nào. Cô muốn gọi điện cho Tiểu Văn, nhưng nghĩ em gái đang trên lớp khó lòng nghe máy, cô đành gọi đến phòng giáo vụ tìm cô Viên chủ nhiệm. Cô Viên cũng vừa biết chuyện, bảo rằng nhà trường đã bắt tay hành động, thành lập một nhóm nhỏ để ứng phó. “Chị Di cứ yên tâm, hôm nay Văn lên lớp không có gì bất thường, tôi sẽ để ý em ấy thật kĩ, cũng sẽ sắp xếp nhân viên xã hội chuyện trò với em ấy.”
Vừa tan ca, Di nóng lòng về nhà để an ủi em gái. Nhưng phản ứng của Tiểu Văn hoàn toàn nằm ngoài dự tính của cô.
“Chị, em không muốn nói chuyện.”
“Nhưng…”
“Hôm nay em đã bị giáo viên dội bom tới tấp cả ngày trời đến mệt lả rồi, em không muốn nhắc lại nữa.”
“Tiểu Văn, chị nghĩ…”
“Em không muốn nói! Tóm lại chị đừng đả động đến nữa!”
Thái độ trốn tránh của Tiểu Văn làm Di kinh ngạc. Lúc mới đọc bài đăng, cô tin chắc toàn bộ nội dung cháu trai Bình viết đều là nhảm nhí. Đến lúc về nhà thấy thái độ Tiểu Văn là lạ, Di không khỏi dao động. Dẫu cô không tin em gái mình đặt điều hãm hại người khác, nhưng những lời miêu tả Tiểu Văn trong bài viết liệu có 1% chân thực nào không?
Lòng nghi ngờ như hạt cây tầm gửi, một khi gieo xuống là sẽ âm thầm bén rễ vào tâm trí rồi lan rộng lúc nào không hay.
Ngoài bài viết chính, Di còn mất ngủ vì những bình luận trên mạng.
Nhờ đồng nghiệp chỉ dẫn, Di đã biết cách lướt các diễn đàn và trang mạng xã hội. Hằng ngày đợi Tiểu Văn ngủ say, cô lén lút mở chiếc máy tính cổ lỗ sĩ trong nhà, chăm chú đọc từng bình luận của cư dân mạng. Di hiểu người bình thường ai cũng có mặt tối. Nhưng cô chưa bao giờ nghĩ mặt tối đó khi lên mạng internet lại quá đà, thiếu tỉnh táo và bành trướng theo cấp số nhân thế này.
>> Hàng họ như thế mà cũng có hứng à?
>> Điện nước bình thường, nhưng vẫn chơi ngon.
>> Cũng chỉ là một gái bao, 300 đô là chịch được rồi.
>> Thứ con gái dễ dãi, có cho thêm 300 tao cũng không thèm.
>> Loại rác rưởi này, nhẹ nhàng đem chôn là được.
Di choáng váng khi em gái mình lại trở thành đối tượng chịu nhục mạ, bới móc công khai của một đống người lạ. Rõ ràng chưa gặp Tiểu Văn bao giờ, thế mà cư dân mạng làm như hiểu em gái cô lắm, áp đặt suy nghĩ của họ lên con bé rồi công kích, chế giễu một cách trắng trợn. Họ sử dụng đầy rẫy lời lẽ ti tiện bẩn thỉu trong bình luận, như thể đường dây cáp quang cho họ cái quyền tự do nhận xét người khác bằng mọi ngôn từ đê tiện tục tĩu, ngay cả khi đối phương chỉ là một cô bé vị thành niên. Hoặc giả, chính vì Tiểu Văn là trẻ vị thành niên, họ cho rằng pháp luật quá thiên vị Tiểu Văn nên họ càng phải bảo vệ chính nghĩa một cách “công bằng”.
Ngoài những phát ngôn dơ dáy vô liêm sỉ, trên các diễn đàn còn xuất hiện kha khá “thám tử” nghiên cứu tình tiết vụ án và “chuyên gia tâm lý” phân tích động cơ vu cáo người khác của Tiểu Văn, sau đó quả quyết rằng con bé mắc bệnh tâm lý và có khiếm khuyết về mặt nhân cách. Thỉnh thoảng cũng có người phát biểu ý kiến từ góc độ khách quan, nhưng thường sẽ bị người khác phản pháo bằng lời lẽ bất lịch sự, phần bình luận thành nơi công kích cá nhân và chửi bới vô nghĩa.
Di có cảm giác bản tính trần trụi của con người đang phơi bày trước mắt cô theo một cách quá quắt nhất. Tiểu Văn có lỗi gì để mà bị cuốn vào vòng xoáy này.
Suốt hai tuần tiếp theo, không khí bất an bao trùm gia đình Di. Sau bài đăng trên diễn đàn, truyền thông lại để ý đến vụ án của Tiểu Văn, thậm chí còn quan tâm rầm rộ hơn trước. Phóng viên gõ cửa hỏi thăm hai chị em không chỉ một lần nhưng đều bị sập cửa vào mặt vì Tiểu Văn từ chối lên tiếng. Một vài phóng viên chạy đến khu nhà ở xã hội Hoàng Đại Tiên phỏng vấn vợ Bình cũng gặp kết quả tương tự, vợ Bình tạm đóng cửa tiệm để né tránh. Báo chí lên bài đa chiều về vụ việc, có bài hùa theo cư dân mạng chỉ trích ngành tư pháp còn thiếu sót, có bài chỉ trích hành vi xét xử trên mạng này chẳng khác gì bắt nạt. Nhưng bất kể tích cực hay tiêu cực, cũng không thay đổi được sự thật là Tiểu Văn bị ép trở thành nhân vật công chúng, bị dân tình soi mói, ngày nào đến trường hay về nhà cũng có người quen chỉ trỏ.
Di lại chẳng làm được gì trước vô vàn sức ép ấy.
Cô từng nghĩ tới việc cho Tiểu Văn nghỉ học tạm thời, nhưng con bé cực lực phản đối, cho rằng cần duy trì cuộc sống bình thường, không để những chuyện “vớ vẩn” làm xáo trộn nếp sinh hoạt. Di không muốn lộ vẻ yếu đuối trước mặt em gái nên toàn kìm nén cảm xúc, nở nụ cười khích lệ trước thái độ tích cực của em. Nhưng không biết đã bao lần cô phải trốn vào nhà vệ sinh lặng lẽ rơi nước mắt.
Sang tháng Năm, số bài báo giảm đân, cư dân mạng bớt soi mói, Tiểu Văn cũng dần trở lại như trước. Tuy gầy đi trông thâý, ánh mắt có phần dao động, nhưng đã kiên trì chịu đựng suốt ba tuần vừa rồi, sau này hẳn con bé cũng vượt qua được thôi.
Nhưng Di đã lầm. Giữa lúc cô tưởng mọi việc sắp yên ổn, Tiểu Văn lại nhảy lầu tự sát.
Di không tin em gái muốn tìm đến cái chết. Với cô, mọi chuyện nên từ từ lắng xuống, cuộc sống nên dần dần trở về quỹ đạo, chứ không phải đột ngột mất kiểm soát đến mức này.
“Tiểu Văn không tự sát! Nhất định có kẻ bám theo con bé rồi ra tay ám hại…” Tại nhà xác, Di gân cổ phủ định kết luận của cơ quan điều tra.
“Không, chúng tôi có đầy đủ bằng chứng chứng minh em gái cô tự sát.” Cảnh viên Trình nói.
Hôm Tiểu Văn bỏ mạng, bác Trần hàng xóm tình cờ hẹn thợ đến sửa cửa. Họ tận mắt trông thấy Tiểu Văn về nhà một mình lúc 5 giờ 10 phút, còn