NGÀY THỨ HAI Mười người sống và một người chết-I
Sáng hôm sau, ngày 11 tháng Năm 1969, bắt đầu như tất cả các Chủ nhật bình thường khác trong đời tôi. Tôi ngủ nướng, bù cho sự thiếu ngủ dồn góp suốt tuần qua, không dậy ăn sáng cho đến gần giờ ăn trưa. Đầu giờ chiều, tôi lướt qua chồng báo bị bỏ mặc từ tuần trước. Tôi còn đọc được bốn chương đầu cuốn sách trong tuần của mình - Khoảnh khắc tự do - của nhà tư tưởng cấp tiến Jens Bjørneboe.
5 giờ 25 phút, chuông điện thoại reo đúng lúc tôi vừa tắm xong. Tôi không định trả lời ngay. Tuy nhiên, người gọi dai dẳng khác thường, và chuông cứ réo mãi cho đến lúc tôi nhấc máy. Ngay lập tức, tôi hiểu có chuyện nghiêm trọng.
Tất nhiên là cuộc gọi cho “thanh tra thám tử Kolbjørn Kristiansen” và như tôi đoán, từ đồn cảnh sát chính trên phố Møller. Tôi kinh hoàng biết nó liên quan tới Magdalon Schelderup. Vài phút trước, họ nhận được điện thoại báo ông ta đã chết lúc bắt đầu bữa tối tại nhà riêng, trước sự có mặt của mười nhân chứng.
Căn cứ vào những điều cảnh sát ở hiện trường báo cáo, có vẻ đây là một vụ giết người đã dự tính trước. Nhưng ai trong số các nhân chứng có mặt đã làm việc đó thì “nói không phóng đại là chưa rõ”. Cảnh sát trực tại đồn biết Schelderup đã liên hệ với tôi ngày hôm trước. Vì không thanh tra nào khác có mặt, anh ta bèn gọi cho tôi, hỏi tôi có muốn đảm nhiệm việc kiểm tra sơ bộ hiện trường và thẩm vấn các nhân chứng không.
Không cần hỏi đến hai lần, vài phút sau, tôi đã lái xe hết tốc lực tới Gulleråsen.
IIKhi tôi tới nơi là 5 giờ 50 phút, bên ngoài tòa biệt thự Gulleråsen ba tầng vừa là nhà ở vừa là trụ sở doanh nghiệp của nạn nhân không hề có dấu vết của tấn thảm kịch. Magdalon Schelderup sống rất vương giả và thiết lập một hệ thống an ninh nghiêm ngặt. Tòa nhà tọa lạc trên đỉnh một quả đồi nhỏ, giữa khu vườn có hàng rào bao quanh, cách nhà hàng xóm gần nhất khoảng hai trăm mét. Bất cứ ai muốn đến gần tòa nhà đều phải băng qua một khoảng không gian thoáng rộng. Họ cũng phải vượt qua hàng rào cao ghép bằng các cọc gỗ nhọn hoắt bao quanh phần còn lại của toàn khu vực, chỉ có một khoảng trống duy nhất dành cho cánh cổng nặng nề dẫn tới đường lái xe vào nhà.
Tôi sửng sốt thấy toàn bộ cơ ngơi này như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Agatha Christie. Đến cuối ngày, tôi được biết hàng xóm láng giềng đều gọi nó là “Lâu đài Schelderup”.
Ngoài một xe cảnh sát, có tám ô tô khác đỗ trước cổng. Một trong số đó là chiếc BMW đen, đồ sộ và bóng lộn của Magdalon Schelderup. Lúc đi qua, tôi nhận thấy ông ta đã nói thật: ba lốp xe bị rạch thành nhiều mảnh bởi một vật sắc nhọn.
Các xe khác nhỏ hơn nhưng vẫn mới và đều thuộc loại sang trọng. Tất cả, trừ một chiếc Peugeot nhỏ màu xanh lơ cũ mòn, như thể đã chạy từ đầu những năm 1950. Tôi ghi nhanh một giả thuyết tạm thời là tất cả các thực khách của nạn nhân đều thuộc tầng lớp thượng lưu, mặc dù tình hình tài chính của họ rất khác nhau.
Sự có mặt của tôi không được chào đón nồng nhiệt. Lúc tôi đang đi tới cửa trước, một tràng những tiếng sủa hoang dã và nguy hiểm bất thình lình nổ ra từ đằng sau, và theo bản năng tôi quay ngoắt lại, sẵn sàng nghênh chiến với đàn chó. May thay, tôi không phải làm việc đó: ba con béc giê Đức to lớn, hung hăng xông tới tôi nhưng đã bị xích chặt. Lũ chó không chỉ làm tăng thêm cảm giác khó chịu và tôi tin rằng Magdalon Schelderup chắc hẳn cảm thấy an toàn trong nhà mình. Mối đe dọa từ trong nhóm người thân cận nhất như ông ta tin chắc đã đến sớm hai ngày so với dự đoán.
Ở cửa trước, tôi chào hai cảnh sát là những người đầu tiên tới hiện trường và đang làm nhiệm vụ canh gác. Cả hai rõ ràng nhẹ người khi thấy tôi, và cam đoan rằng dù có người chết, mọi người trong ngôi nhà đều bình tĩnh đến lạ lùng.
Tôi nhanh chóng hiểu ra ý họ khi đi qua hành lang và hai đợt cầu thang tiếp theo rồi bước lên tấm thảm đỏ trong phòng ăn rộng mênh mông của Magdalon Schelderup. Trước hết, nó gây cho tôi ấn tượng như vừa bước vào một phòng triển lãm tượng sáp. Đồ đạc và nội thất theo phong cách đầu thế kỷ XX. Các bức tường trống trơn, không có tranh ảnh hay bất cứ đồ trang trí nào khác, chỉ làm tăng thêm sự lạnh lẽo đến phi thực của nơi này. Ngoại trừ một thứ - bức chân dung Magdalon Schelderup vẽ rất sống động, to cỡ người thật choán hết một trong các tường ngăn thấp - càng làm tất cả thêm nổi bật.
Lúc này, chủ nhân của tòa lâu đài đã được khiêng lên một chiếc sofa cạnh tường, ngay bên trong cửa. Ông ta mặc bộ com lê đen giản dị và theo tôi thấy, trên người ông không có vết thương nào. Mắt ông nhắm nghiền, môi hơi tái. Tôi sờ vào động mạch chính ở cổ và cổ tay ông ta, rồi nhanh chóng khẳng định không hề có dấu hiệu của sự sống.
Ở giữa phòng có một cái bàn lớn bằng gỗ gụ, xung quanh xếp mười một cái ghế. Thịt cừu nướng kèm rau bày trên các đĩa sứ tinh tế, một chai vang chắc chắn thuộc loại hảo hạng đã rót vào các ly có chân cao. Tuy vậy, chưa thực khách nào động đến đồ ăn thức uống. Có cả champagne, nhưng chưa một ai dùng.
Chiếc ngai của Magdalon Schelderup ở một đầu bàn hiển nhiên lúc này trống rỗng. Mười thực khách ăn vận bảnh bao để dự tiệc, đã lẳng lặng trở về chỗ của mình quanh bàn. Tất cả đều quay nhìn tôi, nhưng không ai cất lời. Tôi liếc qua họ: sáu phụ nữ và bốn nam giới. Tôi nhận thấy tuy một vài người tỏ vẻ lo lắng hoặc ngạc nhiên, song hoàn toàn không mảy may lộ vẻ thương tiếc. Không một giọt nước mắt nào trên gò má của các vị khách nữ quanh bàn.
Ước tính tuổi tác của các vị khách, tám người trong khoảng từ độ tuổi 30 đến 70. Tất thảy đều nghiêm trang và thận trọng. Có hai người nổi bật, mỗi người theo một kiểu riêng và ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi. Hai người họ trẻ nhất trong nhóm.
Một thanh niên mảnh dẻ, tóc vàng hoe chừng gần ba mươi tuổi, ngồi ở giữa hàng bên phải, cho đến lúc này là người tỏ ra lo lắng nhất. Một giờ đã trôi qua từ lúc có người chết, nhưng cậu ta vẫn ngọ nguậy không ngừng trên ghế, mặt vùi vào hai bàn tay run rẩy. Cậu ta cũng không khóc, nhưng lấm tấm mồ hôi trên trán và thái dương. Tôi thấy chàng trai này có vẻ quen quen, nhưng chỉ đến khi cậu ta nhận thấy tôi đang nhìn và bỏ tay khỏi mặt, tôi bỗng nhận ra đó là ngôi sao điền kinh nổi tiếng Leonard Schelderup.
Tôi không nhớ đã đọc ở đâu và vào lúc nào trên các trang thể thao rằng Leonard Schelderup chính là con trai của Magdalon Schelderup, rồi sau đó quên bẵng đi. Một năm trước đây, đứng trên khán đài ở sân vận động Bislett xem các cuộc đua giành chức vô địch điền kinh Na Uy, tôi đã nhìn thấy Leonard Schelderup bay trên đường chạy, thẳng tiến tới huy chương vàng ở cự ly trung bình, mái tóc dài chấm vai của cậu tung bay trong gió. Tôi rất ấn tượng, phần vì vẻ bình tĩnh của cậu lúc để các đối thủ vượt qua, và chỉ tăng tốc rất ngoạn mục khi chuông báo vòng đua cuối cùng. Nhưng một phần vì tôi thán phục sự bình tĩnh gần như lạnh lùng của cậu lúc băng qua vạch đích và khán giả bùng lên vỗ tay tán thưởng. Lúc đó, tôi đã nhận xét với người đàn ông đứng cạnh là chắc hẳn chẳng gì có thể làm Leonard Schelderup mất bình tĩnh, vì thế lúc này tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc khi thấy cậu đang ngước nhìn tôi với vẻ năn nỉ, gần như sắp quỵ ngã vì suy sụp thần kinh.
Tình hình không đỡ phiền muộn khi Leonard Schelderup phá vỡ sự im lặng, xòe tay ra và nói:
- Tôi không thể hiểu vì sao cha tôi chọn tôi nếm thức ăn của ông. Không phải tôi là người khởi sự. Tôi không thấy mùi lạc. Tôi cũng không hề biết ai giết ông ấy!
Cơn bột phát của Leonard Schelderup thật sự đã làm không khí nhẹ bớt phần nào. Không ai nói gì thêm lúc cậu ngừng lời, nhưng mọi người quanh bàn đều thở dài và có tiếng dịch chuyển.
Gần như tình cờ, tôi bắt gặp nụ cười đầu tiên trong phòng. Nó thoáng qua và cố nén xuống, đúng lúc Leonard Schelderup im bặt. Nụ cười biến mất vài giây sau đó và tôi không bao giờ biết liệu cô ta có nhận thấy việc tôi đã phát hiện ra nụ cười đó không. Khi cậu Schelderup ngừng nói, gần như theo bản năng, mắt tôi đổi hướng, quan sát phản ứng của vị khách trẻ nhất ngồi cách cậu ta hai ghế về bên trái.
Thoạt nhìn, tôi cứ ngỡ là Patricia - cố vấn hình sự của tôi, không hiểu vì sao cô cùng cái xe lăn của mình lại lọt được vào nhà Magdalon Schelderup và nhập bọn với họ bên bàn ăn. Ngay sau đó, tôi giật mình tự hỏi thật ra toàn bộ chuyện này có phải là một cơn ác mộng vô lý không. Nhưng tôi không mê ngủ. Mười thực khách bằng xương bằng thịt vẫn ngồi bên bàn tiệc. Magdalon Schelderup vẫn ở nguyên chỗ, nằm chết trên sofa cạnh cửa. Còn cô gái ngồi bên phải chiếc ngai trống rỗng của ông ta ở đầu bàn tất nhiên không phải là Patricia, tuy người phụ nữ ngồi đó cũng có mái tóc đen và những động tác thong thả, cùng cung cách tự tin và bình tĩnh y hệt.
Người phụ nữ trẻ này, theo như tôi thấy, khỏe mạnh và lành lặn, cao hơn Patricia nửa cái đầu và chắc chắn trẻ hơn theo như tôi nhớ khi gặp cô ấy hồi mùa xuân trước. Tôi chưa bao giờ gặp cô gái này trước khi bước vào nhà Magdalon Schelderup. Nhưng từ đâu đó, tôi nghe đồn con út của ông ta là con gái, xinh đẹp lạ thường và để lại ấn tượng đáng ngại cho những người cô ta gặp.
Ánh mắt chăm chú của cô gái không bớt vẻ táo bạo lúc bắt gặp cái nhìn của tôi. Một nụ cười thoáng nhẹ nữa lướt qua môi cô.
Trong vài giây, tôi nhìn vào đôi mắt của Maria Irene Schelderup mười tám tuổi, và nhận ra việc duy nhất cần làm cho xong. Trước hết, tôi phải thu thập các thông tin càng nhiều càng tốt về Schelderup và cái chết của ông ta từ cô con gái và các thực khách khác. Sau đó, tôi phải về nhà ngay và quay số điện thoại ở trang cuối cuốn danh bạ của mình. Cuộc gọi sẽ nối máy đến điện thoại bàn của Patricia Louise I.E. Borchmann. Cô là con gái của giáo sư Borchmann và sống tại số nhà 104-108 phố Erling Skjalgsson. Trong một thoáng hài hước, tôi đã ghi số của cô ngay sau các số khẩn cấp gọi cứu hỏa và cấp cứu.
IIITôi nhanh chóng xác minh các tình tiết tạm thời trong cái chết của Magdalon Schelderup. Mười lời khai của các nhân chứng rất khớp nhau.
Magdalon Schelderup đã thông báo với tất cả những người có mặt bằng văn bản rằng mùa xuân năm nay, cứ Chủ nhật thứ hai mỗi tháng, ông sẽ mời những người thân thiết nhất đến nhà ông ăn tối. Theo giám đốc điều hành của ông, người cũng có mặt, thư mời gửi qua bưu điện theo đúng thể thức, đề ngày 2 tháng Giêng 1969. Bàn ăn sẽ được dọn sẵn các món vào đúng 4 giờ rưỡi chiều, nếu bất kỳ người nào không có mặt đúng giờ sẽ bị coi là “rất đáng tiếc” bất kể vì lý do gì.
Khách mời gồm Sandra, vợ của Magdalon Schelderup và Maria Irene, con gái của ông, cả hai hiện sống với ông tại Lâu đài Schelderup. Những người khác trong gia đình, cùng mang họ với ông là bà em gái Magdalena, người vợ cũ Ingrid, các con trai đã trưởng thành của ông là Fredrik và Leonard. Cô thư ký Synnøve Jensen của Magdalon Schelderup và giám đốc điều hành lâu năm Hans Herlofsen cũng được mời. Hai người cuối cùng trong danh sách là cặp vợ chồng già Else và Petter Johannes Wendelboe, là những người Magdalon Schelderup quen biết từ hồi chiến tranh.
Cho đến bây giờ, cứ Chủ nhật có tiệc, các vị khách đều răm rắp đến đúng giờ theo lời mời. Đã bốn bữa tối đầu tiên trôi qua và không có sự kiện gì đáng nhớ. Song bữa tối nay bắt đầu khá bất thường. Lúc 4 giờ rưỡi khi mọi người đã yên vị, bà Sandra Schelderup đặt các món ăn lên bàn như thường lệ. Mọi người vừa được dọn món nhưng chưa ai động đũa thì chuông báo cháy reo. Tất cả rời khỏi phòng và tụ tập bên cửa ra vào ở tầng trệt trong vài phút.
Tuy nhiên, sự việc ngay lập tức được xác minh, té ra không phải chuông báo cháy mà là âm thanh nổi đã ghi âm sẵn trong máy phát.
Magdalon Schelderup giận dữ nhìn quanh bàn, nhưng tất cả các thực khách đều dứt khoát phủ nhận không hay biết gì về trò đùa ác ý này. Ông chủ có vẻ khó chịu và lo lắng khác thường vì việc xảy ra, ông ngồi một lát, trầm ngâm suy nghĩ và không chúc các vị khách ngon miệng. Rồi bất chợt, ông gầm lên ra lệnh cho cậu con trai thứ Leonard phải nếm thử đồ ăn trên đĩa của ông.
- Ba nghi ngờ thức ăn trên đĩa của ba bị bỏ độc. Ba chắc không ai bất đồng với giả thuyết rằng nếu con mất mạng sẽ đỡ tổn thất hơn là ba! - Magdalon Schelderup đã nói như thế. Không một ai phản đối.
Leonard căng thẳng trông thấy và cố nói không lý gì lại ngờ thức ăn bị bỏ độc. Cha cậu đáp lại cộc lốc rằng nếu vậy, không lý gì lại sợ nếm thử. Sau vài phút, sự im lặng càng thêm ngột ngạt lúc Leonard rõ ràng khiếp sợ ăn một lát thịt, nửa củ khoai tây và một miếng cà rốt trên đĩa của cha mình. Năm phút sau, trông Leonard vẫn ổn và nói cậu không hề cảm thấy có triệu chứng gì hết, rốt cuộc cha cậu mời mọi người bắt đầu dùng bữa, lúc đó là 4 giờ 56 phút.
Không vị khách nào gặp phản ứng với thức ăn. Nhưng Magdalon Schelderup bị phản ứng cấp tính: cổ và miệng ông đột ngột sưng phồng. Không thể nói được, ông khua bàn tay, chỉ xuống bàn, nhằm vào hai người con trai. Bà vợ đỡ ông lên sofa, bà nói mạch ông đập dồn và không đều. Magdalon Schelderup bị chuột rút dữ dội và vài phút sau ông qua đời. Trong khoảnh khắc cuối cùng của đời mình, Magdalon Schelderup nắm chặt ngực trái. Các vị khách cho rằng tình trạng tim ngừng đập chính là nguyên nhân tử vong, tuy nghẹn thở cũng có thể là một khả năng.
Nguyên do trở nên sáng tỏ khi vợ của người quá cố nhận ra bột lạc rất mịn trên miếng thịt ở đĩa của chồng. Kinh hoàng, Leonard vùi mặt vào hai bàn tay. Cậu hoang mang đến nỗi không thể khẳng định liệu cậu có thoáng thấy mùi vị hoặc dấu vết của lạc trên miếng thịt cậu đã ăn hay không.
Những người gần gũi với Magdalon Schelderup đều biết rõ ông ta dị ứng với lạc đến mức có thể bị tử vong. Lạc dù là bất cứ loại nào, dưới dạng nào đều bị cấm tuyệt đối ở mọi nơi trong cơ ngơi của ông và suốt nhiều năm nay, Magdalon Schelderup thi hành nghiêm ngặt lệnh cấm đó.
Ngay lập tức tôi nhận thấy mọi người có mặt đều biết rõ chứng dị ứng lạc cũng như lệnh cấm của ông ta. Nhưng tất cả đều có cơ hội rắc bột lạc lên đĩa của Magdalon Schelderup trong lúc lộn xộn sau khi có chuông báo cháy. Họ là những người duy nhất có thể làm việc đó. Trong các bữa tối Chủ nhật, Magdalon Schelderup cho toàn bộ người làm nghỉ. Ồng chủ và các thực khách là những người duy nhất ở trong tòa nhà.
Việc nấu nướng do người vợ hiện tại và vợ cũ của ông đảm nhiệm, tất nhiên cả hai đều là thực khách. Họ gườm gườm nhìn nhau, nhưng đều đồng thanh khai rằng không hề có lạc dù ở bất cứ loại nào, ở bất cứ chỗ nào gần bếp khi họ chế biến món ăn. Trên thực tế, không hề có dấu vết bột lạc ở các đĩa khác trên bàn, ngoài đĩa của Magdalon Schelderup. Bởi vậy, khả năng cao nhất là thứ bột lạc chết người kia đã được thêm vào thức ăn sau khi đặt lên bàn. Điều đó có nghĩa là một trong các thực khách không chỉ mang bột lạc tới, mà còn rất muốn giết chết ông chủ nhà.
Trong ba giờ tiếp theo, tôi trưng dụng một phòng ngủ dành cho khách ở tầng trệt làm phòng thẩm vấn tạm thời và lấy lời khai của tất cả mười nhân chứng. Lúc 9 giờ, một bác sĩ pháp y đưa xác đi, và tôi nghĩ không mong thu thập được nhiều hơn từ mười người còn lại.
Tôi hiểu kẻ sát hại Magdalon Schelderup từng ngồi bên bàn ăn của ông ta là điều hiển nhiên, nhưng vẫn chưa biết là ngồi ở ghế nào. May thay, khi đó tôi chưa nhận thức được rằng, mặc dù được Patricia giúp đỡ, cuộc điều tra tiếp theo để tìm đúng người sẽ kéo dài suốt bảy ngày vô cùng gay cấn. Tôi cũng không dự đoán được rằng trong tuần lễ sắp tới, ai trong mười thực khách tại bàn tiệc tối cuối cùng của Magdalon Schelderup sẽ theo ông ta về chầu trời.
IVTôi quyết định bắt đầu thẩm vấn người có tuổi tác tương đương với Magdalon Schelderup đã quá cố, đó là bà em gái sáu mươi bảy tuổi của ông ta.
Magdalena Schelderup xin phép hút thuốc trong khi thẩm vấn. Bà ta có vẻ cực kỳ bình tĩnh, bất chấp những sự kiện đau buồn tối hôm đó. Thân hình bà ta gầy gò và xương xẩu, nhưng cái bắt tay của bà mạnh mẽ đến không ngờ. Tôi nhận thấy bà ta đeo một chiếc nhẫn bằng thiếc, trông có vẻ lạc lõng trên người phụ nữ lớn tuổi rất giàu sang này. Nhưng thứ tôi không thấy trên bàn tay bà hình như còn có ý nghĩa hơn - bà ta không đeo nhẫn cưới.
Giải thích về việc vẫn mang họ thời con gái, Magdalena Schelderup kể với tôi không hề ngập ngừng rằng bà chưa bao giờ kết hôn, và nói luôn rằng bà cũng chưa bao giờ có con. Gia đình bà vốn ít người và hiện giờ bà là người sống sót cuối cùng trong tòa nhà thời thơ ấu. Bà lớn lên cùng một anh trai và một em trai. Em trai bà không khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần, và cuối cùng đã chết bệnh từ mùa xuân năm 1946. Từ khi họ còn bé, Magdalon đã có uy quyền vượt trội so với các em. Trong hai năm đầu đời, cậu bé đã khiến cha mẹ mê mẩn đến mức họ quyết định đặt tên cho con gái là Magdalena, cái tên gần giống con trai của họ hết mức có thể.
Cha họ cũng là một doanh nhân thành đạt và các con lớn lên trong hoàn cảnh dư dả về vật chất. Sau khi chiến tranh kết thúc và sau cái chết của người em trai, Magdalon tiếp quản điều hành công việc làm ăn của gia đình và nhanh chóng mở rộng kinh doanh. Magdalena đỗ vào đại học và theo một khóa hai năm ở trường thương mại, nhưng cô nhận được một khoản thừa kế hậu hĩnh vì cha mẹ qua đời, cho phép cô lao vào nhiều thú vui mà không cần phải làm việc để kiếm sống. Thu nhập hằng năm từ lợi nhuận trong các công ty của cha mẹ thừa đủ cho Magdalena trang trải mọi chi tiêu.
Magdalena Schelderup tư lự hút thuốc lá khi tôi hỏi bà có quan hệ thân thiết với anh trai không. Rồi bà chậm rãi lắc đầu. Họ vẫn giữ liên hệ, có nhiều bạn bè và người quen chung, nhưng đã hai mươi lăm năm nay, họ không bàn bạc bất cứ việc gì quan trọng. Magdalena có cảm tưởng rằng hiếm khi anh trai bà hỏi ý kiến người khác về những vấn đề quan trọng, phần lớn ông tuân theo niềm tin và những ý thích đột xuất của chính mình. Ông chưa bao giờ hỏi ý kiến em gái về việc kinh doanh hay những vấn đề riêng tư. Nhưng bà khẳng định bà hiểu ông hơn bất cứ ai, vì đã quan sát ông suốt cuộc đời mình.
- Nếu anh muốn hiểu anh trai của tôi về mặt con người hoặc doanh nhân, anh phải biết rằng ngay từ hồi còn bé, anh ấy lúc nào cũng là một con bạc. - Magdalena Schelderup bất chợt nói thêm.
Tôi đề nghị bà nói rõ hơn về điều đó và bà đáp ngay lập tức:
- Từ khi còn trẻ, Magdalon đã đùa giỡn với đồng tiền và con người, với công việc kinh doanh và cuộc sống riêng tư; thực ra, toàn bộ sự tồn tại của anh trai tôi biến thành một canh bạc lớn. Ông ấy thường đặt cược rất to. Nếu anh bảo có khi ông ấy chơi gian, tôi sẽ không phủ nhận. Magdalon chiều theo thị hiếu tầm thường của quần chúng để được công nhận. Nhưng hơn hết thảy, ông chơi chỉ để thắng, nhằm giành được những thứ ông thèm muốn. Đó là tiền bạc, nhà cửa hoặc đàn bà. - Bà nói thêm với nụ cười cay đắng.
Magdalena Schelderup im bặt, chìm vào suy tư trong chốc lát rồi châm điếu thuốc khác. Sau đó, bà bắt đầu nói, từ tốn hơn:
- Anh có thể nghe từ những người quen biết ông ấy, cả những người trong và ngoài công ty, rằng anh tôi chỉ biết đến tiền, không nghĩ đến mọi người. Những người nói thế hoặc không biết hoặc không hiểu ông ấy. Tài năng lớn nhất của Magdalon chính là ông ấy có khả năng hiểu mọi loại người, khả năng ấy được mài giũa hết sức tinh tế. Ông có khả năng phán đoán điểm mạnh và yếu của người khác vô cùng sắc bén và thường tiên đoán rất chính xác họ sẽ phản ứng ra sao trong các tình huống khác nhau. Nhưng ông chỉ sử dụng kỹ năng này vì lợi ích của riêng mình. Tôi có thể hiểu rằng nhiều khi, người ta nghĩ ông lạnh lùng và vô cảm với người khác, kể cả với gia đình riêng. Nhưng thật ra có sự khác biệt giữa việc không quan tâm và không hiểu khi nào thì ai đó cần được quan tâm, ngay cả khi người ta thực sự quan tâm tới người khác.
Tôi gật đầu nghĩ ngợi và hỏi về quan hệ gia đình nói chung của ông ta. Em gái ông ngập ngừng rồi trả lời vợ và các con của Magdalon ắt phải hiểu việc này hơn bà. Từ vị trí của mình bên bàn ăn, bà đánh giá cuộc hôn nhân thứ ba của anh trai mình không chỉ dài nhất, mà còn “ít bất hạnh nhất”. Cả hai lần chuyển tiếp từ cuộc hôn nhân thứ nhất sang thứ hai, và thứ hai sang thứ ba đều là những giai đoạn khó khăn. Dĩ nhiên anh trai bà mong đợi ở hai đứa con trai nhiều hơn, dẫu bà cảm thấy những kỳ vọng của ông khó mà thành hiện thực. Hình như ông đánh giá cô con gái cao nhất, nhưng cũng có thể vì cô gái trẻ nhất và vẫn còn sống ở nhà.
Em gái ông khẳng định biết rất ít về gia tài của Magdalon Schelderup. Thu nhập hằng năm của bà từ lợi nhuận trong các công ty của cha mẹ bảo đảm cho bà sống sung túc hết đời, bây giờ ai thừa hưởng tập đoàn không phải là việc quan trọng. Nó thực sự chẳng có ý nghĩa gì nhiều với bà. Tiền của bà trong ngân hàng nhiều đến mức bà có thể tiêu pha cả đời không hết, và bà chẳng có ai mà để lại.
Magdalena không nói nhiều, nhưng tôi hiểu ý bà. Về phần mình, bà ta không có động cơ nào về tài chính để sát hại anh trai.
Nghe chừng đủ hợp lý. Magdalena có vẻ rất bình tĩnh khi nói tôi có thể gạch tên bà khỏi danh sách nghi phạm. Tuy nhiên, tôi thích thú nhận ra bà sống cách nhà anh trai một quãng ngắn, ngày thứ Sáu và thứ Bảy bà ở nhà một mình. Bà là em gái của người đã mất và biết ông ta lâu hơn bất cứ người nào trong nhóm thực khách. Trên thực tế, bà ta hoàn toàn có cơ hội rạch nát lốp xe của anh trai và cũng có thể lén rắc bột lạc vào thức ăn của ông.
VThẩm vấn em gái người chết xong, người tiếp theo tôi muốn gặp là Sandra Schelderup, vợ góa của ông ta. Bà là người đầu tiên khẳng định đã sẵn sàng để thẩm vấn. Vẫn không một giọt nước mắt trên má bà.
Sandra Schelderup là một phụ nữ tương đối mảnh khảnh, tóc đen, lưng thẳng và vẻ mặt kiên quyết, gây ấn tượng về một người cá tính và có ý chí mạnh mẽ. Bà khai mình bốn lăm tuổi và kể gãy gọn vắn tắt về xuất thân của mình: bà lớn lên tại một khu đất nhỏ ở vùng quê gần Trondheim, bà học viết tốc ký và gặp chồng khi làm thư ký cho ông, gần hai mươi năm trước. Mặc dù tuổi tác chênh lệch, cuộc hôn nhân của họ hạnh phúc và cái chết của ông là một cú sốc thực sự cho bà.
Bà khẳng định không hề biết chồng mình gọi điện cho cảnh sát vào hôm trước, cũng không biết các lốp xe bị rạch thủng. Tuy vậy, bà nhận thấy gần đây chồng bà rõ ràng có chuyện lo nghĩ. Ông cảnh giác hơn và ban đêm cẩn thận kiểm tra xem cửa nẻo đã khóa kỹ chưa. Vài tuần trước, ông đã lấy một khẩu súng ngắn cũ trong bộ sưu tập vũ khí của mình và đút vào túi áo khoác mỗi khi ra khỏi nhà. Ban ngày ông thường để nó trên bàn làm việc và bà nhận thấy ông để trên bàn cạnh giường vào buổi sáng và ban đêm.
Nhưng ông không kể với bà vì sao ông lo lắng. Ông là người thuộc trường phái cổ, không giãi bày những phiền muộn với vợ con. Bà phỏng đoán việc kè kè khẩu súng có thể là dấu hiệu chồng bà đang già đi và lo lắng, song sau vụ giết người, tất nhiên bà nhìn nhận hành động của ông khác hẳn. Trước kia ông chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến bất cứ loại súc vật nào, nhưng mùa thu năm ngoái bỗng nhiên ông mua ba con chó giữ nhà.
Còn về tài sản, Sandra Schelderup biết ít hơn trên báo chí viết: có thể vài trăm triệu krone tiền mặt, cổ phần và bất động sản. Bà có thể tìm ra tên của công ty luật đã giúp chồng bà giải quyết các vấn đề luật pháp, nhưng bà khẳng định không biết gì về nội dung trong chúc thư. Trải qua ba cuộc hôn nhân, theo thông lệ Magdalon vẫn giữ các di sản của mình tách rời nhau. Nhân dịp này dịp khác, khi bàn bạc về tình hình tài chính của bà, ông đã hứa với người vợ cuối cùng là bà sẽ được chăm sóc chu đáo đến hết đời, và được thừa hưởng ít nhất hai triệu krone.
Công việc làm ăn chi phối cuộc sống của Magdalon Schelderup hơn mọi thứ khác, ngay từ đầu cuộc hôn nhân ông đã giao hẹn bà không được tự ý quan tâm đến chuyện đó. Bà nói mình luôn tuân theo quy định này, và nói thêm con gái bà có lẽ còn biết ít hơn bà, còn người cần phải hỏi là giám đốc điều hành.
Khi Magdalon Schelderup ở nhà, ông thường dành phần lớn thời gian ở một trong hai phòng: hoặc trong phòng vừa làm việc vừa là thư viện của ông ở tầng thứ nhất, hoặc trong phòng ngủ riêng kế bên. Vợ ông giải thích ông ngủ vào những giờ bất thường trong suốt cuộc hôn nhân của họ, vì thế bà thích có phòng ngủ riêng hơn, ở tầng trên. Ông có thể thoải mái ra vào tùy ý, và ông đã làm thế trong suốt những năm bà biết ông, bà nói với nụ cười thoáng qua.
Cho đến lúc này, mọi thứ nghe chừng khá bình thường. Lời miêu tả của vợ ông củng cố thêm hình ảnh Magdalon Schelderup là một người đàn ông ngang ngạnh, nhưng trong vài tháng qua đã lo lắng về mối đe dọa có thể xảy ra cho mạng sống của mình. Tuy vậy, giọng bà trở nên gay gắt hơn khi cuối cùng, tôi hỏi bà có nghĩ người nào trong các thực khách có thể giết chồng mình.
- Đó là điều hiển nhiên! - Bà đáp lại gọn lỏn.
Rồi bà nói thêm bằng giọng nhanh và xúc động hơn.
- Tôi bảo đảm với anh không phải là tôi hoặc con gái tôi. Nhưng những người còn lại, ngay bây giờ tôi không loại trừ bất cứ ai.
Tôi hỏi ít ra, bà có loại trừ hai người con trai riêng của chồng không, bà đáp lại ngay lập tức:
- Đặc biệt là không với hai người này!
Lúc nói câu này, một bóng đen lướt qua mặt bà, càng khiến tôi ngờ rằng quan hệ giữa những người gần gũi nhất với người đã chết chẳng mấy tốt đẹp. Tôi quyết định chấm dứt cuộc nói chuyện với người phụ nữ vừa mất chồng ở đây. Lúc này, tôi rất tò mò muốn biết các con ông ta nghĩ gì về bà ta và về cái chết của cha mình.
VIThoạt nhìn, Fredrik Schelderup đã làm tôi sửng sốt vì anh ta giống cha quá ít, cả về tinh thần lẫn thể chất. Anh ta ba mươi tám tuổi, cao hơn tầm trung bình, tóc đen, diện mạo dễ coi cũng như thái độ thân thiện. Lớp mỡ thừa quanh eo và đôi má quá đỏ gợi mối nghi ngờ Schelderup Con thích những cuộc tụ bạ vui vẻ hơn là các bữa tiệc gia đình.
Cuộc trò chuyện tiếp theo không hề làm giảm ấn tượng đầu tiên của tôi, Fredrik Schelderup nói chuyện bằng giọng điệu hồ hởi và khinh suất. Không cần khích lệ, anh ta cởi mở kể mình giống người mẹ đã khuất nhiều hơn và luôn cảm thấy rất khác cha. Trong vài năm gần đây, quan hệ của Fredrik với cha “đúng mực và hình thức”, nếu nói khác đi là “khá rời rạc và đặc biệt không chân thành”. Fredrik Schelderup giải thích rằng do anh ta cố giữ khoảng cách hết mức có thể với cha cũng như với công việc quản lý kinh doanh của gia đình. Chính vì thế anh ta có vẻ thản nhiên trước cái chết của cha mình. Thật ra mà nói, thì đúng là như thế.
Cái chết của Magdalon hoàn toàn bất ngờ với Fredrik Schelderup, cũng như anh ta không hề nghĩ ai là người có thể rắc bột lạc lên đĩa của ông. Anh ta lớn lên với lệnh cấm ngặt mọi thứ dính dáng đến lạc; có lần, khi Fredrik mười hai tuổi, cậu bị phạt tiền tiêu vặt trong một tháng vì đã ăn một củ lạc trong khi lái xe. Từ đó cho đến ngày hôm nay, Fredrik tôn trọng quỵ định.
Fredrik Schelderup tới bữa tiệc tối bằng chiếc Mercedes mới cáu cạnh, và cả tuần trước anh ta ở trong hoặc ở gần nhà mình tại ngoại ô Bygdøy giàu có. Fredrik sống một mình, nhưng có một “bạn gái” mới, cả tuần ngày nào cũng đến với anh ta. “Cũng như vài đêm,” anh ta nói thêm với cái nháy mắt vui vẻ.
Fredrik Schelderup khiến tôi ngỡ ngàng vì khác xa người cha đến thế. Khi tôi hỏi cho đến nay, anh ta đã làm gì trong đời, Fredrik đùa, hóm hỉnh: “Làm ít nhất có thể, trong khi đợi hưởng thừa kế của cha tôi.” Fredrik Schelderup kể tiếp: thi đỗ vào trường thương mại và học chút ít, nhưng anh ta hưởng thụ cuộc sống sinh viên trong những ngày nghỉ cuối tuần nhiều hơn ngày trong tuần. Fredrik bỏ học trước khi tốt nghiệp, chẳng hề có bằng cấp, chứng chỉ gì và chưa bao giờ có khả năng quyết định mình muốn làm gì. May thay, anh ta chẳng túng thiếu gì. Trong lúc đợi khoản tiền thừa kế chắc chắn có thật từ cha, Fredrik Schelderup sống ung dung nhờ khoản thừa kế vừa phải từ mẹ, thỉnh thoảng anh ta kiếm thêm nhờ thu nhập từ những việc làm ngắn hạn. Fredrik Schelderup nhận xét một cách đùa bỡn rằng từ khi còn niên thiếu, anh ta đã thích lái xe - những chiếc ô tô tốc độ cao và những người đàn bà xinh đẹp. Toét miệng cười, Fredrik Schelderup nói thêm khi một người phụ nữ đẹp hỏi anh ta thuộc cung gì, thông thường anh ta trả lời là “cung đô la” và rồi sẽ bắt đầu chứng minh điều đó. Chi phí mọi thứ hằng ngày của anh ta nói chung khá khiêm tốn, “dĩ nhiên là ngày thường”. Fredrik Schelderup vẫn đang đợi thực hiện mong ước được nhìn thấy “thế giới rộng lớn và các quán rượu của nó” nhiều hơn, cho đến khi nhận được khoản tiền thừa kế.
Khi bị hỏi anh ta mong được thừa kế bao nhiêu, Fredrik Schelderup gần như nghiêm trang trong giây lát. Anh ta nói hy vọng được một phần ba tổng số tài sản của cha mình, và theo báo chí ước tính là trên 100 triệu krone. Song Fredrik vẫn không dám cho là có thể đòi hỏi hơn 200 ngàn krone theo luật định, vì đã được xác nhận là một trong những người thừa kế. Fredrik Schelderup đã mong ngóng nhận được tài sản thừa kế của mình nhiều năm nay, nhưng dù trong tình trạng eo hẹp về tài chính, anh ta không hỏi xin tiền cha - vì biết rằng có hỏi cũng chẳng được gì ngoài lời mỉa mai đáp lại.
Trong nhiều năm qua, Magdalon Schelderup nhiều lần bộc lộ tâm trạng thất vọng của ông vì sự thiếu năng lực và thiếu nhạy bén trong kinh doanh của người con trai cả. Người con chẳng còn cảm thấy bị tổn thương vì điều đó và để đáp lại, trong vài dịp anh ta đã chỉ trích cha mình vì cách hành xử với hai người vợ trước và con trai của họ. Những cuộc trò chuyện của hai cha con thường dừng lại ở đó.
Fredrik Schelderup lại trở nên nghiêm túc khi tôi hỏi về người mẹ đã mất của anh ta. Bà trẻ hơn Magdalon bốn tuổi, là người có nhan sắc lộng lẫy và được nhiều người theo đuổi, song năm hai mươi ba tuổi đã nhận lời cầu hôn của Magdalon Schelderup. Trong những năm cuối đời, hơn một lần bà kể với con trai rằng Magdalon Schelderup kết hôn với bà vì đó là cách duy nhất ông có thể đưa bà lên giường. Ông bị ám ảnh phải có được bà ngay từ lần đầu tiên họ gặp nhau. Bà kể với sự cay đắng ngày càng tăng, rằng bà đã thắng Magdalon Schelderup nhưng để làm được việc ấy, bà đã tự đánh mất mình.
Fredrik Schelderup là người con duy nhất của cuộc hôn nhân vô cùng bất hạnh này và kết thúc bằng vụ ly hôn đau lòng ngay trước chiến tranh. Mẹ Fredrik là tín đồ Công giáo và rất thích thú được tôn là “Hoàng hậu của Gulleråsen” tại Lâu đài Schelderup. Bà kịch liệt chống đối việc ly dị, nhưng chồng bà đã tìm thấy người phụ nữ khác và rốt cuộc, ông đã quẳng người vợ đầu tiên ra khỏi nhà “hầu như bằng vũ lực”. Sau cuộc ly hôn, Fredrik còn ở lại với cha thêm vài năm, “vì nhiều lý do thoải mái” nhưng sau này chợt thấy dọn vào một căn hộ riêng khi xong trung học là “thoải mái hơn”. Về mặt tài chính, người mẹ không khổ sở nhưng bà không bao giờ hồi phục sau vụ ly hôn. Rượu và thuốc lá đã mài mòn sức khỏe của bà, hủy hoại bà thường xuyên và mới bốn mươi chín tuổi, bà chết vì xơ gan.
Trả lời câu hỏi về quan hệ với các thành viên khác trong gia đình, Fredrik Schelderup tuyên bố thích người vợ thứ hai của cha hơn người thứ ba một chút, nhưng không liên hệ nhiều với người nào. Với những người còn lại trong gia đình, nói chung Fredrik có nhiều tình cảm ấm áp nhất với cậu em trai khác mẹ kém anh ta mười một tuổi. Họ gần gũi hơn khi cậu em bước vào tuổi dậy thì và cũng thành con trai của cặp cha mẹ đã ly dị. Nhưng mối liên hệ của họ thất thường. Tính cách của họ rất khác nhau và khi Leonard đến tuổi trưởng thành, cậu ấy “đủ nhạy cảm để nhận ra tôi không phải là mẫu người tốt”. Với cô em gái khác mẹ kém Fredrik hai mươi tuổi, quan hệ của họ thường xa cách. Tuy vậy Fredrik nói cô có vẻ là một cô gái kiên quyết và dám nghĩ dám làm đến mức khác thường ở độ tuổi của mình.
Khi nói câu này, một thoáng nghiêm trang trở lại lần nữa với Fredrik Schelderup thay thế cho vẻ hài hước. Khi Fredrik đã ra khỏi phòng, tôi ngồi ngẫm nghĩ, tự hỏi lúc tôi nhìn vào mắt anh ta, liệu có thấy dấu vết tôn trọng hoặc sợ hãi không.
VIILeonard Schelderup thấp hơn tôi nửa cái đầu, là một thanh niên hai mươi bảy tuổi mạnh mẽ, nhai kẹo cao su liên tục. Cậu gần như lướt vào phòng bằng bước chân nhẹ nhàng nhất hạng và thân hình mềm mại của một vận động viên chạy đua đường dài. Leonard đã cố lấy lại bình tĩnh lúc bước vào để thẩm vấn, hai giờ sau vụ sát hại, nhưng rõ ràng vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc vì sự kiện bi thảm trong phòng ăn. Cậu tự thừa nhận điều này và bắt đầu bằng câu xin lỗi vì thái độ bối rối của mình. Sau đó, Leonard nói thêm rằng các sự kiện ngày hôm đó thật bất thường và cậu đặc biệt cảm thấy chông chênh.
Tôi nói rất thông cảm với hoàn cảnh của cậu, rồi nhận xét thêm rằng cậu và người cha quá cố hình như rất khác nhau. Leonard Schelderup nhai kẹo cao su liên tục trong vài giây trước khi câu trả lời dường như lộn xộn tuôn trào khỏi miệng cậu.
- Có và không. Thật dễ hiểu sự việc là thế. Tôi dễ bị tác động vì những gì người ta nghĩ và nói về tôi, và cũng quan tâm đến cảm giác của người khác. Những thứ ấy chẳng phải là đặc điểm của cha tôi. Gặp gỡ mọi người khiến tôi căng thẳng và tôi chưa bao giờ thích kinh doanh. Nhưng chúng tôi giống nhau về một số mặt. Tôi có ý chí và tinh thần ganh đua của ông, nhưng tôi sử dụng chúng trên đường chạy và trong học tập. Song đó không phải là lĩnh vực cha tôi mong muốn. Nhưng vài năm gần đây hình như ông hiểu và tôn trọng tôi hơn một chút. Đáng tiếc là quan hệ của cha con tôi chưa bao giờ tốt đẹp. Tôi hy vọng rằng nó không hẳn là xấu trong năm cuối đời ông.
Cậu nhanh chóng nói thêm:
- Năm tôi lên tám, một hôm cha vào phòng tôi và nói mẹ tôi đã dọn ra ngoài, nhưng tôi sẽ ở lại đây mà không có mẹ. Quan hệ giữa cha con tôi chẳng bao giờ vượt qua khoảnh khắc ấy. Nhưng rốt cuộc tôi chấp nhận con người của cha tôi và hiện giờ, tôi chẳng có bất cứ lý do gì để mong ông chết. Với tôi, việc ông bị sát hại dường như không thật và vì sao ông chọn tôi nếm thức ăn của ông vẫn vô cùng khó hiểu.
Tôi chú ý ngay đến cách Leonard bày tỏ lời cam đoan “hiện giờ, tôi chẳng có bất cứ lý do gì để mong ông chết” - và tôi hỏi bằng giọng gay gắt hơn rằng liệu câu này có ngụ ý là trước đó, cậu đã từng mong cha cậu chết không.
Leonard Schelderup nhai kẹo cao su hăng hái hơn trước khi trả lời.
- Hồi tôi còn thiếu niên, có thể tôi đã nói những lời gây ấn tượng như thế. Tôi nghĩ ông đối xử với mẹ tôi rất tệ, cả trước và sau khi ly hôn, còn tôi có làm được bất cứ việc gì ông cũng chẳng hề quan tâm, dù chỉ là chút xíu. Tranh luận với cha tôi giống như đập đầu vào tường vậy. Ông chẳng bao giờ mất tự chủ, ông chỉ nhìn xuống và nhìn thấu tôi, với cung cách hết sức trịch thượng. Ngay cả khi tôi đã lớn và cao hơn ông một cái đầu. Các cuộc xung đột đều kết thúc bằng việc rốt cuộc, tôi xin lỗi ông. Còn ông vẫn chỉ nhìn tôi một cách hống hách. Qua nhiều năm, tôi âm thầm căm ghét ông và khi còn thiếu niên, đã vài lần tôi bùng nổ dữ dội. Nhưng tôi chưa bao giờ muốn giết ông và hơn nữa, tôi chưa bao giờ làm bất cứ việc gì để thực hiện điều đó.
Cậu quằn quại trên ghế và nói thêm bằng giọng khe khẽ.
- Tuy bây giờ chỉ có Chúa mới biết ai tin điều đó.
Tôi thông cảm với cậu. Leonard Schelderup thực sự trong tình trạng không được che chở, đối mặt với những người khác quanh bàn, phần vì cậu là người bị chọn nếm đồ ăn, phần vì sau khi nuốt bột lạc cha cậu đã mơ hồ chỉ về phía cậu. Ngoài ra, Leonard không có chứng cứ ngoại phạm về cái đêm các lốp xe bị rạch nát. Theo lời khai, cậu đã ở Oslo và các khu vực lân cận trong vài ngày trước bữa tối tai họa đó, đi lại như thường lệ giữa nhà cậu ở Skøyen tới đường đua trên sân vận động Bislett và tới phòng chuyên dùng của cậu ở trường đại học.
Cũng giống như người anh lớn, Leonard có vẻ biết ít thông tin về khoản thừa kế, nhưng cũng tỏ ra không mấy quan tâm. Cậu hy vọng được một phần ba di sản, nhưng cũng chuẩn bị sẵn sàng ra đi với khoản tối thiểu là 200 ngàn krone theo luật định. Người anh muốn bàn với cậu vấn đề này vài lần, nhưng Leonard cố suy nghĩ càng ít càng tốt về tiền nong. Cậu nói dù tổng số là hai trăm ngàn, một triệu hoặc ba mươi triệu cũng chỉ là sự thay đổi tương đối ít với cuộc sống của mình. Leonard đang say sưa với luận văn tiến sĩ ở khoa Hóa trường đại học và hài lòng vì ngày càng thành công hơn trên đường đua. Bất kỳ ý niệm nào về việc bước chân vào kinh doanh cũng xa lạ với cậu. Nếu được thừa kế năm triệu, Leonard sẽ gửi hai triệu vào ngân hàng và đưa số còn lại biếu mẹ, vì cậu luôn cảm thấy lẽ ra mẹ cậu phải được nhận khoản trợ cấp ly hôn hào phóng hơn. Song về mặt tài chính, cả hai mẹ con vẫn đủ chi tiêu. Leonard chưa có dự định gì về gia đình riêng. Không cần hỏi, cậu nói thêm rằng những trải nghiệm thời thơ ấu không làm cho việc đó có triển vọng hấp dẫn.
Về phần các vị khách không là người nhà, Leonard Schelderup cho biết cậu không thực sự quan hệ với bất kỳ ai, ngoài những lời xã giao. Cậu nhận xét rằng đằng sau cái mặt nạ nghiêm nghị, ông Wendelboe có thể là người ấm áp hơn cha mình nhiều.
Leonard Schelderup xác nhận cậu liên hệ với người anh không thường xuyên. Mặc dù tuổi tác chênh lệch, họ khá hòa thuận và hầu như chưa từng có mâu thuẫn nào nghiêm trọng. Tuy vậy khi thời gian trôi qua, những khác biệt ngày càng rõ rệt và họ ít có điểm chung ngoài gia đình. Có lần, cha họ nhận xét rằng ông thất vọng vì cậu Leonard trẻ trung thiếu hào hứng với công việc kinh doanh, nhưng ít ra ông cũng có một người con trai say mê thứ khác hơn cái trò ăn chơi tiệc tùng.
Leonard Schelderup kể từ thời thơ ấu, cậu đã ăn ý với “cô Magdalena” dù họ hiếm khi gặp nhau. Cậu không che giấu ác cảm với người vợ thứ ba của cha, người đã sử dụng tuổi trẻ và sắc đẹp để chiếm đoạt vị trí của mẹ cậu. Tuy nhiên, hiện nay quan hệ của họ đúng nghi thức và tương đối thoải mái, ít ra là bề ngoài. Sandra Schelderup là một phụ nữ thông minh và lanh lợi, mỗi khi họ gặp nhau bà thường lịch sự hỏi thăm cậu cả về thể thao lẫn công việc. Leonard Schelderup nhăn mặt lúc nói thêm rằng vài năm gần đây, bà mẹ kế tỏ ra thực sự quan tâm đến thành công trong cuộc sống của cậu hơn người cha ruột.
- Chắc là tôi nên kể với anh một tình tiết xảy ra năm ngoái, - Leonard Schelderup bất chợt nói. Cậu nói tiếp, nhưng lúc này giọng cậu hơi run. - Một hôm, tôi tình cờ gặp cha tôi ở trung tâm Oslo, trên phố Karl Johan. Ông đang đứng nói chuyện với một đối tác làm ăn. Cha tôi bắt tay tôi gần như kính trọng và giới thiệu: “Đây là giám đốc Svendsen, ông ấy kể với ba là đã thấy con chạy đua ở Bislett và muốn chúc mừng con giành danh hiệu vô địch Na Uy. Ba cũng muốn chúc mừng con. Con đã thực sự trở thành một vận động viên điền kinh cừ khôi!” Tôi bắt tay cả hai người. Sau đó tôi đi và ngồi một mình trong góc hiệu cà phê, vừa cầm tách cà phê vừa khóc. Tôi đã hai mươi sáu tuổi và lần đầu tiên tôi nghe thấy cha tôi nói một lời động viên về sở trường thể thao của tôi. Và đó cũng là lần cuối cùng.
Leonard rất ít liên hệ với cô em gái khác mẹ. Cũng giống như người anh, Leonard coi cô gái là một người thông minh và kiên quyết khác thường. Mặc dù cô không tham gia môn thể thao nào, Leonard vẫn tin em gái mình cũng là người đầy tính cạnh tranh.
- Chúng tôi chỉ gặp nhau trong những dịp họp mặt gia đình và em gái tôi giống như một con mèo trong nhóm người trưởng thành. Nó đi lại lặng lẽ, nhưng có đôi mắt tinh và đôi tai thính của một dã thú. Tôi ngờ rằng móng vuốt và răng của nó rất sắc, chỉ chưa từng thử xem, - cậu kết luận.
Sự tò mò của tôi về con gái của Magdalon Schelderup không sao giảm bớt vì nhận xét này. Nó khiến tôi chấm dứt cuộc thẩm vấn Leonard Schelderup tương đối nhanh. Cậu có vẻ nhẹ nhõm và hỏi liệu cậu có được phép tiếp tục công việc nghiên cứu và huấn luyện như thường lệ không. Leonard bắt tay tôi gần như nhiệt tình khi tôi cho phép, và hứa sẽ sẵn sàng trả lời những câu hỏi khác nếu có.
Cậu con thứ của Magdalon Schelderup có vẻ ít tự tin trong ngôi nhà thời thơ ấu so với người thanh niên tôi nhớ trong cuộc thi giành danh hiệu vô địch điền kinh Na Uy tại Bislett hồi năm ngoái. Tôi phải thừa nhận rằng tôi vẫn mến cậu và hy vọng cậu không phải là kẻ giết người. Nhưng căn cứ vào hoàn cảnh, tôi không thể loại trừ khả năng đó.
VIIIChỉ vài bước chân đưa Maria Irene Schelderup vào phòng, tôi hiểu ngay vì sao người anh trai lại ví cô như một con mèo. Cô gái mười tám tuổi đi như lướt trên tấm thảm, tự tin và hầu như lặng lẽ trên đôi bàn chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn. Cái bắt tay của cô mạnh mẽ lạ lùng, không hề run như tôi cảm thấy trong bàn tay anh trai cô. Khi đã yên vị thoải mái trên ghế, cô ngả người tới trước gần như háo hức, nhưng đợi cho đến khi nghe thấy câu hỏi của tôi.
Trong phần đầu cuộc trò chuyện, Maria Irene Schelderup rất kiệm lời và trả lời rõ ràng, súc tích. Vâng, cái chết của cha cô thật bất ngờ. Không, cô không có lý do gì nghi ngờ bất kỳ người nào có mặt hơn những người khác.
Sau đó cô nói chậm lại và bình tĩnh nói thêm rằng cái chết đầy kịch tính của cha cô, nói đúng ra không phải là một điều bất ngờ, bởi vì cuộc đời ông luôn gây ấn tượng mạnh như thế.
- Một mặt, - cô bổ sung, - cha tôi ngã xuống hôm nay, vào thời kỳ đẹp nhất trong đời, là đúng lúc.
Tôi nhìn Maria Irene dò hỏi và cô nói tiếp, vẫn bình tĩnh không kém:
- Cha tôi là một người sáu mươi chín tuổi rất năng động, nhưng xét cho cùng, ông sinh ra từ đầu thế kỷ. Thời gian đã bắt đầu phát huy tác hại của nó. Trong vài năm gần đây, cha tôi trở nên thận trọng hơn. Có thể nhận ra điều ấy trong cách ông lái xe. Trước kia, ông luôn chạy xe vượt quá tốc độ cho phép, nhưng hiện nay ông lái dưới mức đó. Thập kỷ vừa qua được coi là đỉnh cao sự nghiệp của ông, nhưng tôi không biết trong mười năm tới, ông có thể dẫn dắt tập đoàn đạt những thành tích mới không. Cá tính và ý chí của ông rất mạnh mẽ, nhưng ông không hiểu rõ công nghệ mới cũng như những nhu cầu và kỳ vọng của các thế hệ trẻ hơn đang thay đổi. Ông thích tiếp tục đe dọa người khác phải làm điều ông muốn. Ngày nay, tỏ ra tử tế và chu đáo rõ ràng là một chiến lược hiệu quả hơn rất nhiều.
Tôi chằm chằm nhìn, vừa bị lôi cuốn vừa khiếp sợ cô Maria Irene Schelderup trẻ măng và hỏi cô nghĩ gì về tương lai của công ty. Câu trả lời của cô nhanh đến không ngờ.
- Tất cả tùy thuộc vào thứ chúng tôi đang nín thở chờ đợi, nói cách khác là di chúc của cha tôi. Chúng tôi tham dự các bữa tối này phần lớn vì ông là Magdalon Schelderup, nhưng cũng còn vì chúng tôi đợi ông tiết lộ một số điều khoản trong chúc thư của ông. Nhưng chuyện đó chưa bao giờ xảy ra. Hoặc vì ông vẫn còn ngờ vực, hoặc ông chỉ muốn giữ chúng tôi trong tình trạng hồi hộp, phấp phỏng lo âu.
Cô gái do dự trong giây lát, rồi tiếp tục với sự hăng hái của tuổi trẻ.
- Về phần tài sản thừa kế, có lẽ cha tôi đã chết quá sớm vài năm. Người duy nhất trong các con có khả năng tiếp quản - nói cách khác là tôi - vẫn còn quá trẻ để có thể đứng đầu một tập đoàn hợp nhất tầm cỡ như thế, cả trên thực tế lẫn về mặt pháp lý. Có thể chia doanh nghiệp, nhưng như thế sẽ không có lợi vào thời điểm này. Tập đoàn đang bị công kích, hình như đang trong quá trình tiến hành vài giao dịch khiến tình hình năm tới không được minh bạch. Cha tôi cũng muốn giữ bí mật với những người gần gụi nhất. Đây là một phần trong chiến lược của ông để kiềm chế và giữ mọi người quanh ông sẵn sàng hành động. Vì thế không một ai trong chúng tôi biết di chúc viết gì. Tôi biết mẹ tôi đã ép ông để lại cho tôi một công ty càng vững chắc càng tốt, nhưng tôi không biết bà có thành công hay không. Thuyết phục cha tôi làm bất cứ việc gì đó không phải dễ, kể cả với mẹ tôi. Tôi đoán anh sẽ sớm được nghe nội dung di chúc và tôi rất cảm kích nếu anh có thể gọi điện cho tôi càng sớm càng tốt khi bí mật ấy được sáng tỏ.
Câu sau cùng được nói kèm nụ cười mỉm khá ngọt ngào. Tôi nhớ lơ mơ là mình gật đầu đáp lại, và nụ cười của cô càng nở rộng càng ngọt ngào hơn. Maria Irene Schelderup xứng đáng là con gái của cha cô: một con bạc cần quan sát. Cảm giác này không thể dẹp bớt khi cô tiếp tục.
- Vậy thì, tình hình là thế này: tôi có thể có động cơ giết người, nhưng trong vụ này nó tùy thuộc vào nội dung chúc thư mà tôi chẳng hay biết tí gì. Nhưng tôi không giết cha tôi, dù chúc thư ra sao. Tôi hiểu rằng ông không còn lại nhiều năm nữa, và đằng nào tôi cũng muốn học hành vài năm trước khi tiếp quản việc kinh doanh. Thế nên thời gian có lợi cho tôi.
Tôi cảm thấy hơi hoang mang và cố lấy lại quyền điều khiển cuộc thẩm vấn bằng cách hỏi về quan hệ của Maria Irene và của cha cô với hai người anh trai khác mẹ.
- Tôi chịu ảnh hưởng của họ rất ít, dù tích cực hay tiêu cực. Tất nhiên là Leonard gần gũi với tôi hơn Fredrik, cả về tuổi tác lẫn tính cách. Nhưng khoảng cách giữa chúng tôi vẫn quá lớn để tôi có bất kỳ cảm nhận nào về tình anh em. Thực ra, việc chúng tôi có hai bà mẹ không thể nhìn mặt nhau đương nhiên cũng gây ảnh hưởng không nhỏ. Tôi lớn lên là con duy nhất của mẹ tôi, nhưng luôn đau đớn nhận thấy rằng cha tôi có hai người con trai lớn hơn.
Tôi cố cưỡng lại sự cám dỗ hỏi Maria Irene có tình cảm với bất cứ ai ngoài bản thân ra, và ngụ ý cô nên tiếp tục kể về những người anh của cô. Dường như đây cũng là chủ đề cô đã suy nghĩ nhiều.
- Về quan hệ của các anh tôi với cha chúng tôi, tôi nghĩ ông không hy vọng nhiều vào Fredrik. Một người cha chú ý đến từng chi tiết và một người con trai chẳng quan tâm đến thứ gì thật không tương hợp. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu cha tôi luôn không tuân theo luật pháp, nhưng với ông, điều quá ư quan trọng là ông chưa bao giờ bị kết tội và không một người nào có cơ hội làm việc này. Còn Fredrik có thể dán kín một bức tường bằng tiền phạt vượt quá tốc độ và đỗ xe trái phép. Có lần cha tôi đã bình luận rằng ông từng hy vọng có một người con trai hiểu luật của địa phương đủ để tránh né chúng, nhưng thay vào đó, ông lại có một người con thậm chí còn chẳng biết rằng luật pháp đang tồn tại. Tôi chắc đây là nỗi thất vọng lớn của ông, và chỉ riêng điều đó khiến tôi nghĩ Fredrik sẽ chẳng nhận được gì nhiều trong di chúc. Nhưng cha tôi là người khó đoán trước, kể cả với tôi, ông có những ý nghĩ cổ lỗ đến lạ lùng và phi lý về con trai cả và thanh danh của gia đình cùng bao thứ đại loại thế. Có thể tôi nhầm, nhưng tôi vẫn đoán Fredrik sẽ nhận được ít nhất.
Maria Irene nói tiếp với vẻ thành khẩn hơn.
- Tôi thấy Leonard là một đối thủ nguy hiểm hơn nhiều. Anh ấy chưa bao giờ sử dụng tài năng của mình theo cách mà cha tôi mong muốn. Nhưng Leonard vừa có tài vừa có nghị lực, và trong những năm gần đây, hình như cha tôi cảm thấy gần gũi anh ấy hơn. Rốt cuộc, thành công của Leonard trên đường đua đã trở thành lợi thế của anh ấy. Cha tôi chẳng quan tâm đến bất cứ ai trong môn điền kinh, nhưng ông tán thành bất cứ thành công nào được nêu trên báo chí và được những người ông gặp bàn tán. Vì thế tôi cược rằng có lẽ Fredrik chỉ nhận được 200 ngàn krone theo đúng luật định, phần còn lại sẽ chia cho Leonard và tôi theo cách này cách khác.
Lúc này, tôi chằm chặp nhìn Maria Irene như bị thôi miên, choáng váng. Thật dễ hiểu ý Leonard khi cậu nói cô là con người đầy tính cạnh tranh.
- Vậy cô định nói Leonard có động cơ tài chính rất mạnh để bây giờ muốn giết cha, trước khi thời gian đùa giỡn với lợi thế của các vị?
Nụ cười của Maria Irene thoáng nhanh và nở rộng không ngờ. Nó khiến tôi liên tưởng tới một con sư tử cái nhìn thấy con linh dương.
- Là anh nói đấy nhé, nếu một kết quả ly kỳ cho các sự kiện, và là một kết cục mà tôi sẽ không bỏ qua. Nhưng khó mà biết được. Chưa biết chính xác ra sao, nhưng Leonard khá khó lường theo một cách riêng. Anh ấy là một trong những người mạnh mẽ nhất mà tôi biết, hoặc nếu anh thích rõ hơn, là một trong những người yếu kém mạnh nhất. Leonard là người mạnh nhất ở những nơi anh ấy cảm thấy an toàn và được biết đến, như trên đường đua hoặc trong thư viện. Tuy nhiên, anh ấy trở nên rất kém cỏi khi bị ép vào những nơi anh ấy cảm thấy không an toàn, và tôi cho rằng anh ấy là người rất lẻ loi. Thế nên nếu tôi là anh, tôi sẽ để ngỏ mọi lựa chọn.
Tôi chợt nhớ đến câu bà Magdalena Schelderup nói về người anh trai rất am hiểu người khác nhưng chỉ hành động vì lợi ích bản thân. Hình như con gái ông cũng giống cha về khía cạnh này. Lúc này cô đang giòn chuyện, và tiếp tục sau một lúc tạm dừng ngắn ngủi.
- Thế đấy, nhờ sự kém cỏi của anh trai tôi, nên những năm qua tôi trở thành con cưng của cha tôi, mặc dù thực lòng ông thích con trai hơn con gái. Tôi nhớ có vài lần lúc tôi còn nhỏ, khi ông được hỏi về vị thế của phụ nữ trong thời đại chúng ta, ông đã dẫn lời nguyên thủ tướng Đan Mạch từng phát biểu rằng về phần mình, ông ta vẫn thích nhất những người phụ nữ ở tư thế nằm ngửa. Nhưng trải nghiệm với tôi và các anh khác mẹ của tôi dường như đã làm ông thay đổi suy nghĩ đó. Năm ngoái, vài lần cha tôi nói với tôi rằng bất chấp đôi tay gầy gò, tôi là đứa con có khả năng nhất và mạnh mẽ nhất trong các con của ông.
- Còn mẹ cô thì sao?
Maria Irene lại mỉm cười.
- Tôi có cái gì đó của cả hai người. Mẹ tôi là một trong những người mạnh mẽ nhất và sáng suốt nhất mà tôi biết, nhưng dù sao đi nữa, bà hay phản ứng theo cảm xúc. Vì thế nêu tôi là anh, tôi cũng sẽ để ngỏ mọi lựa chọn.
Không giống người anh trai, trong tình trạng bị thẩm vấn Maria Irene tỏ ra thoải mái lạ lùng. Tôi nhận thấy phong thái của cô rất quen, và tôi không chọi nổi. Cô nhìn xoáy vào mắt tôi và sôi nổi nói tiếp:
- Anh phải hiểu cha tôi là người bảo thủ về nhiều mặt, nhưng ông cũng là một nhân vật rất phức tạp. Ông không thể chịu nổi một nhóm người trong xã hội, cái nhóm mà Fredrik ngày càng trở thành biểu tượng, những người được ban cho mọi cơ hội trên đời nhưng chẳng nắm bắt được gì. Cha t?