Chương 3
NHÀ ÔNG CHÁNH NẰM Ở NGOẠI VI CỦA Phủ lỵ nên có vườn cây, có đất thổ trồng bắp, có bờ tre, có ao, có ruộng lúa. Những buổi chiều nghe tiếng ếch nhái kêu, nhớ nhà vô cùng, cả ngày chỉ vỏn vẹn ba bữa ăn, không được quà này bánh nọ, tôi có cảm tưởng những đứa con nít ở đây đã trở thành người lớn hết. Êm đềm hơn cả là những đêm xúm xít ngồi nghe thằng Gần, —người ở của ông Chánh, — kể chuyện ma và chuyện đi cắm câu, đi gài bẫy. Nó bắt được nhiều thứ chim; từ con chào mào đỏ đít đến con két lòng xanh, con nào cũng vặt lông mổ ruột ướp nước mắm hành tiêu rồi kẹp vào kẹp tre đem nướng. Kể cả bìm bịp và quạ. Ở trên chái bếp nó gác đủ thứ bẫy. Bẫy chim quành quạch thì chỗ này cắm trái mảnh bát chín màu đỏ, chỗ kia chim đậu và nó thò cái cổ qua khoảng trống này. Bẫy cuốc thì chỗ này cột con châu chấu cho nằm ngửa mặt lên trời cựa quậy râu, càng để con cuốc trông thấy mà nhảy lại. Mổ xuống một cái là sợi dây đã thòng lọng ngang cổ. Bẫy kia thì phải khoét lỗ xuống đất, rải lúa vào và dọn một con đường cho sạch để dụ dỗ con chim đi. Thằng Gần nhà nghèo, cha mẹ cho đi ở thuê chăn bò cho người ta từ nhỏ, không có được một ngày ôm vở tới trường. Lề lối sinh hoạt của nó trung thành với đồng quê nơi nó sống, mang bản sắc của ruộng lúa, soi bắp, đám mía. Nó làm việc như tổ tiên nó đã làm việc, cũng cái giỏ cỏ như thế và cái liềm cắt cỏ không thay đổi. Tôi chưa gặp ai có điệu nói quê mùa chân thực mà hấp dẫn kỳ diệu như nó. Mỗi buổi tối khi nó ngồi kể chuyện ma hay chuyện gài bẫy bắn ná là chúng tôi quây quần xúm xít xung quanh lắng tai nghe, đứa nào cũng dành ngồi sán lại cho gần nó hơn, đôi mắt và cái miệng như treo lên. Nó mím môi, nheo mắt, giơ ngón tay lên, khoác bàn tay qua, ngồi chồm tới... mỗi lần câu chuyện đến hồi gay cấn:
— Có lần một con cuốc đít vàng, mập trời ơi là mập từ bụi tre xăm xúi chạy ra. “Nó” thấy con châu chấu của tao rồi mà. Sáu cái cẳng chổng lên trời múa kiểu đó thì cuốc nào mà chịu nổi. Nhưng bất đồ nó đứng khựng lại. Ngó bốn phía. Tao ngồi rình trong bụi cò ke, nín thở. Mà ngu chưa, tao sợ nó thấy tao, tao lại nhắm con mắt lại. Trời ơi, ngu ơi là ngu...
Những lúc nó kể lại cách nấu xôi cuốc mới tài tình. Nó nói làm sao mà tôi cứ tưởng như đang thấy nó nhổ lông, thấy nó cầm trên tay con cuốc trắng mập, thấy nó chặt sả ra từng miếng. Rồi như nghe rõ tiếng dao của nó bằm thịt trên thớt, tiếng mỡ sôi trong chảo, mùi củ hành hạt tiêu nước mắm bốc lên từ những miếng thịt đang chín lần trong chảo. Rồi cho xôi trộn vào, rồi mỡ làm mướt những hạt xôi, rồi mùi thơm mùi thơm mùi thơm... Đứa nào cũng nuốt nước miếng ừng ực và thằng Gần cười ồ ồ chỉ vào cổ của mỗi đứa:
— Đó! Bay thấy không? Tao mới nói mà bay đã lật đật nuốt nước miếng rồi. Huống chi mà có xôi cuốc thiệt ở đây. Thôi để bữa nào tao gáng bắt cho được một con. Ở bụi tre ông Câu Diễn có hai con cứ « tu qua tu qua cuốc cuốc » hoài, tao nghe ngứa lỗ tai quá mà bắt chưa được.
Ngoài những câu chuyện của thằng Gần, cái thú của tôi là chạy theo thằng Hưng, — con ông Chánh, — qua nhà bà Tú là cô nó thượng lên cây ổi hái ăn tùy thích. Bà Tú mắt kém nên có nhiều khi đi qua đi lại dưới chân cây ổi mà không hề biết có hai đứa tôi ngồi im thin thít trên đó. Có bữa Hưng lẻn ăn cắp bánh bột đậu hay chuối khô bà Tú bày phơi giữa sân rồi thót lên cây ổi chia cho tôi một phần. Bà Tú già mà không con nên bà có dư thì giờ để nắn những cái bánh bột đậu thành hình củ tỏi, thành hình con sâu có khắc có rãnh trên mình. Nếu cái bánh nhu mì một chút, nhũn nhặn mang hình một cái khuôn tròn hay chữ nhật thông thường thì tôi chắc sự tàn phá của chúng tôi sẽ ít quyết liệt hơn. Đằng này chúng làm đỏm một cách ồn ào dễ ghét và chúng tôi có bổn phận phải trị tội cho đáng với sự khiêu khích đó. Nhưng sợ bà Tú thấy mất dấu, Hưng sắp xếp lại những cái bánh còn sống sót, che lấp khoảng trống của cái bánh vừa vắng mặt. Mỗi lần ăn cắp chuối khô, sự dàn xếp ít công phu hơn. Nia chuối thì to, số miếng chuối thì nhiều nên cứ nhón lấy chỗ này một miếng chỗ kia một miếng rồi xê xích chút ít mấy miếng ở gần là có thể coi như tạm ổn. Đôi khi sự cẩu thả đó khiến cho lũ quạ bị nghi oan:
— Mồ tổ cha mày, mấy con quạ quỉ. Tao mới nghe « quạ quạ», lật đật chạy ra liền mà cũng không kịp. Mày bay qua xớt hết mấy miếng chuối khô của tao phơi. Coi chừng có bữa tao xáng đá gãy cánh. Mồ tổ cha bay.
Hưng và tôi ngồi im trên chạng cây ổi, rụt cổ vừa ôm bụng nín cười. Đôi khi ở từ nơi sào huyệt đó, chúng tôi bất ngờ được nghe bà Tú van vái cầu khẩn hay nói chuyên tay đôi với một nhân vật khuất mặt nào, tay cầm đôi đũa gắp trở những miếng chuối hay miếng mứt, ở ngay dưới chân của chúng tôi:
— Lạy Thánh Thần Trời Phật ở trên đầu trên cổ... cho kỳ bông này đừng có sâu sia... Con mẹ Hương Bản mượn năm giạ lúa hôm tháng Ba... bây giờ cũng chưa trả... Nó muốn gạt luôn... ai cũng nói vậy... Chó đâu chó sủa lỗ không... Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày...
Khi cùng ăn với Hưng, tôi thấy những trái ổi, những miếng chuối ngon lành lạ. Hàm răng cắn vào cái chỏm xanh bóng mơn mởn đó, tan dòn và nước ổi rịn ra vừa chua vừa ngọt vừa thơm. Tôi nghĩ rằng chính có nhìn Hưng cắn ngon lành và say mê những miếng ổi mà tôi thấy ngon thêm. Những cây ổi! Đó là niềm vui bất tận của trẻ con, lúc nào cũng dành cho trẻ con những sự lục lọi, khám phá, cũng cho chúng những sự bất ngờ dù nhỏ mọn. Những loại trái cây khác đều đòi hỏi điều kiện: buồng chuối quá cao, trái mít, trái đu đủ quá lớn, trái mãng cầu trái xa-cu-chê phải giú mới ăn được, trái cam quá sang trọng... Chỉ có trái ổi là vừa tầm của đứa trẻ. Trái mọc chi chít, quanh năm gần như chẳng mấy khi vắng trái, trái chia nhau chín ngày nào cũng có trái ăn được, những trái mọc dưới thấp mặc sức mà nhận những vết móng tay bấm dọc bấm ngang, nhiều khi chưa kịp chua đã bị một bàn tay thiếu kiên nhẫn ngắt mất. Thân ổi mình dẻo chịu đựng cho trẻ con chuyền qua níu lại. Da ổi sạch nhẵn trơn tru, trẻ con thích leo lên ngồi để tưởng tượng mình là những con chim lớn. Mùi lá ổi thơm, khi nào buồn tay có thể ngắt một lá vò trong ngón tay để lên mũi ngửi. Những cây ổi thật đã làm vui những ngày đầu tiên xa nhà và tôi cảm ơn Hưng đã cho tôi cái thú vị thưởng thức cuộc sống.
Mùa Đông năm đó mẹ tôi đau nặng. Nhằm kỳ chủ nhật tôi ở nhà trọ về rồi tiếp theo lụt to không đi học được. Một buổi chiều Bác gái chạy kêu kiếm tôi rồi dắt tôi đi rón rén lại gần giường mẹ tôi nằm. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi nghe tiếng nói nhỏ của mẹ:
— Con ơi, lại đây!
Tôi « Dạ », lại gần. Bàn tay mẹ vuốt lên đầu tôi nhiều lần:
— Con ở lại với Bác... Gắng học hành...
Tiếng mẹ khóc nấc. Sau đó mẹ quay sang Bác gái:
— Chị! Nhờ chị thương giùm cháu. Em chắc...
Bác gái rầy:
— Cứ nói tầm bậy. Uống thuốc đi.
— Em biết trong mình của em mà.
Khuya hôm đó mẹ tôi mất.
Trong đời tôi chỉ có một dịp tôi được tỏ lòng thương mẹ. Nguyên làng tôi có một con sông chảy qua và theo lời truyền miệng của người trong xóm thì những đêm mưa to gió lớn, «Ma da», — linh hồn những người chết đuối, — hay kêu khóc trong canh khuya. Có người nói rằng đã gặp Ma-da mình tròn trùng trục da đen thui và nhớt. Có người nói Ma ngồi từng đống trên bãi cát, có người nói Ma leo lên sõng rồi nhảy xuống nước chùm chũm. Lòng tin nơi má quái được thúc đẩy bởi sự chứng kiến những xác chết thỉnh thoảng trôi lềnh bềnh trên dòng sông. Nhất là vào mùa mưa lụt nước nguồn chảy ào ạt từ miệt Cà-lố chảy băng băng tràn khắp xóm khắp đồng, kéo theo nhà cửa cây cối. Vào lúc đó xác chết bị nước cuốn đi trôi thẳng ra cửa biển không mấy ai được thấy. Phải chừng ba bốn ngày sau, khi gió mưa đã tạnh nắng to trở lại, mực nước rọt xuống thì những xác người bị trôi tấp ở bờ tre bãi sậy ven sông được người ta phát giác ra, bị đẩy ra giữa dòng sông để trôi phiêu lưu theo dòng nước. Nhiều lần đi trên đò ra giữa sông, tôi được thấy những xác chương sình trôi lều bều, ở xa tưởng là xác con bò vì mình vàng cháy và no tròn. Khi xác trôi lại gần, những người ngồi trên đò la rú lên vừa bịt mũi: không phải là xác bò mà là xác người nằm sấp xuống, tóc trên đầu xõa đen một mảng. Tiếng la có xác chết trôi làm cho những nhà hai bên bờ sông vội vã cầm sào ra đứng chực ở hai bên bờ phòng khi xác có tấp vào bờ tre hay bến nước của mình thì vội vã đẩy ra cho xuôi theo dòng nước. Ngoài những xác chết xa lạ đó, còn có những người trong xóm hoặc đi tắm hoặc chèo sõng bị lật úp chết đuối. Người ta truyền rằng nếu Ma-da tìm cách dìm chết đuối được một người thì ma sẽ được đi đầu thai vì có người kia thế chân. Một hôm thằng Cược con ông lái đò tới mét giữa lớp:
— Hồi khuya Ma-da hiện. Cha tao nằm canh đò nghe tụi nó hát:
Họ Lê. Họ Nguyễn, họ Bùi
Ba họ chụm lại, anh Hai lên bờ.
Câu hát ngụ ý nói sẽ có người họ Lê, họ Nguyễn, họ Bùi bị nhận chết nay mai và Ma (tự xưng là anh Hai) sẽ được lên bờ đi đầu thai.
Tôi suy nghĩ về câu hát và cứ lo lắng bồn chồn ngày này qua ngày khác. Mẹ họ Lê và cứ năm ngày là mẹ phải xuôi đò dọc đi chợ Đồng Dài. Tôi sợ Ma-da gây trận đò chìm và dìm chết mẹ tôi. Đêm đêm nghe tiếng gọi đò tôi giật mình nhìn ra khoảng tối ngoài sân, tưởng rằng trên bãi sông vắng ẩm ướt sương đêm những con ma đang tụ họp nhau lại, rét run vì lạnh vừa bàn tính cách dìm chết người. Những buổi chiều phiên chợ Đồng Dài tan, đò dọc trở về tiếng tù và tu tu trên bến sông, lòng tôi mừng rở rộn ràng vì mẹ sắp về, mẹ đã thoát nạn. Khi nhìn dáng mẹ manh mảnh đi vào trong sân, tôi muốn chạy lại ôm mẹ mà nói:
— Mẹ ơi, con mừng vì mẹ còn sống trở về.
Mẹ tôi mất đã ghi những nét buồn sâu đậm trên tâm hồn tôi. Mẹ là cái cầu nối liền gia đình tôi với gia đình bên ngoại. Cha tôi thường không thích về bên nhà vợ vì ông ngoại là một nhà Nho nghiêm khắc ra vào lễ nghĩa mà tính cha tôi thì ham vui ưa đàn địch xướng ca. Cha tôi học đàn cò đàn nguyệt và khi có gánh hát bội hay cải lương về trình diễn thì dù trường hát ở xa bao nhiêu ông cũng đi coi cho được. Khó có thể tưởng tượng được rằng ông đã đi xe ô-tô ba mươi cây số để coi một gánh cải lương rồi vãn hát mười hai giờ khuya lại thuê xe về.
Sau này có lần cha tôi nói:
— Ổng, — chỉ ông ngoại tôi, — đối với vợ con mà cách biệt quan liêu như quan đối với dân. Lúc nào cũng phải thưa phải trình, phải đi nhẹ, phải vòng tay. Có lần tao về mừng tuổi ngày Tết với mẹ mày, cái áo dài tao bận lật đật quên gài nút cổ. Ổng chỉ cái cổ áo, hỏi tao:
— Cái cổ của mày có phết vàng bạc hay sao mà phải để hở cho người ta ngó thấy?
Cung, cách đó tao làm sao chịu nổi? Mấy thằng cậu của mày cũng ớn luôn.
Tôi không nghĩ vậy. Tôi thấy cậu Sáu, cậu Tám, dì Bảy cho dù khi lâm vào cảnh làm ăn thất bại túng thiếu nhất cũng vẫn còn giữ cái cốt cách lễ nghĩa.
Nhà ông ngoại là cả một dinh cơ rộng lớn, nhà trên, nhà ngang, nhà cầu, lẫm lúa, nhà dưới, nhà bếp, chuồng bò, chuồng ngựa... Liên tiếp có nhiều khoảng sân rộng đế nối những ngôi nhà với nhau. Nhiều cây mít, cây xoài thả bóng mát sau dãy hàng rào dài. Những bụi bóng trang, cây trắc bách diệp, cây tùng đứng sắp hàng trước sân. Có hòn giả sơn, có chậu lớn thả bèo, có hồ trồng sen. Nhưng khi tôi lớn lên thì nhằm lúc gia đình ông ngoại bị nhiều biến cố. Cậu Sáu thông minh học giỏi ông ngoại đặt hết cả hy vọng thì bổng nhiên bị bạn bè rủ rê bỏ học đam mê cờ bạc. Ông ngoại lật đật cưới vợ cho cậu. Bên suôi là một nhà giàu và vợ cậu có nhan sắc. Thế là cậu vừa mê vợ vừa mê cờ bạc. Đánh mãi, thua mãi, vay nợ, ăn cắp đồ đạc đem bán, rốt cuộc bên vợ xin ly dị. Cậu lăn mình vào cờ bạc trọn vẹn hơn. Ông ngoại tha hồ trả nợ. Ông ngoại buồn, thất vọng sinh bệnh rồi từ trần. Đám ma không long trọng bằng đám ma của bà ngoại bởi vì khi ông ngoại vừa nằm xuống thì các người chủ nợ lật đật uà tới bắt cậu viết giấy thục ruộng hay đoạn mãi ruộng đất. Ông ngoại mất thì quyền bán ruộng đương nhiên lọt vào tay cậu và những người chủ nợ tranh nhau đến sớm để chọn những miếng ruộng tốt. Ngày trước đám ma bà ngoại, tôi nhớ có giết bò và âm công tập ngày này qua ngày khác ở trong sân. Những người âm công đầu chít khăn tang trắng, lưng thắt đai trắng theo khẩu lệnh của người chỉ huy đi đứng lui tới nhịp nhàng như một đội binh. Anh em của bà ngoại ở tận Đồng Hội đi xuống thăm, ngồi trên lưng những con ngựa ô ngựa đạm có vòng lục lạc reo nơi cổ, có lá phủ thêu màu xanh đỏ phủ lên lưng dưới bộ yên da. Nón lông chụp bạc lóng lánh trên đầu và quai nón bằng lụa màu xanh màu hồng thả tua dưới cằm. Đàn ngựa năm sáu con buộc ở bờ rào, lông đuôi dài mướt nhai cỏ rào rạo, chân thỉnh thoảng đập lốp bốp xuống mặt đá. Cả xóm tụ hội lại xem, xem ngựa và xem người. Họ Tạ của bà ngoại là một họ giàu có thế lực ở Đồng Hội.
Ông ngoại mất, cậu Sáu chỉ còn nể nang có mẹ tôi bởi mẹ tôi là chị thứ Tư. Dì Năm lấy chồng ở mãi tận Phong-thái xa xôi nên khó có dịp ngăn giữ bàn tay vung phá của cậu. Nhưng kịp đến lúc mẹ tôi mất thì cậu như diều gặp gió. Bán sạch đồ đạc trong nhà, cạy ván rầm nạy cánh cửa ra bán, rồi bán luôn nhà, luôn đất. Cái dinh cơ uy nghi ngày xưa đó bị dỡ xuống lần hồi. Rồi lần hồi những ngôi nhà nhỏ xúm xít mọc lên, tiếng người nói ồn ào, tiếng trẻ khóc và tiếng cãi nhau, tiếng gáo nước va vào thành chum, tiếng heo và tiếng gà, những thứ tiếng eo xèo cơ cực đó cắt vụn cái không gian trầm mặc uy nghi ngày xưa. Từng khoảnh sân hẹp méo mó, những hàng bắp, những giàn bí giàn mướp tạm bợ đã chia nhau cắt xén cái vuông sân rộng rãi ngày xưa. Tôi bị cắt hết một nửa không gian sinh hoạt tinh thần của mình. Ngày còn mẹ, mẹ là cái dây buộc mỏng mảnh nối liền hai khung trời bảo bọc của tôi là bên nội và bên ngoại. Mẹ mất đi, cái dây buộc không còn nữa và một khung trời cũng vỡ tan liền sau đó.