← Quay lại trang sách

Chương 2

NĂM LÊN BẢY, BÁC GIAO CHO CHA TÔI dẫn đi học. Cha tôi sắp đặt suốt mấy tháng để chuẩn bị ngày tôi nhập trường. Trước hết là không cạo đầu để chừa trái đào nữa mà dưỡng cho tóc ra đều để cúp ca-rê. Có hai ông thợ cắt tóc dạo cứ dăm ngày là rảo qua xóm một lần. Thợ Liễu cúp giá rẻ hơn, nhưng cúp vụng, hớt ca-rê mà như chụp cái nồi lên đầu. Ông ta kiêm luôn nghề thợ may nhưng làm thợ may cũng vụng như làm thợ cúp, cắt áo quần cho người ta thì hoặc quá ngắn hoặc quá chật cứ phải đền vải đền tiền cho thân chủ. Những khi cắt quá dài hay quá rộng thì ít bị than phiền hơn. Có người không bắt sửa lại vì tin rằng mặc rộng thì lâu rách và có hi vọng mặc cho tới lớn. Người ta nghĩ rằng thợ may bị lỗ vào khoản vải may dư đó và người ta vui lòng.

Thợ Thừa cắt đẹp hơn, cạo không phạm, chỉ bậy là hà tiện mài dao nên cạo rát da. Người lớn thích giao phó cái đầu cho thợ Thừa vì ông cúp chậm chạp. Ít nhất cũng bảo đảm rằng ông không ăn gian thì giờ, còn đầu mình cúp đẹp nhiều hay ít thì chỉ có người khác mới biết. Thợ Thừa có cái mặt to và một hàm râu quai nón. Đôi vai rộng. Tướng mạo đó không cân xứng với các thứ dụng cụ ông xử dụng trên tay. Cái tông-đơ cái kéo, cái lược, cái dao... đều quá nhỏ nhắn nhu mì. Nhất là cái bình xịt nước hoa có đính quả bóng cao-su. Địa bàn hoạt động lại chỉ thu hẹp ở một cái đầu người không lớn hơn một trái dừa lửa. Tôi nghĩ rằng ông đáng phải cầm một cái cày, lật trở những tảng đất lớn hay quất bò cho sải giữa một cánh đồng rộng.

Thợ Thừa mở tráp thân trọng bày những dụng cụ ra: bàn chải, lược, gương soi... Cái dao cạo ông đút trên túi áo trước ngực. A! mãi đến bây giờ tôi mới để ý rằng cái áo có đến ba túi. Bình thường người nhà quê thời đó chỉ may một túi đủ để bỏ đồ vặt. May hai túi thì trông đẹp đẽ cân phân nhưng sợ tốn vải. Nhiều cái áo trơn tuột không có nổi một cái túi nào.

Lũ trẻ nhỏ đánh hơi thật mau, chạy tới đứng thành vòng tròn. Người lớn cũng rải rác tụ họp lại. Khi tấm vải choàng vừa quàng vào cổ tôi thì đã có một bàn tay nào đó sờ mó vào cái bóng cao-su rồi bất ngờ bóp xịt ra một vòi nước. Thợ Thừa la lên: «Ê! Đừng có rờ phá chớ bà con. Để cho người ta làm ăn chớ». Người bị bắt quả tang cười hì hì. Một người lục lọi loảng xoảng bộ đồ nghề của ông rồi hỏi:

— Sao không thấy cái dao cạo hở ông thợ? Cho mình mượn cạo đỡ bộ râu.

Thợ Thừa đằng hắng giả bộ không nghe, chăm chú bóp tông-đơ rào rào bên tai tôi.

Cha tôi ngồi canh chừng một bên. Ông luôn miệng nhắc:

— Ủi phía này thêm một đường nữa... Coi chừng, có cái chớn đó... Tóc trên mỏ ác để dày một chút. Thằng này lớn mà đầu còn cứt trâu.

Khi thợ Thừa lấy kéo vanh đường tóc trước trán thì cha tôi ngăn lại:

— Đưa kéo đây tôi vanh cho. Phải đi cho đúng vành bán nguyệt.

Sau mái tóc « vành bán nguyệt », cha tôi lo chọn một cái tên cho tôi. Tôi không biết gì về sự chọn lựa âm thầm đó, chỉ mãi sau này khi tôi khá lớn ông mới kể lại cho tôi nghe:

— Tao phải lật máy cuốn sách. Lựa hoài mà không vừa ý. Đem bàn với Bác mày thì ổng cứ nói trớt, đặt tên gì cũng được. Tao đem bàn với ông Trợ Phương. Ông Trợ Phương bày: Đừng lựa tên trong sử xưa mà nên lấy tên danh nhân thời nay. Ý đó cũng hay. Tao mở cuốn Lịch-sử Cách-mạng Tân-hợi lựa cái tên tốt cho mày.

À, ra khó khăn thế! Hèn chi khi cha tôi khai báo gì đó với thày giáo xong cúi chào ra về, thầy nhìn tôi nói «Phan Tử Văn, lại ngồi bàn đầu », thì tôi cứ mở to mắt đứng yên tưởng thầy sai bảo trò nào. Ở nhà, tôi là thằng Chỉnh mà. Xóm tôi có đến bốn đứa tên Chỉnh. Ai lười tìm tên thì cử đặt bừa là Bé, là Chỉnh, — chút chỉnh, đồng nghĩa với bé, — là Cứt, là Đái, là Chó-con hoặc lấy tuổi Tý, Ngọ, Thìn, Tỵ mà đặt cho con. Ý hẳn cha tôi hâm mộ ông Tôn Văn hay ông Tống Tử Văn, tôi nghĩ vậy. Hú vía! Nếu không có ông Trợ Phương làm cố vấn, cha tôi sẽ cứ loay hoay giữa rừng danh nhân thời cổ và biết đâu nếu nổi hứng ông chọn nhằm tên Tào Tháo chẳng hạn thì thật phiền cho tôi suốt đời.

Sau việc đặt tên và dẫn tới trường, cha tôi giao trách nhiệm lại cho Bác, lặng lẽ rút lui. Bác dạy đánh vần, Bác tập cầm viết.

Hôm ông bán sách dạo gánh hai bồ sách to tướng đi nghênh ngang rao trong xóm Bác kêu lại lựa mua một cuốn sách vỡ lòng. Độ ấy, hàng năm cứ vào quãng tháng Bảy tháng Tám là có hai ba người nói giọng trọ trẹ mặc quần nâu, đi giày bố trắng răng đen, gánh mỗi người một đôi bồ trong đựng toàn sách. Đi khắp cả xóm họa mới có vài nhà kêu lại, bắt tháo ra đưa coi đủ mặt sách: Kim cổ kỳ quan, Nhị độ mai, Tuyết hồng lệ sử... Có nhà mua một cuốn, có nhà hỏi chơi rồi thôi. Còn bao nhiêu nhà khác thì xầm xì chỉ trỏ mỗi khi họ đi qua:

— Nghệ an, Hà-tĩnh gì đó. Bận cái quần gì rộng huỵch.

— Mấy chả đi buôn bán mà mang giày nữa chớ.

— Ngó ngon không? Vai gánh rao mà tay cầm quạt giấy quạt phạch phạch. Y như ông Khổng Minh!

Một trong hai ba ông hàng sách phiêu lưu đó đã để lại cho tôi một cuốn sách vỡ lòng mỏng chừng mười tờ giấy. Vần xuôi xếp đâu ba trang và vần ngược cũng gần như thế. Phần sau là những bài dạy luân lý viết theo thể thơ lục bát. Phần này thú vị nhất. Sau mươi phút đọc ngọng nghịu những âm kỳ quái như Oach, Oanh, Uyên, Uyêt... tôi lật sang phần luân lý oai oái đọc thuộc lòng

Ta sinh ra ở trên đời

Trời cho tai mắt khác loài vô tri

Lọt lòng xưa chửa biết gì

Nay ta đã lớn phải suy cho rành

Nhờ ai nay mới có mình

Mẹ cha đôi đức công trình xiết bao...

Khi vào học trường nhà nước, chúng tôi phải mua mỗi đứa một cuốn «Quốc-văn giáo-khoa thư ». Sách dày, những trang đầu mỗi trang chỉ dạy có ba chữ kèm thêm hình vẽ. Bác nói:

— Bày tốn giấy vô ích.

Tôi không dám cãi lại nhưng mà thấy thích những hình cái mo, con cá rô, ông sư đội mũ, trái mãng càu. Cố nhiên là tôi chỉ thích cái hình ông già đội mũ chứ không biết ông sư là ông gì. Con ve cũng vậy, tôi chỉ biết con ve chó chứ chưa thấy con ve sầu. Nhưng có hề chi? Tôi cứ đọc và trong óc tự làm một bài dịch: NGH con Nghê là con Kỳ lân... A quả Na là trái mãng cầu... I cây Si là cây da... Ơ quả Mơ là trái gì tròn tròn...

Tôi học không siêng lắm. Mỗi buổi mai hễ thấy lũ chăn bò lùa bò đi qua con đường trước ngõ, tay xách cái lông chằm đơn sơ bằng mo tre hay mo cau trong đó có con sáo con nhồng hả cái mỏ viền vàng kêu lên chẹt chẹt vừa run rẩy đôi cánh là tôi hết muốn đi học. Lũ nhỏ thong thả ngồi cười nói trên lưng bò, lát nữa tha hồ đánh đáo đánh trống trên cánh đồng cỏ, tha hồ bắt cào cào cho chim ăn, tha hồ nhảy xuống sông tắm lội, sục sạo trong bụi hái ổi hái sim. Còn tôi thì phải ôm vở tới trường. Tôi chần chừ, đi lên nhà trên, bước xuống nhà dưới. Tiếng trống trường đánh bùm bùm chậm rãi ở bên kia sông. Bác hối sao chưa đi học. Cần gì phải nghe giải thích, cứ thấy cái mặt sụ ra là khắc biết liền. Bác loay hoay không biết nên giải quyết sao thì cha tôi hiện ra với một cái roi và một đoạn dây dừa. Cột hai khuỷu tay ra sau lưng, ông cầm một đầu dây dắt tôi ra bến đò. Chú Ba đi theo sau, tay ôm cặp sách tay cầm roi. Chú biết bệnh mê chăn bò của tôi nên thấy có ai đi ngược lại thì chú nhịp roi vào đít tôi rồi nói:

— Thá dọ... Dí dọ... Coi, cái con bò này trái chứng dữ.

Bác ra đứng ở cổng ngõ bùi ngùi nhìn theo. Khi tôi lầm lỗi, Bác gầm hét dữ dội nhưng không mấy khi đánh đòn. Hễ tôi bỏ nhà đi bắt chuồn chuồn buổi trưa thì Bác kêu về cột chân đóng trăn vào xà nhà. Tôi ngồi bệt dưới đất, một chân giơ hỏng lên. Gió thổi hiu hiu, tôi ngồi gục xuống một lát rồi nằm ngã lăn quay đánh một giấc.

Sự học của tôi cũng khá gian nan, phải mầy mò tìm học lấy một mình không ai giúp đỡ. Bài toán chia làm tôi khổ sở nhiều nhất. Thầy giáo không hề dạy. Thầy một mình phụ trách tới hai lớp, Đồng-ấu và Dự-bị, nhưng tuy nói hai lớp mà có đến mươi trình độ khác nhau. Đứa này vào học ngày này, đứa kia vào học ngày kia, kiến thức so le và thầy không có cách nào tiện cắt cho nó bằng nhau. Tôi làm sai liên miên những bài toán chia và thầy cứ đánh bẹt liên miên một đường gạch xéo, ngoáy một con số không rồi thản nhiên ném vở trả lại, làm như bao nhiêu cử chỉ đó đủ soi sáng trí não cho tôi. Tôi nhìn bài toán làm đúng của thằng Nguyễn Chư, bị mê hoặc bởi cách sắp xếp kỳ diệu theo hình tam giác của những hàng số bên dãy số thừa và tôi đau đớn ngấm ngầm. Những con số hớn hở trong sự thành công của chúng, chắc nịch trong thứ tự sắp xếp không thể lay chuyển đó. Nguyễn Chư đang mỉm nửa nụ cười, cái môi thâm đen làm cho hàm răng thêm trắng.

Bằng cách nào mà sau vài tháng thất bại liên tiếp như thế tôi tìm ra được bí quyết để làm đúng bài toán chia, tôi không còn nhớ nữa. Những đứa bạn của tôi thì còn đau khổ hơn. Ngoài dăm đứa xuất sắc, số còn lại tha hồ bơi lội trong sự dốt nát mù mịt của chúng. Thật may mắn lắm tôi mới vượt qua được những vũng lội nguy hiểm đó.

Tôi học hết lớp Năm rồi lên lớp Tư. Để tưởng thưởng thành tích, Bác thay cái mũ kaki vàng bằng cái mũ điêng điêng trắng. Đó là thứ mũ xứng đáng để được ao ước. Những người sang trọng mời được đội mũ điêng điêng đánh phấn trắng. Lấy ngón tay ấn vào vành mũ, trái mũ thì nó lún xuống rồi bật trở ra y nguyên. Tôi áp dụng lối thử để hãnh diện vì cái mũ của mình và để cái mũ hãnh diện. Trái mũ lún xuống theo ngón tay ấn của tôi và khi ngón tay thả ra thì, ngạc nhiên chưa, nó vẫn cứ nằm lún mãi đó không chịu bật lên. Thì ra điêng điêng giả. Đã thế, vành mũ lại bọc da nên dẫu đánh phấn trắng cái mũ vẫn không đẹp nổi với cái vành của nó. Bác tôi tính vốn kiệm ước nên đã chọn được một cái vành mũ «khó lòng mà sờn, dùng mãi không rách» đó. Tính kiệm ước làm Bác bị hiểu lầm, bị chê là hà tiện. Không biết xài phí không hay cho tiền ai nhưng đồng thời cũng không hề gian tham của ai. Bác là tượng trưng cho sự công bình, sự sòng phẳng thật thà. Tôi tưởng đó đã là một nhân cách tốt rồi. Tôi thấy nhiều người ăn tiêu rộng rãi, rộng rãi bằng tiền của mình thì ít mà bằng tiền của người khác thì nhiều hơn, và khi túng thiếu thì họ sẵn sàng vay mượn rồi ỳ không trả. Nhưng họ vẫn lớn tiếng phê bình người bị họ lường gạt là hà tiện. Bác nhận chịu tĩnh từ hà tiện ngay từ miệng những người trong họ của mình nữa, dù rằng trong họ hàng hễ ai gặp khó khăn về tài chánh là đều cầu cứu nơi Bác. Bác không bao giờ từ chối sự cho mượn miễn là bảo đảm việc trả lại. Hồi trẻ Bác làm việc cần mẫn mới tạo nên cái cơ nghiệp ngày nay, không nhận được ân huệ từ đâu đến, mỗi đồng bạc là kết tinh của những giọt mồ hôi thì sự coi quí đồng tiền của mình không có gì khó hiểu. Những ngày mưa dầm vắng khách khứa, Bác hay ngồi một mình trước bàn chậm rãi xếp những tờ giấy bạc theo từng loại đếm đi đếm lại nhiều lần rồi lấy dây buộc, rồi lại đếm, lại buộc. Tiếng cánh cửa tủ mở đánh kẹt, tiếng hộc bàn kéo ra đẩy vào, tiếng chiếc chìa khóa quay lách cách trong ổ khóa... những tiếng đó vang trong tâm hồn thơ ấu của tôi, tượng trưng cho sự giàu có, sự an ổn bình lặng. Càng, về sau này tôi càng không gặp cái cảm tưởng đó nữa. Những người bạn, người quen của tôi mở tủ khóa tủ trong đó chồng chất những đống giấy bạc những bó vàng lá nhưng tôi chưa tìm thấy được trên khuôn mặt của họ cái ánh sáng rực rỡ bình yên mà tôi đã nhìn thấy trên khuôn mặt Bác tôi ngày xưa. Cái cơ nghiệp của Bác mỗi đều do bàn tay Bác làm ra, không một mảnh nhỏ nào là không in dấu vết của sự chăm chút, trìu mến, âu lo của Bác. Đám ruộng này mua của chủ Xường Páo làm giấy chồng tiền ngày hai mươi tháng mười năm Dậu. Mưa như cầm chỉnh mà đổ, nước lụt ngập phả vườn. Thằng Của lập tờ đoạn mãi. Tiếc đám ruộng tốt mà phải mua, chớ mua chi đám ruộng đã gặt rồi nằm trơ rạ, không ăn được mùa huê. Đám ruộng có hai chỗ lở bờ, bùn nhẹt như vũng trâu nằm. Đám Gò Dài mua của Hương Quy, chậm chừng hai giờ đồng hồ thì mua hụt. Phó Lựu ở tận Đồng Nghệ bọc xuống bốn mươi lăm đồng bạc, thứ bạc đồng hai mươi bảy gờ-ram lận trong cái ruột tượng cột ngang thắt lưng. Phó Lựu phi ngựa xuống tới nhà Hương Quy thì đúng lúc Hương Quy đã «tự ký», vợ Hương Quy đã điểm chỉ vào tờ tín chỉ màu vàng nghệ có in hình nổi «bà Đầm» và hình chìm chữ Indochine. Phó Lựu bứt đầu bứt tai đổ tại con ngựa bữa nay sa dái. Đám ruộng Đá Hàn từ ngày nhà nước đắp đường xe lửa cứ qua một cơn lụt là cát bồi phía góc, năm nào cũng phải phụ với nhà rẽ ba giạ lúa để nó cào cát.

Khi tôi lên tám, chín tuổi, nhằm những ngày nghỉ học và đúng giữa ngày mùa, Bác hay dắt đi coi gặt. Vào ngày mùa, trong suốt cả tháng Bác phải huy động hết cả bà con đi coi gặt giùm, cứ hai người coi cho một đám. Khi gặt rộ quá thiếu người thì mỗi người coi một đám. Mờ sáng, bàn ăn đầy người ngồi. Chú Ba dọn cơm và dọn cháo, sắp đầy cả bàn như ngày giỗ. Ăn cháo thì được kèm với mực khô nướng. Mỗi lần coi gặt Bác cầm cái ba-toong đi trước, gạt những đầu lúa nằm phủ lên bờ ruộng. Tôi thì thích giẫm lén đầu lúa cho êm chân, bởi vì đi mãi trên những con đường ruộng mấp mô lồi lõm chán lắm. Đã thế, khi qua những chỗ lội, tôi đã phải lật đật nhảy thật mau vì sợ đỉa bám. Cứ nhảy đại, dưới đó là bùn hay là chà bổi, là que con hay là gai cũng mặc kệ. Bước được lên bờ là vội xoay bàn chân kiểm tra đủ mặt. Khi tới ruộng nhà, Bác bỏ tá điền thợ gặt đứng đó, đi rảo quanh ruộng một vòng. Việc đi như vậy không phải là không khó khăn phiền phức vì bờ ruộng hẹp mà người gặt người mót chia nhau ngồi đứng choán hết. Bác giảng cho tôi nghe rằng đi một vòng như vây để coi có chỗ nào bị gặt trộm không. Khi lúa chín, tá điền phải hàng đêm đi rảo canh chừng đám ruộng của mình phòng ngừa người gặt trộm, mặc dù để làm việc đó đã có ban Tuần đồng cho mỗi cánh đồng. Sau này tôi nghĩ thêm rằng ngoài việc thanh sát, Bác còn đi tìm cái thú thưởng thức quyền năng của mình. Không có ai sung sướng và đau khổ bởi riêng mình. Sướng và khổ đều do sự so sánh với những người xung quanh.

Nhờ theo Bác đi coi gặt, tôi quen những người tá điền và trong khối óc ngây thơ của tôi mỗi người làm tôi liên tưởng đến một vật hay một con vật. Sự liên tưởng đó giúp tôi phân biệt được người này với người khác và dường như nhờ đó mà tôi có cảm tình với họ hơn. Anh Học ở Đồng Hòa-chiểu, mũi đỏ và dài, khuôn mặt dài, làm đàn ông mà trên đầu có búi tóc bới như đàn bà. Miệng nhai trầu không ngớt, có cả cục thuốc nhét cộm ở dưới môi phía bên mặt. Không hiểu sao hễ nhìn thấy anh là tôi tưởng thấy một cái gì giống hình cái ve rượu. Mỗi lần anh lên mời Bác tôi đi coi gặt, anh đem theo cái ve rượu bằng sứ cột trong khăn gói, nhờ tôi lấy cho mượn cái ly và cái khay. Anh mời Bác tôi ngồi lại, rót rượu rồi mới thưa ngày gặt. Bác tôi nhận lời, đổ rượu trả vào ve, không uống. Anh Học có đến hai vợ. Lũ con của người vợ cả giống khuôn mặt anh, con của người vợ lẽ thì giống mẹ. Mẹ anh đã già, gầy và đen, lúc nào cũng ngồi trấn ở ngay cửa nhà ngang để ngoáy trầu, để đuổi gà và để ngăn không cho người thợ gặt xồng xộc bước vào nhà. Mẹ vợ của anh thì tóc bạc, khổ người thấp nhỏ như một đứa trẻ con, đi lại không ngớt ở ngoài sân, hết quét xoẹt xoẹt đến phân phát rổ sảo, thúng, nia và thu hồi rổ sảo, thúng, nia.

Ông Sách làm đám ruộng Bầu Nga, mặt tròn, có hai chòm râu mép và một chòm ở cằm. Khi ông cười, — tính ông hay cười, bạ nói gi cũng cười, — tôi thấy ông giống như ông Thổ Địa người ta vẫn vẽ treo ở bàn thờ.

Mỗi lần nhìn bà Truyền tôi nghĩ đến một củ khoai môn luộc. Sau này lớn lên tôi tự giải thích: có lẽ màu da của bà làm tôi liên tưởng đến màu da của một củ khoai môn luộc chăng? Da bà đen dòn pha màu tím. Có thể thêm một Ịý do: trước nhà bà có đến ba, bốn con mương nước dài trồng toàn khoai môn nên tôi càng thêm dễ liên tưởng chăng?

Ông Chức Nồi ở đồng Đá Hàn nhắc tôi nhớ đến con vịt. Có nét gì đó nơi miệng của ông làm tôi nghĩ đến cái miệng con vịt.

Những người tá điền đều hiền lành tử tế, tôi thương yêu như những người bạn lớn của tôi. Nhà của họ làm tôi say mê bởi vì dù nghèo đến đâu họ cũng có nhiều cây và nhiều con vật. Nhà nào cũng có chuối, cau, đu đủ, khoai môn, khoai sáp, rãnh rau. Nhiều nhà có mít, xoài, cam, bưởi, khế. Có gà trống đi cạnh gà mái và gà con, có từng đàn vịt lớn và vịt con líp chíp hơi lội dưới mương, có cào cào châu chấu ngay ở trong sân. Nước chảy róc rách ở cạnh nhà, xung quanh nhà.

Ốc bám từng chùm vào bẹ môn, cua rạm nhả bọt nước trắng xóa. Buổi chiều ễnh ương kêu ran cả đồng. Cò trắng đứng từng bày bên cạnh tôi, bên cạnh con trâu, bên cạnh người cuốc người cày như đứng với những người bạn, không biết sợ, trong khi ở nhà tôi, tôi chỉ thấy chúng bay lướt rất mau, rất cao trên lưng chừng trời. Sáo đen đậu trên lưng trâu, đậu trên sừng trâu, véo von trò chuyện.

Khi người tá điền ra lệnh khởi công thì những người thợ gặt ào ạt nhào xuống ruộng vung liềm vung hái, nắm từng bó lúa lớn cắt xoạt một tiếng gọn rồi lại vung liềm đi tới. Lũ con mót cũng lao nhao, chụp bên này bứt bên kia và những ngọn roi của tá điền, của tuần đồng tha hồ bổ xuống tron trót. Tôi đứng đó cho có vị, say mê nhìn những thân người vạm vỡ cúi xuống ngẩng dậy cắt lúa rào rào, hoặc ngắt những cọng rạ đặt vào miệng thổi, cảm nghe mùi thơm mát của nhựa cây. Tôi thích ngắm những bụi rau chóc đơm bông tím mà Bác ghét bởi vì nó choán chỗ của lúa. Tôi đứng nhìn những trổ nước chảy nơi đó có con rệp cây bám mình vào một cọng cỏ. Mùi thơm của lúa, mùi nồng của bùn làm tôi say sưa, cái cảm giác say sưa bắt đầu có từ hồi sáng khi ngồi ở nhà tá điền ngửi mùi phân bò trộn với nước trét sân. Buổi gặt thường kéo dài đến trưa và khi thợ gặt bắt đầu bỏ lúa đem chất lên bờ thì là lúc Bác bận rộn hơn hết. Phải nhìn bên này ngó bên kia, chỉ trỏ la lối bởi vì đây là lúc mà con mót hoạt động hơn hết. Họ tìm mọi cách để ăn cắp lúa bó, hoặc là lén ôm rơm trải lên, hoặc là giậm cho bó lúa ngập xuống nước, hoặc là xách luôn một bó cắt phăng dây rồi bỏ gọn vào thúng. Đợt lúa gánh về sân đầu tiên, tôi có bổn phận đi theo, còn Bác thì đi về với gánh lúa chót.

Nhà tá điền dọn cơm cho ăn vào khoảng hai, ba giờ chiều. Tôi thường để ý thấy rằng ông tá điền nào cũng thích ăn thịt mỡ, từng miếng mỡ dày dòn tan dưới răng chảy ướt láng môi. Lúa đạp xong, -sảo cho sạch rơm, đong công thợ rồi bắt đầu hạo. Có bữa công việc xong xuôi thì trời đã tối mịt. Mùa lúa tháng Tám sân gặt bị mưa, có khi đến khuya mới về tới nhà. Tá điền tử tế thì đốt đuốc bã mía cầm đưa chúng tôi đi. Tôi nghe người ta nói rắn hổ hay bò theo những tàn bã mía chảy rơi xuống đất nên nhìn ở hai bên đường đen mò thấy chỗ nào như cũng có đầu rắn hổ. Có khi thì chúng tôi đi theo những người thợ gặt phải về mãi tận Bình-hòa hay Mỹ-long. Gặp trời mưa đêm xối xả mà phải cổi quần áo lò dò lội qua sông, đi trong đêm tối không đèn cứ phải giậm bừa trước mặt bất kể là gai tre, là đống phân trâu hay là con rắn đang nằm khoanh, những nỗi cực nhọc đó Bác không hề than thở. Quả thật là mỗi mảnh nhỏ cơ nghiệp cũng đều do công lao của Bác. Phá nhà cũ xây nhà mới, phải đi tận mãi Củng-sơn chọn mua gỗ kiền kiền. Nạp thuế kiểm lâm rồi chuyên chở từng cây súc lớn về bằng đường ô-tô. Câu chuyện gặp Tây kiểm lâm ngồi ăn bánh chả ngốn từng búng rau ghém ngon lành y như người An-nam mình, cho đến hồi già thỉnh thoảng có dịp là Bác kể:

— Ai cũng nói Tây nó kén ăn. Hồi đi làm thuế Kiểm-lâm, tao thấy tận mắt thằng Tây kiểm lâm...

Những khúc súc to đó, Bác kêu thợ mộc đóng trại cưa sả ngày này qua ngày khác. Đòn tay, rui, mè, ván rầm... cứ lần lượt do lưỡi cưa dài chậm rãi cưa ra, nằm sắp từng đống cao. Tiếng lưỡi cưa sèn sẹt cả ngày, rồi sau đó là tiếng dùi đục đập chan chát. Thợ nề kế tiếp theo thợ mộc, giã vôi trộn hồ. Chú Ba đi chặt gánh về từng gánh dây tơ hồng giã ra lấy nhựa pha với nước đường trộn hồ cho chắc. Đào móng xây tường, làm giàn, chuyên gạch, tưới gạch... thợ làm tới tấp và Bác hiện diện khắp nơi, bắt phá một đoạn tường xay nghiêng, bắt sửa một khung cửa đặt lệch. Tiếng nói của Bác vừa inh ỏi ở góc này thì đã thấy chân Bác bước huỳnh huỵch ở góc kia, đầu đội một cái mũ kaki vành sụp xuống tai.

Cuối năm lớp Tư, tôi đi thi Sơ-học Yếu- lược. Thầy giáo chuẩn bị cho học sinh phó thí, tôi tưởng không thể nào chu đáo hơn. Thầy đặt cả vinh dự, cả tương lai thầy trong kỳ xuất- quân đầu tiên này nên thầy bắt làm toán «chết thôi ». Ngày nào cũng hai bài toán đố. Nộp bài lên mà thấy thầy bệt cho hai gạch rồi vẽ một vòng tròn là cứ lặng lẽ lên nằm sấp ở chân bảng đen đợi. Khi đứa chót đã nộp bài rồi thì khoảng trống đã đầy những thân học trò nằm dài. Đứa làm đúng hai bài phải chạy lên núi bẻ roi. Mỗi kỳ làm toán như vậy thầy tiêu thụ vào khoảng mươi cái roi nhưng thầy sai bẻ «vài chục». Tôi nhiều lần được lãnh nhiệm vụ bẻ roi nên tôi biết rõ rằng đó là một công tác không phải nhẹ. Phải đưa mắt thật nhanh để chọn cành nào vừa cỡ, phải dùng hai bàn tay để trì để kéo để vặn cho đứt chứ không có dao rựa giúp sức. Phải chọn thứ cành dẻo mình để chịu đựng được sức dày dò bởi lẽ nếu thấy mới giáng xuống một phát mà đã vội gãy tiện thì tội lỗi trở về người bẻ. Tôi đã bị gai châm chảy máu tay, bị vấp đá chảy máu chân chỉ vì sự thành công về Toán ở trong lớp còn đòi hỏi những gian lao ở chỏm núi như vậy.

Khi roi đem về nộp đủ, thầy tuyên bố mỗi đứa làm sai chịu phạt năm mươi roi. Những roi đầu thong thả nghiêm trang nhưng đánh qua đứa thứ hai thì tay bắt đầu mỏi mà số người nằm đòi hỏi thì quá nhiều nên thầy lanh trí tuyên bố:

— Tao chập một lần mười cái roi. Quất năm lần là đủ năm mươi roi. Bay nghe ra chưa?

Cứ «Dạ» vung lên. Chỉ tội nghiệp cho hai thằng đầu. Càng lùi về sau, cường độ của bắp thịt càng giảm đi và đứa thứ hăm lăm coi như chỉ được phủi bụi. Bởi vì cái nền trường trát vôi, — hồi đó xi-măng hiếm lắm, chỉ cầu cống mới được dùng tới xi-măng, — học trò đi chân đất mà đã lủng lở cùng khắp nên bàn băng kê cứ gập gềnh và hễ nằm xuống đứng dậy là quần áo đen biến thành quần áo mốc.

Mỗi lần được bẻ roi, tôi về khoe với Bác, nhưng kiệm ước cả trong lời khen, Bác chỉ nghe rồi thôi. Bác gái thì thưởng bằng bốn đồng tiền điếu trái đát trái say hay trái trâm. Sung sướng nhất là khi lén nghe Bác đem khoe với các bà bạn.

Tết xong, thầy dẫn học sinh đi thi thử. Ba trường ước hẹn, trường Trung-lương, trường Ngân-sơn đi xuống Hội-phú thi với trường Tiên-châu. Y như ba đạo quân của thời kỳ Đồng-Châu liệt-quốc phó hội ăn thề. Riêng trường Trung- lương chịu thiệt hơn hết: phải đi bộ trên mười cây số. Kỳ lão Tiên-châu chịu thiệt thứ nhì: phải dọn cơm trưa cho cả hai đạo binh.

Một đoàn chừng bốn mươi học sinh tuổi trung bình mười một mười hai, mặc áo dài đen đội mũ, tay ôm giấy bút mực, đi sắp hàng đôi đi suốt năm hay mười cây số để tới trường thi, cảnh ấy làm ngạc nhiên những người đi lại trên đường. Họ đứng lại trầm trò chỉ trỏ và tôi chắc trong thâm tâm nhiều người muốn một đứa con như chúng tôi. Tách chúng tôi ra từng đứa thì có đứa thô xấu vụng về nhưng để cạnh nhau, chúng tôi chung hưởng cái Đẹp của toàn khối. Như những quả chuối trong toàn thể buồng chuối, những người lính trong toàn thể một đoàn quân. Sự hãnh diện làm chúng tôi đi không biết mệt. Vả lại, đối với đa số, đây là dịp đầu tiên được thấy những cảnh lạ. Cái nhà thờ Mằng Lăng đó, đứa nào cũng ngước mắt lên nhìn gác chuông cao, mải ngó đến quên bước và bị đứa sau đạp nhằm gót, bị đẩy ào tới, chụp vào đứa trước, ngã lộn hàng ngũ. Dãy cây dứa mọc dọc con mương nước chạy băng ngang cánh đồng Diêm-điền mang những trái màu đỏ hình thù kỳ quái. Những bầy vịt đông vô kể đứng cạnh nhau tràn cả một bãi sông, hiếng mắt lên nhìn chúng tôi, miệng la cạp cạp. Chúng nó giống nhau như một sự bắt chước cố ý để đùa nghịch.

Ba ông thầy gặp nhau, khoe nhau những đứa học trò giỏi của mình như lái gà khoe gà đá. Học trò kính cẩn và tò mò nhìn mặt hai ông thầy của hai trường kia. Ngẫu nhiên mà có hai ông mắt lé: thầy Tư lé của trường Trung -lương và thầy Châu lé của trường Tiên-châu.

Thí sinh thi ba môn. Đủ để mà hồi hộp và lo sợ. Bởi vì kết quả tốt không hẳn đã được thưởng trong khi kết quả xấu thì chắc chắn có một bó roi còn dư dựng ở góc lớp để dành sẵn đó.

Thi xong thì mặt trời còn ngang cây sào, học trò lật đật sắp hàng lên đường trở về. Lần này hàng ngũ không còn ngay ngắn như trước. Nhiều cặp chân kéo lết, tung bụi mù sau lưng. Buổi chia tay không được vui vì thằng Bích con ông thầy Tiên-châu làm sai tuốt cả hai bài Toán bị cha nó nện cho hai bạt tai thật lực, khóc bù lu bù loa. Thầy Trung-lương và thầy Ngân-sơn lật đật can gián, và cô giáo phải kéo con mình chạy ra sau bếp. Thật khác xa với lúc mới tới, hai thầy cho gọi “ cháu Bích đâu ra chào hai bác” và vuốt ve nựng nịu khen “cháu mặt mũi sáng sủa thông minh” khiến chúng tôi thèm thuồng số phận của nó. Toán đố thật là một món học tai ác. Giá đem bài Luận ra phẩm bình thì “ hai bác” có thể rộng rãi lời khen, bởi văn chương không có tiêu chuẩn nhất định. Ý tứ ngờ ngệch thì có thể khen là hồn nhiên, khô như bã mía thì có thể gọi là giản dị. Đằng này những bài Toán đố lại đòi hỏi những lời giải không-thể-gia-giảm-được. “Anh tài Toán đố” của trường Trung-lương là một người tên gọi Nguyễn thị Nhung. Tiếng đồn không sai, quả thật nàng trúng cả hai bài Toán đố. Nhưng khi tò mò chạy tìm coi mặt, chúng tôi thất vọng: người đẹp có cặp mắt lé như ông thầy của nàng.

Có một việc làm chúng tôi bàn tán cả mấy ngày: đó là hôm ông thợ Ngôn mang máy đến trường để chụp hình làm căn cước cho chúng tôi. Đứa nào cũng bận áo dài đen và lần lượt ra ngồi ở cái băng kê giữa sân. Ông thợ chui vào tấm vải đen phủ trên cái máy có ba chân cao. Tiếng nói vọng ra từ trong tấm vải:

— Ngước mặt lên... Mở to con mắt ra... Đừng! Đừng! Đừng nhúc nhích chớ. Coi chừng! Ngó lên cái ống kinh này... Mấy trò bốn phía đừng cười. Hư cái hình của người ta. Coi chừng! Ngậm miệng! Nghe tôi nói: Một... Hai... Ba. Rồi!

Hôm thi, Bác dẫn tôi đi. Học sinh toàn Tỉnh phải về thi tại tỉnh lỵ. Buổi chiều trước hôm thi, tôi điếng người nhận thấy rằng mình bỏ quên căn cước ở nhà. Bác phải thuê riêng một chuyến ô-tô về lấy. May kỳ thi đó tôi đỗ nên Bác không xuýt xoa vì số tiền thuê ô-tô quá cao.

Một cậu học trò mười một tuổi ở từ nhà quê ra, nhút nhát rụt rè, tay cầm thẻ căn cước đi vào phòng này đến phòng khác để qua hết kỳ thi vấn đáp, chịu sự tra vấn của các giám khảo bệ vệ uy nghi, thật là một cực hình cho tinh thần của nó. Cái không khí nghiêm khắc lạnh lùng đó như đe dọa nó, ngôi trường trở thành một thứ tu viện thiêng liêng đóng kín cửa không muốn cho nó bước vào. Bao nhiêu những kiến thức nhồi thuộc lòng trong óc cứ lẫn lộn quay cuồng, ông Mai-hắc-đế và Bố Cái đại-vương kề với sự bài tiết và phát huyết quản hồi huyết quản, nghề ruộng muối ở Lệ-uyên Tuyết-diêm nghề trồng thuốc lá ở Sơn-hòa chập chờn hư ảo bên cạnh bài “đọc thêm” địa lý âm điệu du dương “Sông cầu là bà già lão luyện, Tuy-hòa là thiếu nữ xuân xanh, Sông-cầu là chốn thừa lương, Tuy-hòa là nơi buôn bán...” Ngày chót của niên học, thầy giáo tuyên bố phát phần thưởng. Thầy ôm một chồng sách đặt lên bàn rồi cầm từng cuốn nhìn xuống lũ học trò, lựa đứa nào học giỏi, — hay là đứa nào thầy có cảm tình — kêu tên đứng dậy phát cho. Không theo bảng vị- thứ, không sắp đặt trước đứa nào sẽ được cuốn nào. Tôi chú ý nhìn một cuốn có lưng bìa xanh. Hôm trước một thằng bạn có cho tôi xem một quyển sách bìa xanh như vậy trong có in nhiều bài tập đọc lý thú. Truyện ông Lý Tịch sắc thuốc cho chị uống bị cháy râu. Bài thơ đi chợ đem theo một quan tiền mua đủ gà, nếp, trầu cau, chè, rượu. Những hình vẽ làm tôi say mê hơn. Hình vẽ ông Tô Hiến Thành mang hia đội mão, hình vẽ một đoàn người đang hì hục đẩy một tảng đá to, hình vẽ một thằng đứng giữa chia hai vỏ bứa cho hai thằng đứng hai bên. Những đứa học trò trong hình vẽ đều mặc áo dài và mang giày đi học. Người lớn thì đa số đội khăn xếp đen. Lời lẽ trao đổi đều dài dòng uyển chuyển, thật là một xã hội đẹp đẽ sang trọng khác xa hẳn xã hội tôi tiếp xúc hàng ngày. Tên cuốn sách là Quốc-văn giáo-khoa-thư lớp Sơ-đẳng. Vì lòng say mê ham muốn đó mà khi thầy cầm tới cuốn sách có lưng bìa xanh, tôi dằn lòng không nổi, nhích người chồm lại coi. Thầy trao cho tôi luôn. Tôi mừng quá cầm lấy. Nhưng vừa nhìn lên bìa sách, bao nhiêu mừng rỡ tiêu tán: không phải Quốc-văn giáo-khoa-thư mà là Hán-văn tân-giáo-khoa thư. Lật vào trang trong thì thấy chữ Nho nằm cả dãy như kiến đen. Sách Hán-văn cũng có vẽ hình nhưng mà các bài đọc thì không thể nào nhàm hơn. Cứ những câu lảm nhảm loại:

Chó giữ cửa

Ra theo cửa

Vào theo cửa

Cửa để ra vào vậy.

Lông chó bỏ mất cũng được,

Lông cừu không nên bỏ mất vậy.

Một người mắc bệnh mất ngủ tưởng có thể tìm lại được giấc ngủ ngon lành nếu cứ chịu khó đọc mãi những bài tập kiểu đó.

Đã có lần tôi nhờ một người bạn hay đi chợ Phủ ghé xuống trường Phủ mua giùm cuốn sách Quốc-văn giáo-khoa-thư lớp Sơ-đẳng mà tôi thèm muốn, nhưng nó đem về cuốn Sử-ký. Nó giải thích:

— Tại mày nói cuốn sách trong có vẽ những đồng tiền. Tao giở cuốn này thấy có vẽ mấy cái vòng tròn tròn, tưởng là đồng tiền mày nói nên tao mua liền. Thôi, trả đủ vốn lại cho tao, tao không lấy lời.

Thằng bạn này có óc lý tài đặc biệt, ai nhờ mua sách thì nó xuất tiền ra mua rồi đem về bán lại lấy lời. Lần này nó làm ăn không ra gì bởi đã hấp tấp nhìn mấy cái mộc hình tròn của lũ giặc Nam-chiếu chống quân Cao Biền mà lầm tưởng là đồng tiền. Thuở bấy giờ sách học không có bày bán bởi vì cả ở tỉnh lỵ cũng không có hiệu bán sách. Sách học thì nhà nước gởi về các trường bán lại cho học sinh. Báo chí nhà báo gởi thẳng cho người mua.

Sau năm lớp Tư, tôi bơ vơ không biết nên làm gì, nên học gì. Lũ bạn ở gần thì có đứa thi rớt, có đứa cha mẹ bắt ở nhà làm nghề. Cha tôi hồi nhỏ được cho ăn học mãi tận trường Tỉnh nhưng ham coi hát bội làm chay mà học hành chẳng ra chi. Có thể vì thế mà Bác mất lòng tin ở thiện chí và khả năng của người đi trọ học xa nhà. Vả lại đỗ được cái bằng-Sơ-học yếu-lược rồi tức là đã hơn nhiều người rồi. Mấy ông mấy bà trong xóm nói đến chữ “đỗ Yếu-lược” một cách trầm trồ như thời nay nói “đỗ cử-nhân”. Thằng Triều rủ tôi lên Phong-hậu học một ông thầy chùa nào đó chữ nghĩa giỏi lắm, dạy làm toán Frắc-xông và toán Tàu Hàn Tín điểm binh nữa. Thằng Bái thì rủ đi học chữ Nho.

Thăng Bái lớn hơn tôi đến ba bốn tuổi. Nó bắt đầu cuộc đời học sinh bằng cách ôm vở đi học một ông thầy đồ dạy chữ Nho trong làng. Thầy phóng cho hai chữ “Túc, Đa” và dạy nó “Túc là đủ, Đa là nhiều”. Nó ôm vở ngồi xếp bằng ở một góc chiếu học ra rả như cuốc kêu. Đến chiều dò bài thì Túc không còn là đủ nữa, Đa không còn là nhiều nữa mà nó đã trộn lộn tùng phèo với những chữ “Thiên trời, Địa đất, Cử cất, Tồn còn” gì đó của những đứa bạn ngồi cạnh. Thầy đồ phải trao cho nó một cây thước gỗ bắt nó gõ nhịp như người tụng kinh, cứ đọc lên một liếng là gõ xuống một cái. Cu cậu thú vị làm theo, đọc và gõ đều đặn lên ngưỡng cửa. Sau một hồi ngồi mỏi chân, cu cậu xoay người, sẵn cái ống nhổ thầy đặt ở góc tường gần đó cu cậu vừa đọc vừa gõ vào miệng ống nhổ. Nhà thầy đồ nghèo, ống nhổ làm bằng đất sét nung nên sau một hồi nhắm mắt ê a vừa tụng vừa gõ, cái miệng ống nhổ cứ mẻ lần bể lần, cuối cùng trụi lủi. Chiều lại thầy dò bài. Lần này thì Túc đủ Đa nhiều lộn với “ Tử con, Tôn cháu, Lục sáu, Tam ba”. Lại thấy cái ống nhổ trụi cả miệng mồm, tác phẩm bất ngờ của Bái, thầy giận quá nạt học trò bắt đè Bái nằm dài xuống chiếu. Bái không chịu nằm, đứng gân cổ cãi (Cha của Bái làm lý trưởng nhà giàu nên Bái được nuông chìu, sinh ra tínhh cứng đầu):

— Thầy đánh học trò mà sao bắt căng nọc nằm đánh như đánh bợm vậy?

Thầy giận quá vụt một roi mây ngang lưng Bái. Bái nhảy thót ra giữa sân, đứng quay mặt lại:

— Đ... mẹ. Đánh cái gì mà đánh đau dữ vậy? Tao không thèm học nữa.

Vừa nói vừa chạy tuốt về nhà, bỏ vở bỏ nón không thèm trở lại lấy. Nhằm lúc đó trường nhà nước mở, cha nó cho đi học quốc-ngữ.

Đầu mùa lúa tháng Tám năm đó đang vụ nghỉ Hè, tôi lại theo Bác đi coi gặt. Đến nhà tá điền, Bác gặp bạn, ông Chánh Năm. Câu chuyện giữa người lớn thường con nít không ưa nghe nên tôi để mặc Bác và ông Chánh nói, tôi cứ say sưa nhìn ra cái vườn quá nhiều cây trái, cây chuối đứng chen với cây bưởi, cây cau soi bóng xuống con mương nước. Đến một lúc nào đó, hình như câu chuyện đang đề cập đến tôi bởi tôi nghe lỏng bỏng những tiếng: trường giáo... thi đỗ... học... Chợt ông Chánh nói to lên:

— Nè, bữa nào qua ở bên tao học nghe không? Tao có thằng con cũng bằng tuổi mày, năm nay lên lớp Ba. Qua ở bên tao, hai đứa đi học có bạn.

Tôi sống cuộc đời học sinh ở trọ từ mùa khai giảng năm đó.