← Quay lại trang sách

Chương II

Ngay từ xa, nhìn thấy một chiếc ô tô tải của công ty xây dựng đỗ trước cửa nhà bà Nhớn, xung quanh là một đám đông nhốn nháo, Toàn đã hiểu đang xảy ra chuyện gì. Khu phố cũ của Toàn nằm trong khu vực phải mở rộng đường, mỗi bên hè sẽ bị chém sạt vào thêm ba bốn mét. Nhà Toàn bị dỡ bỏ, được đền một căn hộ trong khu tập thể mới. Những gia đình xung quanh cũng đã dỡ nhà và ra đi. Bà Nhớn thì không. Căn nhà bà vẫn nguyên vẹn, chòi ra trước như một cái cằm vênh lên thách thức. Hễ những người có trách nhiệm đến thuyết phục, bà xắn váy quai cồng, tay chống nạnh, miệng xoe xóe chửi. Người đàn bà cô đơn, chỉ say mê làm nghề hàng mã, đôi lúc nổi máu đồng bóng, nhót ra trước hè, lôi cả tam đại tứ đại một người nào đó ra mà chửi. Người xấu số có khi chỉ là một bà gánh nước đi qua, làm chao một chút nước xuống vỉa hè trước cửa nhà bà Nhớn. Cũng có khi chỉ là tiếng cười của mấy cô thanh nữ, chẳng cười cợt gì ai, nhưng làm bà mặc cảm, chạnh lòng.

Toàn bảo ông già đạp xích lô dừng xe, đợi bên ngoài đám người lộn xộn. Anh lách qua mấy người công nhân tay xà beng, tay búa đang vây quanh bà Nhớn.

- Mày đi đằng ngược mày chết đằng ngược, mày đi đằng xuôi mày chết đằng xuôi, chết đâm ô tô, chết xô tàu hỏa...

Anh công nhân tay cầm cái búa, có vẻ tếu táo nhất trong bọn, đưa tay như định bóc bức tranh dán bên cửa nhà bà Nhớn:

- U ơi, trước khi đập bỏ bức tường, để con gỡ trả u bức tranh kẻo phí. Ghê chưa, u già coi chúng con như ma tà yêu quái nên dán tranh trừ tà đây mà.

Bà Nhớn nhào tới, gạt phắt cánh ta anh ta ra. Toàn suýt bật cười, vì bây giờ mới nhìn thấy hai bức tranh dán hai bên cửa. Một bên là ông thần coi nhà, Tử vi trấn trạch , tay cầm hình bát quái, cưỡi trên mình một con sư tử. Bên kia là tranh Huyền Đàn trấn môn , vẽ một ông thần y phục võ tướng, tay cầm kiếm, cưỡi trên mình hổ - Đó là ông thần canh cửa trừ tà. Bà Nhớn mê tín, mà người mê tín nào cũng có cái ngây thơ, những tưởng chỉ làm thế là xua được rủi ro.

Đang chửi, bất chợt nhìn thấy Toàn chen vào, vẻ mặt bà Nhớn dịu xuống một chút.

- Toàn đấy hả cháu? - Bà hỏi, và khi Toàn đã len lách qua cửa, vào trong nhà, bà lại ráo hoảnh đổi giọng chửi - Mày chết mù hai mắt, chết quặt hai tay, chết đêm không ai hay, chết ngày không ai biết...

Bà Nhớn thương Toàn, thương từ khi cậu bé mới bốn tuổi đầu đã mồ côi mẹ, mà không chỉ đơn thuần là tình thương hàng phố. Bố đi làm vắng, hầu như cậu bé quanh quẩn suốt ngày ở nhà bà, buồn mồm thì có oản xôi, oản bánh khảo hay quả chuối. Lúc đói thì ăn cơm, mệt thì nằm lăn bên mấy cuộn giấy hồng điều, giấy trang kim và những bó cật tre nứa mà ngủ. Đến mức có người bảo: "Âu cũng vì bà Nhớn phải cái duyên ông bố thằng Toàn. Cũng là rổ rá cạp lại, biết đâu lại bền chặt". Bà Nhớn mới phong thanh bén tiếng, nhảy xổ ra trước cửa, chửi cho đầu phố cuối phố cùng nghe. Cái tuyên ngôn ở vậy thờ chồng của bà thật quyết liệt và rõ ràng.

Mỗi khi nghe bà Nhớn chửi, con người nhạy cảm ở trong Toàn cảm thấy bị tổn thương. Lúc còn bé, nó rúc vào trong góc nhà, nấp đằng sau những con ngựa giấy khá to, đằng sau những ông tiến sĩ giấy, những chiếc nón giấy, mãi cho đến khi bà Nhớn nghỉ giải lao, quay vào nhà và gọi: "Thằng Toàn đâu, sao bỏ dở miếng oản trên chiếu thế này?" Lúc ấy bà dịu xuống bao nhiêu, đáng yêu bao nhiêu, thì lúc chửi đổng bà đáng ghét, đáng sợ chừng ấy. Bây giờ cũng vậy. Vừa cùng ông xích lô khuân những chồng sách to ra xe, Toàn vừa rờn rợn như kiến bò dọc sống lưng. Có lúc anh lại hình dung một bàn tay đen sì úp chụp lên mồm lên mũi bà, bóp chặt. Kinh hoảng với sự tưởng tượng của mình, Toàn không dám nghĩ nữa. Đã chất đầy một xích lô sách mà số sách báo gửi ở nhà bà Nhớn vẫn còn nhiều, Toàn lấy cái bao tải trong góc nhà, nhét vào đó những quyển tạp chí rồi buộc cái bao tải trên poócbaga xe đạp. Anh chào bà Nhớn, đạp xe đi bên cạnh xích lô, được một quãng vẫn nghe bà chửi:

- Mày chết đông chết tây, chết đêm không ai hay, chết ngày không ai biết, chết không kẻ tiếc người thương, chết cho chó càm da, chết cho quạ càm xương... Mày lấy búa đập nhà bà, thì kiếp sau mày phải làm thân con bò cho người ta lấy búa tạ đập đầu lâu hoa cái, cho người ta chọc tiết mày...

Tiếng công nhân và những người đứng xem cười khoái chí, cười hô hô ha ha. Toàn ngoái lại, thấy đám công nhân lăng xăng chạy qua chạy lại, buộc dây lên bức tường, nối sang chiếc xe tải để kéo. Họ dọa bà Nhớn thôi, phải giúp bà chuyển hết đồ đạc đến nhà mới thì mới phá sập nhà được. Nghĩ đến lúc căn nhà sập đổ, bà Nhớn thẫn thờ tiếc nuối trên đống gạch vụn, Toàn lại thương. Thôi, ngày mai dứt khoát phải xin nghỉ việc cơ quan, đến giúp bà chuyển nhà một ngày. Dù không muốn, trước sau gì bà cũng phải chuyển đi.

Đến đầu Khâm Thiên, chỗ đường hơi dốc lên, ông xích lô nhỏ bé phải nhảy xuống, choãi chân đẩy xe vượt qua đường tàu. Toàn thấy vậy, cũng phải xuống xe, một tay đẩy càng xe giúp ông. Qua đường tàu một quãng, Toàn ái ngại nhìn đôi cẳng chân gầy đen đúa chằng chịt gân xanh của ông già, rồi nói:

- Hay là bác đi xe đạp, cháu đạp xích lô giúp bác một lúc vậy?

- Không dám, không dám - Ông xích lô lắc đầu quầy quậy. Toàn đọc thấy ngay ở ông thái độ chi li, rạch ròi, không muốn khi thanh toán tiền nong sẽ bị trừ một khoản vì đã để Toàn đạp xe. Anh định nhắc lại: "Cháu đạp giúp cho bác", nhưng ông đã hấp tấp nhảy lên xe như hốt hoảng. Toàn đành đạp xe đi, bắt đầu bám càng xích lô, đẩy giúp ông một tay. Chắc hẳn ông xích lô đang nghĩ rằng anh chàng vớ vẩn. Thanh niên ăn mặc sạch sẽ thế kia, chở theo bao nhiêu là sách, hẳn là trí thức, còn đòi nhảy lên đạp xích lô? Đâu chắc đạp được, hay lại làm xe tùng bê, hỏng xe thì ông cũng bị vạ lây. Những ý nghĩ của ông, Toàn thấy hết, như nhìn tận đáy một bể nước trong. Toàn bất chợt cảm thấy thú vị. Ông xích lô đâu ngờ anh chàng trí thức đi bên cạnh, mười lăm mười sáu tuổi đầu đã phải gò lưng đạp một xích lô rau muống, hoặc năm sáu thùng bia về cửa hàng giải khát Hồng Vân. Tưởng bây giờ chỉ cần đổi chỗ cho ông già, anh ngồi lên yên xích lô, là hóa ngay thành chàng trai mới lớn ngày ấy.

❖ ❖ ❖

Cái xích lô trôi dưới ánh trăng. Một bóng người chạy bên cạnh.

Cả đường phố mất điện. Chỉ đến lúc ấy, những người không hay chú ý đến ngày âm lịch mới có dịp nhìn lên vầng trăng chưa tròn đầy, mà hỏi nhau xem hôm nay mười ba hay mười tư. ánh trăng xối trên mái mái phố, rây qua những vòm sấu vòm xà cừ, rồi mới rải lỗ chỗ trên vỉa hè. Ở khoảng giữa lòng đường, trăng không bị những tán cây che khuất, sáng một dải dài như một con đường trăng. Giờ này phố vắng. Chuyện trò vãn dần, người ta đã thiu thiu trên những cái ghế xích đu, những cái giường xếp đem ra đặt trước cửa để hóng gió.

Bỗng đâu có tiếng leng keng như tiếng lục lạc rung trên cổ ngựa. Một cỗ xe vàng hiện ra. Không phải xe ngựa mà là một chiếc xích lô, chạy giữa lòng đường, chính ở chỗ có con đường trăng. Có người mở choàng mắt, đã thấy cỗ xe vun vút lao qua, tiếng chuông rung như rắc từng viên sỏi xuống đường. Một người đạp xe. Một người chạy bên cạnh, quần đùi, hai cẳng chân trần như cặp chân hươu nhuộm vàng, guồng thoăn thoắt.

Trong chốc lát, cả tiếng chuông rung, cả cỗ xe vàng và cặp chân hươu biến mất sau lối ngoặt.

❖ ❖ ❖

Toàn áp tải chiếc xe xích lô chở sách về đến chân cầu thang nhà tập thể, vừa lúc nhạc hiệu buổi phát thanh Trang Văn nghệ Chủ nhật vang lên từ căn phòng gần đấy. Giữa cảnh nắng sáng, mồ hôi nhễ nhại, nghe tiếng sáo réo rắt của bản nhạc "Sáng trăng" thấy dịu lòng và dễ chịu hơn. Toàn nhờ ông xích lô giúp một tay khiêng cái tải báo chí lên phòng. Lúc quay trở xuống, anh thấy một thanh niên trạc tuổi mình, lông mày rậm, đường râu quai nón viền quanh mặt, đang đứng bên xích lô sách, nhìn khao khát. Gương mặt hơi ngang ngổ bỗng lộ vẻ rụt rè, lúng túng. Khi ông xích lô hai tay hai bó sách, định lên cầu thang, thì anh ta như chờ mãi mới có cơ hội để tham gia vào công việc này, liền quả quyết cầm ngay lấy:

- Bác đứng coi xe, để cháu chuyển giúp.

Anh ta hào hứng cầm hai bó sách, thoăn thoắt đi lên. Vào đến phòng, chạm cái nhìn của Toàn, anh ta lại gật đầu cười như có lỗi. Có cảm tưởng đây là một anh chàng diễn viên trong thời gian phải hóa thân thành một nhân vật ngang ngổ, nhưng vẫn chưa nhập vai được. Toàn định nói một câu cảm phiền, vừa lúc có tiếng một cô gái gọi từ phía cuối hành lang:

- Anh Khắc đâu rồi? Anh Khắc ơi, gói than anh mới mua về để ở chỗ nào?

Anh thanh niên ngó đầu qua cửa trước:

- Không thấy hả Mỵ? Anh để bên cạnh làn bún mà.

Chắc cô gái tên Mỵ đã tìm thấy gói than nên không hỏi thêm nữa. Toàn loay hoay rút cái khung kính có tấm ảnh Antoine de Saint-Exupéry (1) giữa tập bản thảo và báo chí, đặt lên mặt bàn. Anh lại rút ra một bức tranh cỡ lớn, phóng to bức tranh minh họa truyện Hoàng tử nhỏ của ông, ướm thử trên tường xem nên treo ở đâu. Bức tranh vẽ chú bé ngồi trên hành tinh có hoa và rất nhiều cỏ dại, khăn quàng bay trước gió. Khắc ngẫm nghĩ nhìn bức tranh, tay xếp những bó sách vào sát chân tường. Đột nhiên chồng báo đổ nghiêng trên nền gạch hoa. Khắc nhặt từng tờ, xếp lại, và gặp những tờ bản thảo thơ. Không phải là tờ giấy chép những bài thơ, mà là tờ bản thảo, những câu chữ bị gạch xóa, có chữ bị dập nhiều lần. Này đây là bài Trở về phố cũ : "Tôi những tưởng phải xa con đường ấy - Và sẽ không trở lại bao giờ - Nhưng đi xa sao khó quên làm vậy - Con đường xưa vẫn trở lại trong mơ"... Này đây là Chờ mưa, Vầng trăng còn lại, Thời gian : "Thời gian với tôi - Là kéo là dao là bào là búa - Nó đẽo gọt bào mòn đập vỡ - Con người tôi..." Khắc giở lươn lướt, đọc lươn lướt, rồi dừng lại khá lâu ở bài Thời gian . Một cái gì rung nhè nhẹ trong tim. Khắc đọc những dòng chữ lạ của người khác, mà như đọc chữ của mình, như nghe tiếng mình nói, như gặp gỡ bạn quen. Một tập bản thảo đâu có lạ lẫm đối với Khắc. Chính Khắc cũng có một tập vở học sinh, chi chít chữ, nhưng không phải thơ, mà là lời tự kể chuyện đời mình. Đấy là lần duy nhất, mới đây thôi, Khắc muốn kể cho một ai đó biết, nhưng cuối cùng đành phải viết ra. Còn đây là bản thảo thơ, có bài Khắc đã đọc trên báo, đã thuộc, và có mấy chữ dùng khang khác, đã bị gạch bỏ. Có phải đây chính là tác giả bài thơ ấy?

Khi Toàn quay đầu lại, kịp phát kiện ra Khắc đang đọc tập bản thảo, thì cũng vừa lúc Khắc giật mình nhìn lên. Vẫn anh chàng khiêng hộ sách, cái anh chàng chưa nhập nổi vai ấy, nhưng ánh nhìn hoàn toàn mới lạ. Hiền lành và mơ mộng. Yêu thương và mến mộ. Nhưng toàn thân Toàn dường như bị căng ra. Anh thường có một cảm giác rất lạ khi bất chợt thấy có người đang tự ý đọc bản thảo hoặc sổ thơ của mình: tim khua dồn, đầu óc choáng váng, lạnh buốt, như có người đang ngắm bắn mình. Cùng lúc là cảm giác bị người khác nhìn chằm chằm trong lúc mình cởi bỏ quần áo ngoài. "Sự thoát y vũ về mặt tâm hồn cũng chẳng hơn gì thoát y vũ về mặt thể xác". Toàn thoáng nhớ một câu của Alêchxandr Krôn.

Vừa may có người gỡ cho Toàn khỏi tình thế khó xử, mà nếu kéo dài hơn nữa sẽ dẫn đến sự khó chịu. Một cô gái ngó đầu vào cửa sổ. Thấy Khắc, cô reo lên như một cô bé đang chơi ú tim tìm bắt được một người:

- Đây rồi nhé. Anh Khắc không về quạt chả thì em cũng mặc kệ đấy, mỏi tay lắm rồi.

- Bảo cái Hồng quạt đi - Khắc đặt tập bản thảo vào chỗ cũ, xếp những chồng báo lên trên.

- Anh về xem còn ai ở nhà không nào? Cô bạn Hồng vừa mới gói gém về quê rồi. Bảo nó đến trưa hẵng đi, nó có chịu đâu.

Cô gái nghiêng đầu bên cửa sổ, mái tóc ngang vai rủ lòa xòa bắt ánh nắng, sáng lên như những sợi bạch kim. Gương mặt trái xoan, tươi tắn như vừa mới qua thời bé con. Lúc nãy nghe tiếng cô gọi Khắc, anh tưởng họ là một cặp vợ chồng. Còn bây giờ, cái kiểu đối đáp rõ là của hai anh em.

- Con bé buồn cười thật - Khắc gật đầu chào Toàn, rồi vừa đi dọc hành lang vừa nói như trách Mỵ - Vừa nghỉ giải lao một tí, đã bị gọi.

- Chứ không à? Anh như thằng cu Sơn ở lớp em phụ trách ấy. Sểnh một tí là chui rào, trốn khỏi lớp học ngay.

Toàn mỉm cười, vẫn đứng im ở giữa nhà. Cô gái có giọng nói bổng trầm nhiều âm sắc, là lạ và dễ thương. Hình như một thời nào xa xôi lắm, anh cũng đã được nghe một giọng con gái dễ thương? Mùi chả nướng ngào ngạt trên bếp than. Mùi thơm rau ngổ, rau diếp cá, rau húng Láng. Những làn khói thơm tỏa một góc vườn nhà Hiệp. Một cô gái và ba đứa bạn trai... Xa lắm rồi, và giọng con gái hình như vang lên thân thiết với anh chỉ một lần ấy. Vẻ đẹp của họ và hạnh phúc có lẽ không dành cho anh, và tâm hồn anh như đã đóng chặt từ lâu. Toàn cố xua đi những tiếng nói cười và gương mặt cô gái vừa hiện ra trước cửa sổ.

Đột ngột Mỵ lại hiện ra. Lần này không phải ở cửa sổ, mà ngay trước cửa chính.

- Anh ơi, anh Khắc em bảo mời anh sang ăn cơm trưa với hai anh em chúng em - Cô gái nói, và thật thà chữa lại - Em quên, hôm nay chúng em không nấu cơm mà làm bún chả. Anh sang thì chỉ thêm một bát, một đôi đũa thôi mà.

Mỵ không hề cười, nhưng hễ cô nói, hai hàm răng đẹp lấp ló giữa đôi môi, gây cảm giác cô đang cười. Cái miệng tươi tắn, và lời mời của anh em Mỵ làm cho Toàn xúc động. A, họ cũng là những người nhạy cảm, thấy Toàn chỉ có một mình. Ý nghĩ ấy như một bàn tay vừa mới chạm tới cánh cửa nhốt chặt Toàn ở trong, liền rụt ngay lại, vô vọng, vì cánh cửa đã khóa chặt, ổ khóa đã két gỉ từ lâu.

- Tôi cảm ơn. Tôi đã ăn sáng, và hơi mệt, nên muốn nghỉ một chút - Toàn cố trả lời điềm tĩnh.

Nhất định Toàn sẽ không sang đâu. Nhưng anh vẫn mong có người sang mời lần nữa. Anh đóng cửa, nằm thao thức trong bóng tối mờ mờ, tai lắng nghe, chờ một tiếng gõ cửa. Hay nhỉ, thực ra anh không chờ một con người cụ thể đến gõ cửa, mà chờ một điều gì, một ai từ nơi rất xa.

❖ ❖ ❖

Toàn nằm ngửa trên cát, bên mép nước sóng vỗ tí tách, nhìn lên những con chuồn chuồn bay cao báo hiệu một ngày nắng. Gió hắt hiu trên những cây sậy vây thành một rào chắn xung quanh anh. Bãi sông xa làng xóm, lại chẳng có một bóng người.

Sao Toàn lạc đến bãi sông này, nằm bên mép nước này, trên người không manh quần áo, có khác gì chàng Chử Đồng Tử ngày xưa? Chàng cảm thấy ở nơi vắng vẻ này có thể trút bỏ được mọi vướng mắc, mọi điều day dứt, mọi nỗi nặng nề. Gió xoa vuốt trên da thịt. Nắng gói tròn thân người. Con người thảnh thơi, tránh được cái nhìn xoi mói, tránh được những tập tục xã giao phù phiếm, tránh xa thói dung tục đời thường. Chàng nhắm mắt lại, muốn được thiếp đi giữa một không gian thanh sạch và phóng túng.

Nhưng gió nhạy cảm hơn hết thảy trước sự xuất hiện của những người đang dần dần tiến lại. Hãy cẩn thận hỡi chàng Chử Đồng Tử! Từ phía xa kia gió đưa tới tiếng tơ đàn, tiếng phách trúc, tiếng sênh mai. Ôi chao, không nơi đâu mà con người ồn ào không đặt chân tới, ngay cả nơi người ta muốn nghỉ ngơi, trần trụi một mình. Đã nghe rõ tiếng nói cười ríu rít của đám thiếu nữ, tiếng phách hiệu bẻ lái ghé lại bến sông. Cái anh chàng Chử không manh vải trên người nhổm phắt dậy, chớp chớp mắt một lúc lâu mới nhận ra tình thế lưỡng nan của mình. Lặn xuống sông, không kịp. Bỏ chạy, cũng không xong. Bóng lâu thuyền với mấy chục tay chèo, cờ xí sặc sỡ rờm rợp mặt sông. Đã thấp thoáng gương mặt nàng Tiên Dung, nhưng quen quá đỗi, như thể thấy lại một cố nhân.

Chàng Chử luồn lách qua những khóm sậy, lùi dần lên phía bờ sông. Đến bên một lượn cát, chàng trằn mình nằm gọn vào trong đó, tay khoát cát, khỏa lấp trên thân mình. Chỉ cặp mắt vẫn dõi về phía thuyền rồng đỗ lại bãi sông. Những thiếu nữ tíu tít mang ống đi lấy nước, đóng cọc quanh chỗ Chử nằm, gác lên mấy tấm lao trúc, rồi chăng màn che. Thấy rõ lắm nàng Tiên Dung, quay lưng lại phía chàng, đang gỡ bỏ xiêm áo. Một tấm thân con gái dậy thì, thắt đáy lưng ong, một pho tượng tố nữ bằng ngà lồ lộ. Cái ngọn gió thóc mách cũng không dám thở mạnh, chỉ hập hờ, hập hờ trên những tấm màn, quấn nhẹ vào thân nàng, rồi lại vuôn vuốt gỡ ra.

Chử nhắm mắt. Chỉ còn cảm thấy một tấm màn xanh buông xuống, phủ lên tấm thân trần của chàng, mát lạnh. Không phải tấm màn che mà là một dòng nước. Dòng nước xối trôi lớp cát trên người chàng, khiến nàng Tiên Dung hốt hoảng vơ vội tấm màn, quấn quanh người, hai tay chắp lại mà cũng như che đỡ trước ngực. Chàng bối rối đứng dậy, áp cạnh thân nàng, bằng cách ấy để tránh cái nhìn của người khác giới lên tấm thân còn vương cát của mình. Nhưng nàng không nhìn xuống, mà ngước nhìn lên. Ánh mắt họ gặp nhau.

"Nàng là ai?" Chàng thì thào hỏi, cảm thấy da thịt nàng đã áp sát vào bộ ngực mình. Câu hỏi xưa cũ quá và nó đã được trả lời từ hàng nghìn năm rồi. Ấy vậy chàng vẫn hỏi, mà đã cầm chắc câu trả lời: "Thiếp là Tiên Dung".

"Nàng là ai?" Chàng bồi hồi hỏi lại.

Đến bây giờ cặp môi nàng mới hé mở. Và câu trả lời mới làm chàng vô cùng sửng sốt:

"Em là... Trang".

Phút chốc bãi cát mờ đi. Không còn lâu thuyền và cờ xí. Cũng chẳng còn nghe tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng cầm.

❖ ❖ ❖

Trên xích lô chẳng còn hàng, Toàn không phải rướn người, dồn sức vào đôi chân lúc nào cũng lên gân căng cứng. Toàn đạp chầm chậm, tận hưởng những làn gió mát đang làm khô dần tấm thân đẫm mồ hôi bên trong chiếc áo rộng thùng thình. Có hôm nhìn thấy Toàn gò lưng đạp cái xe xích lô chất năm sáu thùng bia năm mươi lít, Hiệp và Minh phải lắc đầu lè lưỡi. Mới mười sáu tuổi, Toàn đã cao to, sức vóc hơn bạn đồng lứa. Kỳ nghỉ hè đầu tiên sống không có bố, Toàn loay hoay đi tìm việc làm, kiếm thêm chút tiền ăn học. Kể ra bán đi một số đồ vật trong nhà như cái đài Rigônđa, cái quạt tai voi, thậm chí cái tủ gương... thì cũng có thêm tiền. Nhưng bây giờ chỉ còn lại một mình, Toàn hiểu mình phải vừa học vừa lao động kiếm sống. Một hôm, Toàn sang giúp bà Nhớn bôi hồ và dán giấy màu lên những khúc cật tre, làm thành những thỏi vàng. Chuyện trò một lát, bà Nhớn bảo:

- Hôm nay ông Tận xích lô sang đặt làm một chiếc xe đạp để đốt cho thằng con chết vì bệnh bạch hầu năm ngoái. Dạo này lão làm ăn phất lên, không dùng đến cái xích lô nữa, nhưng vẫn muốn có chân trong hợp tác xã vận chuyển. Ông hợp tác phê bình lão thiếu nhiều ngày công, nên lão cuống cuồng tìm người để cho thuê xích lô, đi làm thay lão. Tao đã bảo lão cho mày thuê xích lô, mỗi ngày trả cho lão một đồng, còn mình ăn tiền theo chuyến.

Toàn nhận làm, quen rất nhanh với công việc nặng nhọc. Hàng ngày, khoảng tám giờ tối, Toàn đến tổ hợp tác ở cạnh nhà máy bia, ghi tên xếp hàng thứ tự, rồi ngủ gà ngủ gật cho đến năm giờ sáng hôm sau mới sang nhà máy bia. Thông thường mỗi ngày Toàn chở bốn chuyến, mỗi chuyến hai đồng tiền công. Năm giờ chiều xong việc, về nhà tắm rửa ăn uống, buổi tối lại đi tiếp. Riêng hôm nay Minh và Hiệp hẹn về sớm để xem phim, buổi 16 giờ, Toàn chỉ đi ba chuyến.

Gần đến Nhà Văn hóa của khu, Toàn để ý nhìn mấy tấm quảng cáo sặc sỡ dán trên tường: " Nhận học sinh vào lớp đàn bầu, đàn tranh, đàn ghi ta", "Chương trình dạy vẽ cho các em trong dịp hè", "Nhà văn hóa khu xây dựng một chương trình ca múa nhạc chọn lọc. Xin mời đến ghi tên tại..." Ngang qua trước cửa nhà Nhà Văn hóa, Toàn nhìn qua khoảng sân gạch có hai cây si và mấy khóm mẫu đơn vào phía trong. Đây là một ngôi chùa cổ, nay thành nơi sinh hoạt tinh thần của dân phố. Hôm nay, trước cửa chùa treo một khẩu hiệu chữ vàng: "Đời đời ghi nhớ công lao các anh hùng, liệt sĩ". Bên trong ồn ào tiếng nói cười. Toàn nhớ ra mai là ngày 27-7. Tim anh nhói lên, trong thoáng chốc cả vòm lá si trên đầu bỗng phủ một màu xám ảm đạm. Thế là đã hơn bảy tháng con không có bố. Con muốn đi tìm, nhưng không sao biết được bố nằm ở nơi đâu.

Một cô gái đang co kéo một người đàn ông trạc ngoại bốn mươi ra khỏi chùa, vội vã dìu ra cửa. Ra đến vỉa hè, người đàn ông định đẩy cô bé ra để quay vào trong chùa, nhưng cô vẫn giữ tay rất chặt.

- Chú ơi, con van chú, chú đi về đi - Cô gái cố đẩy vào lưng người đàn ông, dắt đi theo mình. Cặp mắt cô đỏ hoe.

Thoạt nhìn những bước chân liêu xiêu và vẻ bơ phờ của người đàn ông, Toàn ngỡ anh ta quá chén. Nhưng cặp mắt dại đờ, nhất là những câu nói khiến cậu ngờ ngợ.

- Để chú vào, chú gặp thằng Tưởng. Bấy lâu chú vẫn thường mơ thấy nó. Cái thằng bị trúng mìn thám báo ở Khe Sanh, chính mắt chú nhìn thấy hộp sọ nó giập nát. Tưởng ơi, thế mà em vẫn sống, em cưỡi máy bay em về...

- Chú Đôn, không phải chú Tưởng đâu - Cô gái nghẹn ngào - Chú ơi, chú đi về.

Có ai bóp chặt trái tim Toàn, xoắn vặn nó, dứt đứt nó. Cô gái mảnh mai kia, chỉ cỡ tuổi Toàn, loay hoay mãi quanh gốc si, không sao dìu nổi chú Đôn đi. Toàn đẩy xích lô đến, áp sát bên vỉa hè, đúng lúc cô gái nhận thấy:

- Anh, anh đưa giúp chú em về nhà. Em không thể...

Toàn giúp cô gái đưa chú Đôn lên xe. Cậu bảo cô ngồi cùng, giữ cho chú khỏi nhảy xuống giữa đường. Chỉ có hai người mà sao nặng nề quá. Toàn cắn răng đạp, chỉ sợ mình rơi nước mắt, trong khi cô gái tấm tức kể:

- Ủy ban và Khu đội đến thăm hỏi, cho quà, em phải giấu quà và giấy mời họp mặt đi, không cho chú biết. Đến họp mặt, chú dễ bị xúc động mạnh và nói năng lung tung. Thế mà cuối cùng chú vẫn biết, vẫn đi...

... Đôn bước vào trong chùa, ngồi xuống một cái ghế trống, trong khi đại diện phòng Thương binh - Xã hội đang kết thúc bài nói chuyện với anh em thương binh và gia đình liệt sĩ. Vị đại diện tính tình nhanh nhảu và xởi lởi, rất thích hợp với những công việc đại loại như công đoàn, vui vẻ nói:

- Bây giờ mời các đồng chí ăn bánh kẹo, uống nước, và chuyện trò cho bõ buổi gặp mặt. Có đồng chí nào muốn phát biểu thêm không ạ?

- Tôi - Đôn bật dậy khỏi ghế - Tôi muốn nói.

Đôn hấp tấp đi lên phía bục diễn giả, vấp cả vào chân ghế. Toàn thân anh như một quả bóng bơm căng. Đầu óc choáng váng vì xúc động quá mạnh. Hình như trước mắt anh có một vầng sáng lửa hàn, màu tím thiêng thiếc.

- Tôi xin nói, tôi xin cảm ơn ủy ban, phòng Thương binh - Xã hội và Khu đội đã quan tâm đến anh em chúng tôi. Tình nghĩa ấy chúng tôi không quên được...

Những lời nói thông thường, có gì đâu mà Đôn nghẹn giọng không nói thêm được nữa. Anh đưa mắt nhìn khắp gian chùa, cặp mắt đã thất thần, nhìn mà chẳng thấy gì. Một màn đêm đã phủ lên tất cả. Thốt nhiên, trong bóng đêm đen đặc, những ngôi sao xanh, vàng da cam, đỏ, tím tung tóe như vãi xuống. Sức nóng thiêu đốt cả thân mình Đôn.

- Các đồng chí ơi - Anh thét lên như kêu cứu - Đầu Tưởng giập nát rồi. Chúng tôi đã kết thành anh em, đã thề không bỏ nhau lại. Thế mà chỉ còn mỗi mình tôi...

Không ai ngờ một anh thương binh mù đứng vụt dậy:

- Ôi, anh Thắng ơi, em tìm anh mãi. Em của anh đây, em Hiển đây mà.

Anh nhào ra phía lối đi, quờ quạng tìm đường. Đôi tay run rẩy chạm vào bức tường, anh không tránh, mà cứ tìm cách mở nó, như mở một cánh cửa. Mãi không được, anh kêu trong tiếng khóc ròng:

- Anh Thắng đâu rồi, em còn sống đây mà.

- Tưởng ơi, mày đã trúng mìn mà vẫn về được hả em? - Đôn lao tới, ôm lấy vai Hiển, xoay lại phía mình. Không nhận ra rằng đó không phải là người bạn đã chết. Anh ôm chặt anh thương binh mù, gục vào vai anh ta, nức nở.

Người ta phải tìm cách gỡ hai người ra. Anh thương binh mù được dẫn về chỗ. Vừa lúc cô cháu gái của Đôn tới, chật vật lắm mới dìu được chú ra.

Toàn chở hai chú cháu về tận nhà, không xa phố cậu ở là mấy. Sau cơn kích động dữ dội, Đôn đã mệt mỏi rũ xuống. Toàn dìu Đôn vào giường, đặt nằm ngay ngắn, rồi mới quay ra. Cô gái ra theo cậu, mấp máy môi định nói. Hiểu ý, Toàn lắc đầu, xua tay từ chối. Cậu đạp xe về, đẩy xe vào trong sân, rồi gục đầu vào bức tường ẩm tối. Buổi xem phim hẹn với hai bạn thế là hỏng mất rồi. Lát nữa Hiệp và Minh sẽ đến rủ Toàn cùng đi, nhưng làm sao mà xem được nữa.

Mấy tuần sau, một buổi sáng, Toàn đang vận hết gân cốt, nắm càng kéo cái xích lô qua khỏi rãnh nước, trước lối rẽ vào một cái ngõ. Bất chợt một bàn tay đặt vào bên cạnh tay Toàn, cùng kéo. Cái xe chở năm thùng bia kèo kẽo lăn qua rãnh. Toàn đứng thẳng lại, phủi tay thở phào, sửng sốt nhận ra người vừa kéo hộ là chú Đôn.

- Cháu cảm ơn chú - Toàn nói và lên xe. Nhưng Đôn đã lẳng lặng chạy bên cạnh. Một tay đặt vào thành xe, đẩy giúp.

Toàn rất áy náy, mấy lần nhắc Đôn quay về, nhưng chú không nghe. Đành để chú cùng đi. Những lúc phải nhảy xuống, đẩy xe lên dốc, có thêm chú Đôn đẩy, chiếc xe nặng cứ trôi băng băng.

Thêm mấy lần nữa. Toàn mới hiểu những lúc chạy theo xe như vậy chú Đôn lại lên cơn. Nếu không im lặng chạy đẩy xe cùng với Toàn, chắc chú sẽ ngồi mà nói năng lộn xộn. Hình như chú Đôn ngồi rình ở đâu đó, hễ thấy xe Toàn chạy qua, chú mới bất đồ lao ra. Một hôm, chở bia về đến cửa hàng, hai chú cháu ngồi giải khát. Đã tỉnh táo trở lại, chú Đôn nheo mắt nhìn một cô bé ngồi cạnh can bia và mấy chiếc cốc vại, đang quạt than nướng những con mực khô. Hồi lâu chú hạ giọng trầm ngâm:

- Con bé Vân nhà chú, nếu còn sống, cũng chừng này...

❖ ❖ ❖

Ba người bạn đến trường nhận thẻ học sinh, nhận số báo danh, làm thủ tục chuẩn bị thi đại học. Học sinh xúm quanh mấy cái tủ lưới mắt cáo, bên trong dán danh sách học sinh và số báo danh tương ứng. Toàn lẻn vào trong, va phải một cô gái làm cô loạng choạng. Toàn định lên tiếng xin lỗi, thì cô gái mừng rỡ reo lên:

- Úi, anh... xích lô.

Hiệp và Minh đứng bên cạnh cười rộ lên. Cái biệt danh mới mẻ quá, họ chưa nghe ai gọi Toàn như thế bao giờ.

- Ơ kìa... - Toàn lúng túng nhận ra cô cháu gái của chú Đôn. Chú Đôn chạy theo xe và đẩy giúp Toàn đã nhiều chuyến, nhưng cô gái này Toàn chỉ gặp một lần ấy trước cửa nhà văn hóa Khu - Bạn cũng thi ở Hội đồng này sao?

- Vâng, em học ở trường Đống Đa cơ, nhưng phải thi ở bên này. Đang buồn quá vì không gặp người quen.

Anh chàng Minh "chải chuốt" vừa mới đưa tay vuốt tóc, định chen vào mấy lời có cánh, thì đám học sinh đứng đằng trước xôn xao nhắc:

-  Ai là Lê Thị Thu Trang kìa?

- Trang đâu? Ai tên là Trang? Trang hoàng ấy mà, vào đi.

Cô gái cuống quít quay vào, chen qua đám đông:

- Có đây ạ.

Minh cụt hứng, hất hàm theo và nháy Toàn:

- Lại một thiên diễm tình, lâm ly hơn cả "Bích Câu kỳ ngộ". Một cuộc gặp gỡ làm nàng xao xuyến lắm, mình biết.

Hiệp chỉ cười phụ  họa. Anh chàng lành như bụt, hễ nghe Minh nói những câu hoa mỹ, chỉ biết cười góp, hiếm khi nói thêm một câu. Có lần Minh thú nhận: "Mình chỉ là thằng si tình ở cái mồm. Tẩm ngẩm tẩm ngầm như Hiệp mới là đứa đáng gờm". Nhìn hai đứa bạn bối rối theo cách khác nhau, Toàn bật cười. Song Toàn thấy lòng mình run run. Tay phải đưa lên định vuốt lại tóc, nhưng lại hạ xuống ngay, lỏng lẻo như một cánh tay thừa. Chắc hẳn vì từ trước đến giờ nhóm của họ chỉ có ba chàng trai. Bạn gái cùng lớp qnen thuộc hàng ngày, không để lại một ấn tượng mới mẻ. Đây là lần đầu tiếp xúc với một cô gái mới, trong một tình huống bất ngờ.

Trang đã quay trở ra, tay cầm thẻ và phiếu dự thi. Cô ý tứ gập cái thẻ học sinh lại, không muốn để cho ba chàng trai thấy tấm ảnh của mình. Toàn cố nén nỗi khấp khởi bằng câu hỏi:

- Chú Đôn vẫn khỏe chứ?

- Chú em vẫn khỏe. Dạo này chú cũng ít lẩn thẩn hơn - Đột nhiên Trang ngẩng lên, cặp mắt to sáng nhìn thẳng vào Toàn, nhưng câu hỏi lại ngập ngừng - Thế mà em cứ tưởng, anh...

Trang định nói "anh xích lô".

- Tôi chỉ đi làm thuê vào dịp hè thôi - Toàn giải thích.

Minh trịnh trọng xen vào:

- Hè này nếu bạn muốn lên xe hoa, cứ dự trù kế hoạch và gửi công văn báo trước. Sẽ có ngay một cái xích lô trang hoàng lộng lẫy tới đón bạn.

Câu nói nhiều ngôn từ to tát, bóng bẩy cùng những cử chỉ khoa trương của Minh không làm Trang chú ý. Cô kín đáo đưa mắt nhìn anh chàng Hiệp đang mỉm cười chất phác.

- Các anh thích thật - Trang đổi sang chuyện khác, lảng tránh cái nhìn của cả ba chàng trai cùng lúc chiếu vào mình - Ba người được ở cùng một Hội đồng, lại ở chính trường cũ của mình. Còn em, có cô bạn thân phải thi ở trường Tây Sơn, thế là mỗi đứa một nơi.

Câu chuyện bị cắt giữa chừng vì đến lượt ba người bạn trai vào làm thủ tục. Lúc xong việc, họ vẫn thấy Trang đứng chờ bên gốc cây phượng. Họ lập thành một nhóm bốn người từ đó, sau kỳ thi vào đại học, suốt cả mùa hè năm 1974. Trong những lần tổ chức các trò vui chung, Toàn dần dần biết được, khi nhiều khi ít, chuyện gia đình Trang.

❖ ❖ ❖

Không bao giờ Trang quên buổi sáng hôm ấy.

Một ngày hè oi bức năm 1965. Đã mấy hôm rồi không gian nóng hầm hập, nhìn đâu cũng thấy vàng nhức mắt như lửa cháy xung quanh. Trang bắt chước bọn trẻ con ở địa phương đổ nước sôi để nguội vào ba cái chai, buộc dây vào cổ chai thành chùm, rồi thả theo cái gầu xuống giếng. Tối hôm qua, trước khi đi ngủ, Trang cũng ngâm một mẻ như vậy. Sáng sớm vừa tỉnh dậy, con bé vội vàng ra giếng kéo gầu nước lên. Nó tháo một chai nước, ngửa cổ tu một ngụm. Lạnh buốt như nước đá. Trang bỗng rùng mình một cái, khắp người sởn gai ốc. Nó nhắm mắt, cố hình dung ra vị ngọt mát của cốc xirô đá mà mẹ dẫn đi uống từ hồi nảo hồi nào. Không phải là sự dễ chịu ấy. Ngụm nước lạnh toát vừa uống vào buổi sáng làm Trang rờn rợn, như linh cảm thấy một sự không lành.

Trang mang ba chai nước vào nhà, đặt lên bàn, nhưng vẫn cảm thấy ớn lạnh bên sườn. Mẹ nhìn mấy chai nước, rồi bỗng thở dài:

- Con giống in tính bố. Cứ mùa hè là thèm uống nước đá cả ngày.

- Mặt con có giống bố không hả mẹ?

- Con không giống cha thì con giống ai - Mẹ mắng yêu- Con gái mà đoảng lắm, bố đưa đi chơi bao nhiêu lần mà vẫn không nhớ nổi mặt bố.

Thực ra mẹ cũng hiểu dạo ấy Trang còn bé lắm. Mới bốn năm tuổi đầu, thì không thể nhớ nét mặt bố cho rõ ràng được. Bố lại đi chiến trường một mạch suốt từ hồi ấy, ba bốn năm rồi vẫn chưa trở lại. Trang lờ mờ biết rằng ngay từ dạo bố ở nhà, mẹ đã không hạnh phúc. Hình như ông bà nội và các cô các bác bên nội không cho bố lấy mẹ. Mọi người vẫn sống ở Hà Nội, nhưng từ dạo mẹ con Trang đi sơ tán, không hề có ai đến thăm. Bố thì đi Bê, và cũng bặt tin luôn. Đã lâu, trong nhà không ai nhắc đến bố. Về sau nhớ lại, Trang sợ hãi nghĩ rằng lúc đó mẹ đã cảm thấy một điều tiền định của số phận.

Một nhóm ba bốn đứa trẻ đội mũ rơm, giỏ buộc ngang lưng, tay cầm rá, ríu rít gọi từ ngoài ngõ:

- Trang ơi, đi mót lúa không?

- Có, có - Trang cuống cuồng vơ vội cái bị treo sau cánh cửa, lao ra sân - Các đằng ấy đợi tớ với.

- Trang - Mẹ nghiêm giọng gọi theo - Con lấy mũ đội vào. Nghe tiếng máy bay là phải xuống ngay hào giao thông con nhé.

Trang quay lại, vừa lúc mẹ cầm cái mũ rơm, bước qua ngưỡng cửa. Con bé không nhìn mẹ, đón lấy cái mũ, và chạm vào tay mẹ. Bàn tay mẹ nóng như của người đang lên cơn sốt.

Lũ trẻ mót nửa buổi đã đầy bị đầy rá lúa nếp. Chúng xếp gọn số lúa mót được bên một bụi tre, rồi chạy băng ra đồng, chơi trốn tìm sau những gò đất, những ruộng mạ và ruộng lúa chưa gặt. Trang chạy trên một ruộng mạ, êm như chạy trên một thảm cỏ, rồi nằm xoài ra, ngửa mặt nhìn trời. Lúc đứng thấy mạ thấp tè dưới chân, nhưng nằm xuống, thấy thân mạ vươn cao hơn tầm mặt, như một rào chắn xung quanh. Thằng cu Tý phải đi tìm, đố mà nhìn thấy Trang nằm nấp ở đây. Bầu trời xanh, trong văn vắt. Cái đám mây kia trông như một con ngựa trắng phun ra khói. Trang hình dung ra lũ bạn không tìm thấy nó, đang xôn xao hỏi nhau. Chúng nó tỏa đi tìm, sục vào những gò đất, những nấm mồ trong bãi tha ma, chui cả vào trong cái miếu thờ gần đấy. Bây giờ chắc chúng tụ lại với nhau, mếu máo khóc. Ôi thôi, cái Trang chết mất rồi. Biết nói thế nào với mẹ nó bây giờ?

Mới nghĩ vậy, Trang đã thấy tủi thân và rùng mình một cái nữa, giống hệt cảm giác uống ngụm nước lạnh lúc sáng sớm. Nó nhổm dậy, mi mắt nằng nặng như sắp khóc, kịp nhận thấy lũ bạn đang bị cô đội trưởng đuổi chạy táo tác về phía cái miếu thờ. Thấy Trang trồi lên giữa ruộng mạ, cô quay trở lại, hét từ xa:

- A, cả con bé con nhà "chị sơ tán" nữa kìa. Giỏi nhỉ, dám kéo nhau vào phá ruộng mạ của hợp tác.

Trang hoảng sợ bỏ chạy tuốt ra ngoài bãi sông.

Từ xa con bé đã thấy một cảnh tượng thật là vui mắt. Hai thằng bé chăn trâu, cùng cá mè một lứa như Trang, đang quất cho trâu chạy lồng trên bãi sông, nước ngập chưa đến đầu gối, làm nước bắn tung tóe. Sau đó, một tay nắm chặt đuôi trâu, chúng co chân, đánh đu sau đít trâu, tay kia cầm cành tre quất cho trâu chạy lồng lộn. Trông chúng giống hệt những vận động viên lướt ván. Trang chạy đến gần, cũng reo hò ầm ĩ tán thưởng trò chơi có vẻ mạo hiểm. Một thằng bé bỗng buông cái đuôi trâu ra, thả mình rơi bùm xuống nước. Nó lồm cồm bò dậy, tay vuốt nước trên mặt, rồi hướng về phía Trang hét to:

- Có muốn chơi không? Ra đây.

Dĩ nhiên là Trang chỉ chờ có thế. Con bé xắn quần lội ra chỗ thằng bé vừa quen. Cu cậu giúp Trang nắm chặt đuôi trâu bằng cả hai cánh tay, đu lên, và bảo Trang co chân cho hai bàn chân chỉ vừa chạm mặt nước. Như vậy khi trâu lồng, chân sẽ rẽ nước, té lên một đường thẳng băng. Xong xuôi cậu bạn mới dùng roi quất mạnh vào lưng trâu. Trang ré lên, vừa sợ vừa thích thú. Cu cậu kia đạp nước phòm phọp, chạy theo bên cạnh điều khiển con trâu...

Lũ trẻ mải chơi, la hét ầm ĩ nên không nhận ra tiếng máy bay. Chỉ khi tiếng động cơ xoèn xoẹt ngay trên đầu và siết rung màng nhĩ, chúng mới buông trâu, chạy nhào vào trong bãi. Chẳng kịp tìm chỗ nấp, ba đứa trẻ run rẩy nằm sấp bên nhau, cạnh một luống khoai lang.

Thằng Mỹ lại ném bom hủy diệt một lần nữa cái thị trấn nằm bên quốc lộ số một, có con đường sắt xuôi về Nam. Nhưng hoảng sợ vì lưới lửa phòng không của ta, chúng cắt bom chệnh ra ngoài, trúng vào một làng nhỏ bên kia sông. Cái làng mẹ con Trang sơ tán về, dựng nhà ở lại, đang cháy rừng rực vì bom napan.

Không còn lối vào trong làng nữa. Một hàng rào lửa đã chặn đứng tất cả những ai định liều thân nhảy vào cứu cha mẹ vợ con. Những người sống sót, vừa hớt hải chạy từ ngoài đồng về, lồng lộn bên những bụi tre, cách xa lưỡi lửa đang liếm tới hàng chục mét mà vẫn nóng ngùn ngụt. Người ta dứt tóc, đập đầu vào cây, hờ khóc như đã hóa dại. Không nhà nào không có người bị cái vòng khổng lồ kia nuốt chửng.

Ai mà biết được có một con bé rúc đầu trong bụi dong riềng ở cạnh đấy. Trang cũng muốn chạy về nhà. Hôm nay mẹ không phải ra thị trấn làm việc, mẹ ở nhà, thế thì ngọn lửa đã nuốt mất mẹ rồi. Nhiều người lao vào dập lửa để nó không lan rộng ra được. Vậy mà Trang vẫn cảm thấy mỗi lúc một nóng bỏng da thịt. Con bé liếm môi, nhớ đến ngụm nước lạnh lúc sáng. Gai ốc sởn khắp người. Hơi nóng nhiều lúc gây cảm giác cũng giống như khí lạnh.

Mây dông kéo đầy trời, bóng tối phủ xuống rất nhanh. Ngọn lửa vẫn cháy như ma quái. Những bóng người tuyệt vọng chạy qua chạy lại. Những tiếng kêu khóc rền rĩ... Tất thảy làm Trang nhớ tới một chuyện ma rùng rợn. Mẹ chết mất rồi. Biết đâu những bóng ma cũng đang bay lượn phất phơ quanh đây, sắp thò tay bắt Trang, bỏ vào bị mang theo. Con bé thu mình lại, vẫn lạnh run toàn thân. Thình lình, nó chồm dậy, chạy loạng choạng như bị ma ám ra phía bờ sông.

Ai cũng có người nhà bị chết thảm. Không ai biết con bé đang chạy qua cầu tre, lao như một con mèo hoang vào trong thị trấn đổ nát. Hình như có cả một bầy thú dữ nhe nanh múa vuốt đuổi sát đằng sau. Trên không những hồn ma đang vù vù lướt gió. Những ánh chớp lằng nhằng xẻ ngang dọc bầu trời. Trang vấp, ngã xuống đống bê tông nát vụn, mặt mày sây sướt, khuỷu tay toạc da, chảy máu. Con bé không cảm thấy đau. Nó hoảng loạn chạy lung tung, tìm một chỗ có người, nhưng tìm mãi chẳng thấy.

Thốt nhiên Trang thấy một căn nhà trống toang hoang, im lặng trong bóng tối. Một tia sáng lóe lên như một mũi kim lửa, rồi tắt lịm. Ảo giác chăng? Hay là một ánh chớp? Trang đâm bổ về hướng đó. Con bé không nhầm, đấy là một nhà ga và đốm sáng là ánh đèn pin của một anh cán bộ vừa bấm lên xem lại đồng hồ cho yên tâm, trước khi chợp mắt một lát, chờ chuyến tàu sáng.

Trang không dám vào nhà ngay. Căn nhà yên ắng quá. Như thể bên trong có rất nhiều người đang nín thở, chờ con bé vào để chộp. Nó nằm mọp trên cái nắp hầm cá nhân. Mắt mở trừng trừng nhìn vào căn nhà có mấy bóng người nằm ngồi. Bất chợt một giọng hát não nề cất lên:

"Nhờ câu hát xin cô bác vài xu

Nuôi thân dãi dầu nắng mưa..."

Tiếng đàn đệm cứ ò ư ò ư như nhạc đám ma. Trang rùng mình. Nhưng câu hát làm nó tin chỉ có người mới hát được thật như vậy. Ý thức dần dần trở lại. Sự bình tĩnh cũng dần dần trở lại. Khi ông xẩm mù, vốn thính tai, nghe thấy tiếng người nhúc nhắc trên cái nắp hầm cập kênh, hỏi vọng ra, Trang đã dám đáp lời, mon men dịch vào trong phòng đợi. Nó đứng như hóa đá ngay trước một ô cửa bán vé cho đến lúc mờ sáng.

Trang lên cơn sốt. Nó cứ đứng mà run bần bật, muốn khóc nhưng không sao phát thành tiếng. Từ buổi trưa hôm qua đến giờ con bé không có một hạt cơm trong bụng, không uống một hớp nước, và chỗ khuỷu tay rách da bật máu cũng không làm nó thấy đau. Ánh ban mai mờ mờ lọc qua cặp mắt mất thần sắc của nó hóa thành vàng ệch. Trang loạng choạng bám lấy hàng lan can sắt đối diện với chỗ chú Đôn ngồi. Chú Đôn cũng mở mắt mà không nhìn thấy nó.

- Ấy kìa, con bé - Lại chính ông già mù cảm thấy Trang ngã và kêu lên.

Đôn choàng tỉnh, nhào tới đỡ lấy con bé vừa rụi xuống. Hai cô tự vệ và mấy cán bộ đi công tác cũng xôn xao chạy đến. Một cô dốc nước trong biđông, dấp ướt chiếc khăn mặt, lau mặt và lau khắp người Trang. Đôn kề chiếc biđông vào môi con bé, cho nó uống từng ngụm nhỏ.

Một lát, Trang mở mắt.

- Cháu đói... - Con bé thều thào.

Đôn lục trong túi cóc ba lô, lấy ra một phong lương khô. Anh bẻ từng mẩu con con, bón cho con bé.

- Bố mẹ cháu đâu? - Một cô tự vệ hỏi.

Lồng ngực con bé dồn lên, nhưng thót xuống ngay. Lại căng lên, lại thót xuống. Con bé khóc, nhưng không thoát nổi thành tiếng. Những luồng hơi cứ dồn, cứ quẩn trong lồng ngực. Nó không còn sức mà khóc. Cơn sốt đang hành nó bỏng giẫy trên tay Đôn.

Đầu óc Đôn nhức buốt. Đôn bị choáng nặng vì bị sức ép, bị bom vùi, đã mất khả năng chiến đấu, đôi khi bị mất tri giác. Người ta bảo đã mổ cho anh và lấy ra khỏi đầu mấy mảnh đạn, sao Đôn cảm thấy chúng vẫn cộm lên, vẫn thúc chọc trong đó?

Đôn cúi nhìn con bé mà tưởng bây giờ chỉ cần ngẩng nhìn lên, sẽ thấy con bé Vân của anh đang đứng giữa phòng đợi. Như lần anh về phép hai năm trước, con bé vừa kéo căng hai cái đuôi tóc ngắn ngủn lên trên đầu như hai cái sừng, vừa nhún nhảy bi bô: "Bé bé bằng bông, hai má hồng hồng, bé đi sơ tán bế em đi cùng..." Đôn giũ mạnh đầu. Không. Chỉ là một ảo ảnh. Con bé Vân của anh đã vĩnh viễn không còn nằm trong vòng tay anh nữa. Đôn được tin vợ con anh đã mất tích trong một hố bom năm nghìn bảng Anh. Đôn cũng nấc lên. Những tiếng nấc khan.

Chuyến tàu sớm ngược về Hà Nội đến lúc năm giờ tám phút. Hành khách lên từ ga xép chỉ có hai cô tự vệ, bốn người đàn ông trên dưới tuổi trung niên. Cuối cùng là một người không đoán nổi bao nhiêu tuổi, mặc quân phục không có quân hàm quân hiệu, ba lô sau lưng, trên tay đỡ một đứa con gái nhỏ đang sốt mê man.

Chỉ còn lại trong phòng đợi nhà ga ông xẩm mù đang ê a, với chiếc đàn nhị tồi tàn.