← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ BA Chiếc hộp đựng một thứ lạ kỳ-I

Edward Rønning Con là một thanh niên chính xác lạ thường. Đúng 8 giờ 30 phút thứ Hai ngày 12 tháng Năm 1969, anh ta gọi điện cho tôi từ văn phòng và đọc cho tôi nghe di chúc của Magdalon Schelderup từ đầu đến chữ ký. Chỉ mất vài phút, dù anh ta đọc chậm đến bực mình. Di chúc đề ngày 6 tháng Năm cùng năm, gồm bốn đoạn ngắn. Sau những cuộc thẩm vấn hôm trước, nội dung đặc biệt thú vị khiến tôi sửng sốt, mặc dù tôi phải thừa nhận rằng ý nghĩa của nó vẫn còn khó hiểu.

Đoạn đầu tiên trong di chúc viết rằng giám đốc Hans Herlofsen, nhờ quá trình phục vụ lâu dài và trung thành, được xóa “một khoản nhỏ” vẫn còn tồn tại trong “khoản nợ cá nhân từ năm 1949”. Tiếp theo là một câu ngắn viết rằng “giấy nợ kèm theo tài liệu viết tay” đã được hủy.

Đoạn thứ hai của di chúc chỉ nơi Magdalon Schelderup để lại cho vợ là Sandra Schelderup hai triệu krone.

Đoạn thứ ba gồm hai câu, Magdalon Schelderup xác nhận mình là cha của đứa con trong bụng Synnøve Jensen và để lại cho cô số tiền 200 ngàn krone làm “chi phí sinh hoạt và chi tiêu cần thiết trong thời gian còn lại của thai kỳ”.

Đoạn thứ tư dài nhất và rắc rối nhất, nói rõ phần tiền và tài sản còn lại của Magdalon Schelderup sẽ chia đều cho các con của ông vào ngày mùng 6 tháng Năm 1970. Cả ba người con lớn của ông, mỗi người sẽ nhận ngay lập tức khoản tiền không nhiều hơn phần tối thiểu hợp pháp của mình là 200 ngàn krone.

Tôi cảm ơn luật sư đã giúp đỡ và quả quyết sẽ có mặt tại đó nghe đọc di chúc, và yêu cầu giữ kín nội dung cho đến khi công bố trước toàn thể gia đình và bạn bè của người đã khuất.

Vừa đặt máy xuống tôi nhận ra quên chưa hỏi trước kia có bản di chúc nào khác không, và nếu có thì viết những gì. Khi tôi cố gọi lại cho viên luật sư hai lần, cả hai máy đều bận, nên tôi quyết định để việc đó lại sau khi đọc di chúc. Trong thời gian chờ đợi, tôi có quá nhiều việc phải làm rồi.

II

Báo cáo sơ bộ của nhà bệnh lý học đúng như mong đợi. Magdalon Schelderup tử vong vì suy tim, do dị ứng cực mạnh với lạc. Ở độ tuổi của mình, ông là người sung sức, nhưng không có cơ hội sống sót qua căn bệnh như thế. Nói cách khác, trái tim và cơ thể của ông là của một người sáu mươi chín tuổi, đã làm việc vất vả cả đời, và bị dị ứng lạc vô cùng nghiêm trọng.

Các bài tường thuật trên báo không nêu lên bất cứ vấn đề gì, nhưng cũng không giúp giải quyết điều bí ẩn. Hội nghị Đảng Lao động thống trị các tiêu đề. Friheten, tờ báo cộng sản có một bài trên trang nhất với tiêu đề “Nhà tư bản quyền lực bị giết” và bóng gió đến một âm mưu trong “nhóm tư bản tham nhũng của Na Uy”. Các báo khác thận trọng hơn khi đợi xem diễn biến tiếp theo sau vụ người chết, và thay bằng cả đống giấy mực viết về sự giàu có và miêu tả sơ lược tiểu sử trước đó của người quá cố. Aftenposten là tờ báo duy nhất công bố danh sách các thực khách có mặt trong bữa tối đó và kết bài bằng câu “Chúng tôi rất hài lòng xác nhận rằng thanh tra cảnh sát Kolbjørn ‘K2’ Kristiansen nổi tiếng được chỉ định phá vụ án này và hồi hộp đợi xem anh ấy có thể leo lên tầm cao của thành công trước đây trong vụ án cực kỳ bí ẩn này không.” Tôi rất hài lòng khi đọc thông tin này nhưng cũng mỗi lúc một lo lắng hơn, vì hiểu mình có thể ngã đau biết chừng nào.

Sau đó, tôi nhanh chóng gạt báo chí sang một bên để theo đuổi những ưu tiên của Patricia, chuyển từ di chúc của Magdalon Schelderup sang câu hỏi ông ta nghĩ đến loại thư nào sẽ gửi vào ngày thứ Hai cho một hoặc vài người trong số các thực khách tại bữa tối Chủ nhật của ông.

Không tìm thấy các bức thư chưa gửi trong văn phòng hoặc phòng ngủ của người đã chết. Cả hai phòng đều ngăn nắp đến mức khó mà hình dung bất cứ thứ gì quan trọng hoặc phổ biến có thể giấu ở đó. Văn phòng của Magdalon Schelderup có một giá sách và một dãy sách thương mại, nhưng không hề lưu trữ bất cứ thư từ nào.

Qua điện thoại, bà Sandra Schelderup đã nói xẵng với tôi rằng bà không biết gì về những bức thư chưa gửi trong những ngày gần đây, bà cũng không hay hỏi han về bất cứ chi tiết quan trọng hay thứ yếu trong kinh doanh. Có lần, chồng bà đã nói đùa rằng bà không cần để cái đầu xinh xắn của bà lo lắng về việc kinh doanh của ông, chỉ nên quan tâm về xu hướng tình dục của ông mà thôi. Nói cách khác, tôi sẽ phải hỏi viên giám đốc về những tài liệu quan trọng liên quan đến kinh doanh, và hỏi thư ký của người quá cố về những việc tầm thường hơn.

Hôm nay bà Schelderup có phần cay đắng và căng thẳng, nhưng tôi có thể hiểu được. Bà vui hơn khi tôi nhắc đến bản di chúc và nói bà mong đợi một kết luận nhanh chóng. Bà lưỡng lự giây lát, rồi đồng ý di chúc sẽ được đọc tại Lâu đài Schelderup vào 3 giờ chiều hôm đó.

Giám đốc Hans Herlofsen đang ở văn phòng công ty tại trung tâm thành phố và trả lời ngay hồi chuông thứ hai. Ông ta chẳng quan tâm gì đến những bức thư chưa gửi, chỉ xác nhận rằng mọi tài liệu kinh doanh đều được gửi tới văn phòng ông rất mau lẹ. Tuy vậy, trong vài tuần lễ gần đây không có tài liệu nào quan trọng, và chuyến thư sắp tới không liên quan đến kinh doanh không thuộc phạm vi của ông. Tóm lại, cơ hội ông giúp được tôi là 0%, và ông khuyên tôi nên liên hệ với thư ký của Magdalon Schelderup.

Tôi hứa làm việc này, nhưng nói thêm tôi cần hỏi ông vài chuyện riêng tư. Một lúc im lặng ở đầu dây bên kia. Lúc đó, tôi đề nghị sẽ đến gặp ông ta tại văn phòng trong thành phố. Ông vội đáp ngay rằng ông sẽ đến đồn cảnh sát gặp tôi, để tránh làm đám nhân viên văn phòng xáo động. Ông hỏi liệu có thể tới vào giờ ăn trưa không, để không bị gián đoạn công việc trong ngày một cách không cần thiết. Tôi đồng ý ngay lập tức và vị giám đốc hứa sẽ tới đồn vào buổi trưa. Rồi ông đặt ống nghe xuống, hấp tấp khác thường.

Chuông điện thoại ở Sørum reo một lúc lâu. Tuy vậy, đến hồi chuông thứ bảy thì Synnøve Jensen cũng nhấc máy, hết cả hơi khiến ngay lập tức tôi hình dung cô chạy từ buồng tắm xuống cầu thang để nhận điện. Lúc đã lấy lại hơi thở, cô nói không biết gì về thư từ mà Magdalon Schelderup định gửi vào ngày thứ Hai. Tuần trước, cô đã viết hai bức thư và cả hai đều là thư chúc mừng đúng chuẩn mực và cô đã gửi đi trong ngày. Nếu ông có thư nào tự viết, thông thường ông để lại trên bàn hoặc trong ngăn kéo.

Ngay lập tức, tôi lọc ra công thức “thông thường ông để lại” và hơi cao giọng hỏi liệu ông có để ở nơi nào khác nếu không muốn để trên bàn hoặc trong ngăn kéo. Giọng cô hình như chậm dần lúc trả lời. Có cảm giác tôi đã đánh trúng một thứ mạnh hơn.

- Khi đó, chúng được khóa trong một cái hộp kim loại mà ông ấy cất ở đây.

Cô gần như thì thào những từ cuối cùng, trước khi thu hết can đảm và tiếp tục bằng giọng to hơn, nhanh hơn.

- Nhưng cho đến bây giờ tôi không mở hộp và cũng không biết bên trong đựng gì, hoặc có thể là cái gì. Ông ấy dặn cái hộp lúc nào cũng phải khóa và không bao giờ được mở, trừ khi ông ấy ở đây, - cô nói thêm, sợ sệt.

Chắc là cô cũng nghĩ như tôi. Mặt khác, lý do đó sắp đổ sụp. Cô nói tiếp sau vài giây im lặng căng thẳng, giọng cô càng tuyệt vọng.

- Chúa ơi, tôi mới ngu làm sao. Lẽ ra tôi nên nói đến cái hộp với anh từ hôm qua. Cái chết là một cú sốc. Tôi thực sự không nghĩ ra mình có thể có gì quan trọng trong nhà, mà anh cũng không hỏi…

Tôi hỏi ngay lập tức Magdalon Schelderup đến đó lần cuối là khi nào và ai có chìa khóa hộp. Cô đáp, đầm đìa nước mắt, rằng ông ta đến đó vào hôm thứ Sáu. Theo cô biết chỉ có hai chìa khóa. Một cái ở vòng đeo chìa khóa của ông, cái kia trong tay cô.

Cô đề nghị mở hộp ngay, nếu tôi cần. Thay vào đó, tôi yêu cầu cô ở nhà và không động đến cái hộp cho đến khi tôi tới đó.

III

Mất gần bốn lăm phút tôi mới tới bên ngoài trang trại ở Sørum. Sự trái ngược với Lâu đài Schelderup ở Gulleråsen chắc chắn không phải vì nó rộng lớn hơn. Mảnh đất không lớn hơn dải đất trồng khoai tây trước nhà. Ngôi nhà nhỏ và đang sụt lún. Nom như nó được dựng lên bởi những người vụng về và một người thợ mộc run tay.

Synnøve Jensen vẫn bình thường và thân thiện như trước. Vừa thoáng thấy tôi qua cửa sổ, biết đúng là tôi, cô mở ngay cửa ra vào và tặng tôi nụ cười can đảm. Cô đã pha cà phê và đặt ít bánh ngọt lên bàn trong phòng khách nhỏ. Tầng trệt gồm một căn bếp nhỏ, gần bằng phòng khách. Một cầu thang trông giống thang gấp mười bậc dẫn lên tầng trên, tôi có thể thấy ba cánh cửa, tất cả đều đóng.

Chủ nhân căn nhà huơ tay xung quanh, dường như xin lỗi.

- Nhà tôi chẳng có gì đáng khoe. Nhưng đó là tất cả thời thơ ấu của tôi và là của người cha nghèo khổ để lại cho tôi. Tôi nghe mọi người quen biết ông lâu kể lại, trước kia ông là một thợ mộc lành nghề. Nhưng rồi rượu chè làm hỏng ông. Rõ ràng ông đã lấy nguyên vật liệu của một tòa nhà bị cháy rụi để dựng ngôi nhà này.

Tôi gật đầu thông cảm. Thật khó mà không thương cảm với ngôi nhà nhỏ xập xệ và cô chủ đang mang thai. Nhưng lúc này mọi sự chú ý của tôi đều tập trung vào cái hộp kim loại trên bàn bếp, nhốt kỹ bao điều bí mật.

- Tôi thề chưa đụng vào nó từ lúc anh gọi điện. Nhưng dù sao thì tuần trước tôi đã mở nó nên dấu tay của tôi sẽ còn ở đó, - cô hấp tấp nói thêm.

Tôi nhấc cái hộp lên bàn phòng ăn và yêu cầu Synnøve Jensen không nhìn lúc tôi mở. Cô nghiêm trang gật đầu và đưa ngay chìa khóa cho tôi. Bàn tay cô run run lúc tôi chạm vào. Cô kiên quyết ngoảnh đi, mắt nhìn đăm đăm xuống sàn trong lúc tôi mở khóa hộp.

Tôi không biết mình có thật lòng mong tìm thấy một bức thư trong chiếc hộp hay không, nhất là loại thư tôi muốn tìm. Nhưng chắc chắn tôi không lường trước thứ mình sẽ tìm thấy.

Một chồng thư xếp gần đầy hộp.

Có mười bức cả thảy. Tất cả đều niêm phong và đề địa chỉ viết tay. Bức thư trên cùng tôi nhìn thấy ngay lúc mở hộp và sửng sốt thấy đề “Cô Synnøve Jensen”. Bức thứ hai đề “Ông Fredrik Schelderup”. Bức thứ ba để “Ông Leonard Schelderup”; còn bức thứ tư đề “Cô Maria Irene Schelderup”. Tất cả các thư khác tiếp theo thành một chuỗi. Các thư trong hộp đều đề gửi cho mười thực khách có mặt tại bữa tiệc cuối cùng của Magdalon Schelderup.

Sức cám dỗ mở ngay một trong những bức thư đó thật khó cưỡng. Tất cả trông đều giống nhau, nên tôi bắt đầu bằng bức thư trên cùng. Nó chứa các bản sao của hai tài liệu. Một là bản di chúc mà luật sư Edward Rønning đã đọc cho tôi nghe. Bản sao kia là một bức thư rất ngắn gọn như sau:

Gulleråsen, 12 tháng Năm 1969

Xin thông báo với cô, kèm theo đây là một bản sao di chúc của tôi đã công chứng. Đây là quyết định cuối cùng của tôi về nội dung.

Chân thành,

Magdalon Schelderup

Mấy dòng chữ ắt phải nhảy múa trước mắt tôi vài phút. Patricia đã đúng. Magdalon Schelderup đã định gửi một bức thư quan trọng vào ngày thứ Hai, có thể trước hoặc sau khi gặp tôi. Ông ta đã viết tay các bức thư và chuẩn bị mười bản sao giống hệt nhau để gửi đi. Nhưng tôi không thể hiểu hết ý định và mục đích của chúng là gì.

Khi tôi biết được nội dung của bản di chúc, dường như tôi nhìn nhận nó nghiêm túc hơn, có ba người được lợi nhất là hai con trai và tình nhân của Magdalon Schelderup. Căn cứ vào những điều tôi biết, ông ta sợ một người trong bọn có thể cố giết mình ngay khi nhận được thư. Nếu vậy, rất có khả năng ai đó đã chặn ông ta từ trước. Nhất là khi người đó biết nội dung bản di chúc đã ở đây từ ba ngày, trong cái hộp kim loại mà người tình của ông ta có chìa khóa. Cô ta đã thề với tôi là chưa dùng đến nó.

Synnøve Jensen hiển nhiên là một phụ nữ có ý chí mạnh mẽ. Vài phút sau, lúc tôi đóng cái hộp, cô vẫn ngồi ngoảnh mặt đi, mắt nhìn xuống. Cuối cùng, cặp mắt khiếp đảm của cô gặp cái nhìn của tôi qua bàn và các tách cà phê chưa đụng tới. Tôi cảm thấy thương cô nếu cô thực sự không phải là kẻ sát nhân máu lạnh, nhưng tôi ngờ cô chính là kẻ đó. Vì thế tôi không được thương xót, hy vọng là có thể phá được vụ này ngay lập tức và ngay tại chỗ.

- Trong hộp có vài bức thư, bức trên cùng đề gửi cô.

Một ánh long lanh thoáng trong mắt Synnøve Jensen, nhưng cô không ngoảnh đi.

- Tôi thực sự không biết chúng ở đây. Ông ấy yêu cầu tôi không bao giờ được mở hộp nếu không có ông ấy ở đây, và tôi đã làm như ông bảo, - cô nói. Giọng cô nghẹn ngào và không rõ, nhưng đủ to để nghe thấy. Cô nhắc lại lời biện hộ ngắn gọn thêm hai lần nữa, như thể đó là lời tuyên thệ.

Tôi không chắc nó là thật hay không. Nhưng tôi hiểu mình không thể bắt cô thay đổi lời giải thích. Vì thế tôi đề nghị cô kể lại chuyện Magdalon đến đây vào tuần trước.

Lúc đầu cô lắp bắp và sụt sịt, nhưng dần dần cô bắt đầu nói mạch lạc hơn. Sau khi hết giờ làm, ông đề nghị đưa cô về nhà. Trước kia ông đã làm việc này, và hầu như lần nào ông cũng vào trong nhà. Họ tạt vào một hiệu cà phê ở Sørum để ăn tối. Lúc về đến nhà, cô pha cà phê cho ông, nhưng họ lên phòng ngủ, không đợi pha xong. Sau đó, ông xuống dưới vừa mang cà phê lên cho cô vừa mỉm cười. Cô không trông thấy ông để gì vào trong hộp, nhưng ông có chìa khóa riêng và có thể ông cất những bức thư kia vào trước hoặc sau khi ông mang cà phê cho cô. Cô quá mệt và không dậy nổi cho đến lúc ông ra về.

Nghe có vẻ không mấy thuyết phục. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng không thể loại trừ khả năng này. Vì vậy tôi nhanh chóng quyết định mang cái hộp kim loại - chứ không phải Synnøve Jensen - theo mình. Tôi lệnh cho cô phải ở nhà cho đến khi tới Lâu đài Schelderup nghe đọc di chúc vào cuối chiều hôm đó.

Synnøve Jensen ngước nhìn tôi, rõ ràng là hoảng hốt, nhưng ngay lập tức tươi tỉnh lên khi tôi nói sẽ có mặt ở đấy nên cô sẽ an toàn.

Trên đường về thành phố, tôi cảm thấy khá chắc Synnøve Jensen sẽ giữ lời và tới buổi đọc di chúc. Bất cứ ý định bỏ trốn nào cũng là lời thú tội rành rành, và cũng khó hình dung cô chạy trốn bằng cách nào. Tuy vậy, tôi cảm thấy khó mà tin chắc vào khả năng có thể cô là kẻ sát nhân.

IV

Về tới đồn, việc đầu tiên là tôi kiểm tra những phong bì khác đựng cùng các tài liệu như nhau. Sau đó tôi gửi cả cái hộp kim loại cùng các bức thư đi lấy dấu vân tay kèm chỉ thị là việc khẩn và phải làm xong trước 3 giờ chiều.

Trong các hồ sơ thống kê cũng như báo cáo của cảnh sát không có gì quan trọng liên quan đến những con bạc quyền lực ngoài Magdalena Schelderup năm 1945 bị kết án nộp một ngàn krone tiền phạt và phải ngồi tù hai tháng. Một báo cáo ngắn về lý do: “là thành viên của Nasjonal Sampling (NS) và dính líu với các lực lượng chiếm đóng về tài chính”. Magdalon Schelderup có lý lịch sạch sẽ. Về những vị khách còn lại tại bữa tiệc cuối cùng của Magdalon Schelderup, chỉ có một hồ sơ mỏng về người con trai cả, Fredrik. Anh ta phải nộp phạt hai lần trong những năm 1960 vì lái xe trong khi say rượu và bị thu bằng lái. Lần thứ hai anh ta phải nộp một khoản phạt nặng vì cư xử “rất thiếu tôn trọng” cảnh sát. Anh ta chịu một khoản tiền phạt cố định và từ đó như những gì tôi thấy trong hồ sơ, trở thành người sống có nề nếp hơn hẳn. Tôi ghi nhận có lẽ Fredrik Schelderup có khí chất hơn là tôi đã thấy.

Vì tò mò, tôi kiểm tra luôn hồ sơ về cái chết của người em trai và cha mẹ đã mất của Magdalon Schelderup. Em trai ông ta bị kết án hai lần vì tội gian lận bất thành trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, và vào thời gian cậu ta chết năm 1946, bị điều tra vì hợp tác nhiều mặt với kẻ thù. Cha mẹ ông ta bị tố giác ăn trộm một số nữ trang năm 1915 và một năm sau bị công ty bảo hiểm kiện vì gian lận tiền bảo hiểm bất thành. Vụ việc liên quan đến món nữ trang quý nhất của mẹ Magdalon Schelderup, theo hồ sơ là một “viên kim cương đỏ đẹp lộng lẫy trên sợi dây chuyền vàng” bị mất trong một vụ trộm, còn tên trộm bị bắt giữ đã chối tội. Tuy vậy, vòng cổ đó không tìm thấy trong nhà Schelderup hoặc ở bất cứ nơi nào khác, và cuối cùng vụ này chìm xuồng.

Tóm lại, tôi không tìm thấy gì liên quan đến cuộc điều tra hiện tại, nhưng ghi lại tiểu sử một gia đình ba chìm bảy nổi.

Về hai thành viên phong trào Kháng chiến bị giết trong chiến tranh, tôi gọi điện cho Petter Johannes Wendelboe trước. Song tôi cảm thấy lần này không cần thúc ép ông ta vì những cái tên, và rốt cuộc tôi đọc kỹ hồ sơ lưu trữ về các án mạng chưa tìm ra từ năm 1941. Những cuộc giao tranh có vũ trang từ những năm 1940 là việc của quá khứ, cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng chiếm đóng chỉ thực sự trở nên gay gắt trong năm cuối của cuộc chiến.

Tôi nhanh chóng tìm ra hai vụ được nói đến, nhưng không thấy họ có liên quan gì. Những cái tên là Hans Petter Nilsen và Bjørn Varden, tuổi 38 và 28, sống tại Bekkestua ở Bærum, và Grønnegate ở Oslo. Cả hai được tìm thấy bị bắn chết trong phòng ngủ của họ vào buổi sáng, Nilsen vào ngày 12 tháng Năm còn Varden vào mùng 5 tháng Chín. Nilsen sống một mình và được một đồng nghiệp phát hiện ra khi anh ta không đến làm việc. Varden đã kết hôn và vợ anh ta ngủ trong phòng khác với đứa con nhỏ. Trong cả hai vụ đều không tìm thấy dấu vết bạo lực của kẻ sát nhân, được cho là hắn có chìa khóa hoặc vào, ra qua cửa sổ mở. Sự việc là cả hai nạn nhân bị bắn bởi cùng một thứ vũ khí - một khẩu súng lục Walther cỡ nòng 9x19 ly do Đức sản xuất, càng củng cố giả thuyết kẻ giết họ là một người. Vụ án khép lại vào mùa xuân năm 1943 vì thiếu bằng chứng và cũng không có gì cho thấy có thể làm sáng tỏ vụ việc. Một đơn kiện của vợ Bjørn Varden đệ trình năm 1949 không nhận được phản hồi, là tài liệu duy nhất từ sau chiến tranh. Từ “đã chết” bằng mực đỏ viết chéo trên cả hai hồ sơ.

Hồ sơ liên quan đến cái chết của Ole Kristian Wiig vào Ngày Giải phóng năm 1945 có phần dày hơn. Một giấy chứng tử xác nhận Wiig chết vì hai viên đạn bắn vào đầu. Có cả lời khai của hai cảnh sát tại hiện trường gây án, cả hai đều nói họ đang đứng bên ngoài ngôi nhà thì bất chợt nghe thấy tiếng súng ở tầng thứ nhất.

Họ trông thấy Magdalon Schelderup ở cửa sổ, ra hiệu cho họ chạy lên. Họ lao lên cầu thang và tìm thấy Wiig chết trên sàn, trong phòng làm việc của tên Đức Quốc xã. Cách đó vài bước, một thành viên trẻ của phong trào Kháng chiến đứng chết sững, khẩu súng trong tay. Lúc họ bước vào phòng, Magdalon Schelderup đã tước súng khỏi tay cậu ta rồi tuyên bố mình đã chứng kiến vụ giết người. Arild Bratberg rõ ràng quá hoảng loạn, đã cho lời khai ngay lập tức và ngay tại chỗ, rồi bị bắt giữ tại hiện trường.

Bản khai viết tay của Magdalon Schelderup là một bản giải trình chính xác về hiện trường gây án. Bratberg hình như bị trầm cảm, suốt ngày lo âu và bất chợt bắn Wiig không hề báo trước. Schelderup bổ sung một câu khá buồn ở cuối rằng Bratberg rõ ràng bị rối loạn tâm thần, lẽ ra Schelderup và những người khác trong nhóm nên nhận ra sớm hơn. Khẩu súng của Bratberg có dấu vân tay của cậu ta và của Schelderup là điều hoàn toàn bình thường vì Schelderup đã tước súng từ tay Bratberg.

Bản khai viết tay của Bratberg dài cả một chương. Tôi không biết nên cười hay khóc khi đọc nó. Theo Arild Bratberg, lúc cậu ta bước vào phòng thấy Wiig và Schelderup đang cãi nhau, Wiig giận dữ khua một tờ giấy vào mặt Schelderup. Schelderup đột nhiên lao tới Bratberg, vồ lấy súng của cậu ta và bắn Wiig. Rồi Schelderup mở cửa sổ vẫy ai đó. Sau đó, Schelderup vừa huýt sáo vừa bình tĩnh đi vòng quanh bàn, ve vẩy khẩu súng trong tay và hát bài được nhiều người yêu thích Mỗi ngày qua càng tốt đẹp hơn. Khi Bratberg hốt hoảng nói Wiig đã bị bắn trúng, Schelderup đáp lại: “Phải, nhưng chẳng có gì lạ; hơn nữa ngoài kia đang diễn ra chiến tranh kìa!” Anh ta bình luận như thể một người ngã xuống vào lúc đầu giờ chiều chẳng có gì khác thường, và nói thêm với một nụ cười: “Hơn nữa, đây chỉ là súng đồ chơi thôi. Cậu thử mà xem!” Schelderup đưa súng cho Bratberg và chỉ chộp lấy nó khi hai cảnh sát bước vào phòng. Trả lời câu hỏi then chốt là tờ giấy mà cậu khẳng định đã trông thấy ấy đâu, Bratberg khai Schelderup đã nuốt nó trước khi cảnh sát vào.

Tôi đã từng đọc nhiều lời khai lạ lùng, nhưng đây là bản lộn xộn và kinh khủng nhất. Chuyên gia tâm thần được tòa án chỉ định đã tuyên bố Arild Bratberg thần kinh không ổn định và cậu bị tuyên án giam giữ không thời hạn. Theo tài liệu đính kèm sau này, Bratberg bị giam cầm tại một khu kín trong nhà tù đến năm 1954, sau đó được chuyển tới bệnh viện tâm thần ở Gaustad. Cậu được phóng thích để quản chế năm 1960, nhưng lại bị cách ly vì bệnh tái phát vào những năm 1962, 1964, 1965 và 1967. Chân dung một người thần kinh ốm yếu phạm phải một tội ác bi thảm và vô nghĩa đủ rõ ràng. Chẳng có gì khó hiểu vì sao vụ này lại có ảnh hưởng tàn phá đến chị gái của Ole Kristian Wiig và gia đình bà đến thế. Nhưng tôi thấy khó tìm ra mối liên quan đến cái chết của Magdalon Schelderup.

V

Hans Herlofsen rất đúng giờ và tới vào buổi trưa như đã hẹn. Ông ta ăn vận chỉnh tề và căng thẳng trông thấy, ông gật đầu cảm kích lúc tôi đóng cửa văn phòng lại sau lưng ông.

Tôi mở đầu bằng câu hỏi thông thường về việc ông tới Lâu đài Schelderup vào chiều hôm đó như thế nào. Herlofsen đáp như thường lệ, ông lái xe riêng đến một mình nhưng hơi do dự khi tôi hỏi là xe nào. Ông gật đầu miễn cưỡng khi tôi hỏi có phải chiếc Peugeot màu xanh lơ là của ông không. Tôi cảm thấy đã thân thiện hơn. Lợi dụng cơ hội, tôi thử bắt nọn:

- Trong mấy năm đầu sau chiến tranh, quan hệ của ông với Schelderup tốt đẹp lắm phải không? Nhưng sau đó đã xảy ra chuyện và tôi nghĩ ông nên giải thích chi tiết hơn…

Tôi sẵn sàng đợi một phản ứng gay gắt, nhưng điều đó không xảy ra. Tuy nhiên, rõ ràng tôi đã đánh trúng đích. Hans Herlofsen bắt đầu run và gần như ngồi lún sâu vào trong ghế. Ông ta ngả người ra sau một lát, trước khi bắt đầu nói bằng giọng run run:

- Tôi mong anh hiểu cho, phải khó khăn lắm tôi mới nói ra chuyện này. Tôi sẽ nói thật, nhưng cầu xin anh đừng để mọi người biết đến, trừ khi chứng tỏ có dính dáng đến vụ giết người. Tôi có thể bảo đảm 100% với anh rằng nó không liên quan gì, - ông ta vội vàng nói thêm.

Tôi sốt ruột xua tay giục ông ta tiếp tục, nhưng cũng gật đầu thông cảm.

- Số phận thật trớ trêu vì suốt đời tôi chăm sóc hình ảnh cho người khác, lại không thể chăm sóc cho chính mình. Có một năm trong cuộc đời mà tôi không thể lý giải rõ ràng. Năm đó, bắt đầu từ ngày 12 tháng Hai 1948 tôi về nhà ở Lysaker, thấy vợ nằm chết trên sofa cùng đứa con trai lên hai trong tay. Và nó kết thúc vào ngày 14 tháng Hai 1949, khi tôi gặp Magdalon Schelderup vô cùng tức giận trong văn phòng và buộc tội tôi đã biển thủ của công ty 107.123 krone. Tôi nhớ rất ít về giai đoạn xen giữa. Tôi nhớ mình đã gửi con trai cho chị của vợ, rồi bắt đầu uống rượu một mình và đánh bạc vào các ngày nghỉ cuối tuần và hầu hết các buổi tối. Tôi không có cách giải thích nào khác, ngoài việc cho rằng đó là vì quá đỗi đau buồn, có lẽ được kết hợp với phản ứng chậm trễ trước những sự việc khủng khiếp của chiến tranh. Dù gì đi nữa, tôi vẫn không thể giải thích làm thế nào tôi lại đánh mất một khoản tiền lớn đến thế, dẫu tôi có cá độ nhiều con ngựa và đánh bạc bất cứ khi nào có dịp. Trên thực tế, tôi có thể làm bất kỳ việc không tưởng nào nhưng lừa đảo Magdalon Schelderup thì thật không thể nào lý giải nổi.

Tôi gật đầu nhất trí. Từ những điều nghe được về Magdalon Schelderup, ông ta đâu phải người để người khác dám lường gạt.

- Nhưng có lẽ ông nhớ chuyện xảy ra vào ngày 14 tháng Hai 1949?

Hans Herlofsen gật đầu và nuốt khan.

- Phải, và thật không may là nhớ rất rõ. Magdalon giận bầm gan tím ruột theo cách bình tĩnh đặc biệt của ông ấy, mỗi khi ông ấy bị mất tiền hay cảm thấy bị người khác lừa đảo. Ông ấy nói sẽ gọi điện cho cảnh sát, trừ khi tôi có thể đặt tiền lên bàn cùng tiền lãi trong ngày làm việc. Tôi thú nhận là tôi đã uống rượu hoặc chơi bạc hết rồi. Sau đó tôi quỳ gối trước bàn của ông ấy, khóc nức nở và van xin ông ấy thương tình đứa trẻ mất mẹ mà tha thứ cho tôi. Tôi hứa sẽ trả ông ấy từng krone cùng tiền lãi tính theo thời gian. Tôi giải thích rằng tài sản của tôi chỉ bằng một phần mười tổng số và tôi sẽ không thể kiếm tiền nếu tôi bị quy tội lừa đảo. Magdalon không nói có hoặc không, chỉ bảo hãy cút khỏi tầm nhìn của ông ấy. Ông ấy nói thêm rằng tôi có thể bò ra cũng không sao. Thế là tôi làm theo. Tôi bò bằng hai tay và đầu gối ra khỏi văn phòng Magdalon và không đứng dậy, cho đến lúc suýt vướng vào chân vợ ông ấy.

Rõ ràng nhắc đến hồi ức này thật vô cùng khó chịu và đau khổ.

Hans Herlofsen lau mồ hôi trên trán và ngừng trong giây lát trước khi nói tiếp.

- Tôi chẳng thể làm bất cứ việc gì trên đời, nên tôi trở lại văn phòng của mình và làm việc cật lực, hết mức có thể. Tôi đợi cảnh sát gõ cửa suốt cả ngày. Cuối cùng, vào cuối buổi chiều, chính Magdalon bước vào, không gõ cửa. Ông để hai tài liệu viết tay lên bàn, trước mặt tôi. Một là bản thú nhận tội lừa đảo. Cái kia là giao kèo, tôi xác nhận nợ ông ta 95.000 krone, trong đó 87.123 krone là “nợ chưa trả” và 7.877 krone là “lãi chưa trả”. Tổng số tiền phải hoàn trả với lãi suất 10%, mỗi năm nộp 10.000 krone. Ngôi nhà và toàn bộ tài sản của tôi dùng làm vật thế chấp phòng khi xảy ra sự cố trong khi trả nợ. Tôi được cho nửa phút để ký hoặc ông ấy sẽ gọi cảnh sát. Tôi ký, và ông ấy cầm cả hai tài liệu rời khỏi văn phòng. Từ đó tôi không bao giờ thấy chúng lần nữa, nhưng tôi ý thức được sự tồn tại của chúng từng ngày trong đời. Năm này tiếp năm khác trôi qua, chúng tôi chưa từng nhắc đến sự việc ấy một cách trực tiếp. Tôi trở thành nô lệ của ông ta, tôi phải tiếp tục làm việc với bất cứ mức lương nào do ông ấy quyết định, ông ấy có thể không bao giờ trả lời tôi, nhổ đờm vào mặt tôi cũng không sao. Đời tôi là một cuộc lao động khổ sai vô tận, là cuộc vật lộn không bao giờ kết thúc để trả nợ vào ngày 31 tháng Mười hai mỗi năm. Năm 1964, tôi đã phải đem cầm cố món nữ trang cuối cùng của vợ tôi để trả nợ.

Đầu tôi quay cuồng. Tình huống đủ dễ hiểu, nhưng chưa đủ chiều sâu. Trong số mười thực khách của Magdalon Schelderup, có nhiều số phận bi thảm với động cơ để giết người.

- Nhưng tôi đã cố dành dụm từng xu cho mỗi lần trả nợ. Từ ngày 14 tháng Hai 1949, tôi không động đến một giọt rượu hoặc mon men đến nơi cá độ. Tôi cố che giấu toàn bộ sự việc với mọi người, kể cả con trai tôi. Nó cho là tôi quá ư tằn tiện với chi tiêu hằng ngày và tôi có nhiều tiền gửi nhà băng. Tôi kể với hàng xóm là tôi phải cẩn trọng với tiền nong và hài lòng với chiếc ô tô mình có. Nhưng thực ra, tôi chỉ có thể mua một chiếc xe đạp mới.

- Ra vậy, 95.000 krone cộng với 10% lãi suất mỗi năm, hằng năm phải trả 10.000 krone từ năm 1949, còn lại…

Herlofsen ủ rũ gật đầu.

- Tôi e rằng vẫn còn tồn đọng 66.361 krone. Theo pháp luật, tội của tôi hiện giờ là thời gian ngồi tù, vì thế không dám liều báo cảnh sát. Nhưng tôi vẫn mắc nợ gia đình Schelderup. Nếu vụ việc tham ô của tôi bị vỡ lở, tôi không còn cơ hội kiếm được việc làm khác. Tôi đã để dành gần đủ khoản thanh toán năm nay và có 8.212 krone trong nhà băng. Nhưng ngoài số đó ra, tôi chẳng còn gì nữa, cho nên nếu họ nghe phong thanh về khoản nợ của tôi và đòi tôi phải trả ngay, tôi sẽ mất nhà và toàn bộ tài sản, gia đình con trai tôi và tôi sẽ một lần nữa phải ra đường. Bộ com lê của tôi là thứ đánh lừa: tôi cũng có thể buộc phải bán nó. Tuy vậy, điều tệ hại nhất vẫn là nỗi nhục nhã và đau đớn gây ra cho con trai tôi.

Hans Herlofsen nhìn tôi, vẻ đau buồn hiện rõ trên mặt và nói thêm:

- Tôi đoán chuyện đó sẽ xảy ra bây giờ.

Tôi thử an ủi viên giám đốc khốn khổ nhưng không dễ gì. Ông ta nói không biết bản thú tội và giấy ghi nợ hiện ở đâu, hoặc ai có thể biết về chúng. Nhưng chí ít ông cũng đoán giấy ghi nợ và khoản nợ chưa thanh toán đã được ghi nhận. Nếu công ty tan vỡ và giải thể, không chỉ mọi khoản nợ tồn đọng bị thu thập, mà vị trí của ông cũng mất. Còn nếu công ty không bị tan vỡ và giải thể, giải pháp duy nhất có thể là con gái và vợ của Schelderup sẽ nắm quyền điều hành. Trong viễn cảnh tối ưu, ông hy vọng mong manh rằng có thể tiếp tục thỏa thuận hiện hành, dẫu với lãi suất cao hơn và khoản trả nợ lớn hơn, ông nói với nụ cười chua xót. Hy vọng duy nhất của ông là trong di chúc hoặc các giấy tờ khác mà Magdalon Schelderup để lại, sẽ có chút khoan dung nào đó. Nhưng ông cũng thì thầm ước tính khả năng này là “dưới 15%”.

Lúc 12 giờ 30, tôi để Herlofsen đi. Ông ta xin lỗi tôi lần nữa vì hôm qua đã không kể hết mọi chuyện. Ông nói cảm thấy hầu như đất dưới chân mình đang mở ra sau những sự kiện của hai mươi tư giờ qua, và tôi tin ông. Lúc rời văn phòng tôi, Hans Herlofsen dựa vào khung cửa cho vững, và tôi tin bình thường ông không làm thế.

VI

Lúc 1 giờ, phần quan trọng của vấn đề nan giải được giải quyết khi tôi nhận được báo cáo miệng về cái hộp kim loại của Magdalon Schelderup và những bức thư trong đó. Nó là tin vui cho Synnøve Jensen. Dấu vân tay của cô ở bên ngoài hộp là đương nhiên, nhưng đã cũ và không rõ. Những dấu vân tay duy nhất trên các bức thư trong hộp đều của Magdalon Schelderup. Những phát hiện chuyên môn này không chứng tỏ lời khai của Synnøve Jensen là thật, nhưng cũng chứng tỏ là không giả, và đó là thứ quan trọng nhất ở đây và lúc này. Lệnh bắt giữ tôi để sẵn trên bàn vẫn còn đó, để trống.

Song bất ngờ lớn nhất xuất hiện tại đồn cảnh sát lúc 1 giờ 15. Một cảnh sát thở không ra hơi gõ cửa lúc một lá thư tới trong chuyến thư ngày.

Địa chỉ trên phong bì rất ấn tượng, viên cảnh sát nói. Tôi hiểu ý anh ta ngay tức khắc.

Bức thư đề gửi “Người chỉ huy cuộc điều tra vụ sát hại Magdalon Schelderup”. Tất nhiên, câu này chẳng phải là giật gân trong một ngày như hôm nay, nhưng nó trở nên ấn tượng hơn vì dấu nhật ấn trên thư là từ Oslo, vào ngày trước khi Magdalon Schelderup bị giết.

Nội dung gây xúc động không kém. Một tờ giấy gấp lại giản dị, nguyên bản đánh máy như sau:

Tại đây, thứ Bảy mùng 10 tháng Năm 1969

Thế là lão độc tài ngồi ở đầu bàn đã chết.

Ngay cả cô tiểu thư bé nhỏ ngồi bên phải lão cũng không rơi một giọt nước mắt lúc đời lão tắt.

Tôi tự hỏi anh sẽ xoay xở bao lâu để tìm ra ai đã rắc bột lạc lên món thịt quay?

Nếu anh không sớm nâng cốc ăn mừng, có thể sẽ thêm những người chết và các nhân chứng sẽ đỡ khoe khoang hơn…

Tôi ngước nhìn viên cảnh sát, nom anh ta xanh xao hơn thường lệ. Anh ta đảo mắt và nói lẽ ra tôi chỉ nói có cần giúp gì không. Rồi anh ta bối rối và rút lui thật nhanh.

Bức thư rõ ràng được viết bởi ai đó rất quen cách xếp chỗ và thực đơn tại Lâu đài Schelderup. Cũng như có thể thấy, thư đóng dấu bưu điện vào ngày trước khi xảy ra vụ giết người, ắt phải do một hung thủ tự tin đã lên kế hoạch và chắc chắn về hậu quả. Tôi có đủ lý do để hiểu rất nghiêm túc rằng lời cảnh báo sẽ có thêm các vị khách trong bữa tối cuối cùng của Magdalon Schelderup có thể bị giết hại. Tôi ngồi suy nghĩ vài phút, phần về kẻ sát nhân là ai, phần về tại sao hắn lại hợm hĩnh đến nỗi gửi cho cảnh sát thư báo trước bằng văn bản.

Tôi chụp lại một bản sao bức thư và gửi nguyên bản đi xét nghiệm, song không hy vọng nhiều lắm. Dù kẻ gửi thư này là ai đi nữa, hắn ta hoặc ả ta cũng có thể để lại dấu vân tay hoặc các manh mối khác. Vì thế, tôi báo cáo miệng với sếp rằng có vài người đã chứng kiến cái chết của Magdalon Schelderup có thể bị đe dọa và đề nghị tăng ca tối nếu cần thiết.

Sau đó tôi gọi điện cho Magdalena Schelderup và báo tôi cần nói chuyện với bà càng sớm càng tốt. Bà có vẻ không quá sốt sắng với chuyện này. Tôi nghe thấy một tiếng “Ồ, không” khe khẽ lúc tôi hỏi bà có thể ghé vào đồn cảnh sát không. Khi tôi gợi ý sẽ lái xe đến nhà bà, bà hỏi chúng tôi có thể gặp nhau ở giữa chừng được không. Tôi chấp nhận và chúng tôi thỏa thuận gặp ở hiệu cà phê trên đường Bogstad lúc 2 giờ 15 phút.

VII

Hiệu cà phê thật dễ chịu và cà phê rất ngon. Lúc chúng tôi ngồi trong một góc, không bị làm phiền, mỗi người một cái bánh sôcôla, tôi thấy cảnh vật xung quanh thích hợp hơn hẳn phòng làm việc tại Lâu đài Schelderup. Nhưng vẻ mặt bà Magdalena Schelderup rõ ràng không thoải mái và bực bội hơn hẳn so với cuộc thẩm vấn đầu tiên. Bà ngả về phía trước, gần như tức giận ngay khi tôi bắt đầu hỏi về hoàn cảnh và lập trường của bà trong thời chiến.

- Vợ chồng Wendelboe lại khua môi múa mép, uốn cái lưỡi độc địa của họ phải không? Họ đã căm ghét và khinh miệt tôi gần ba chục năm nay rồi. Tôi chắc Herlofsen và nhiều người khác cũng thế, nhưng hai người ấy vô cùng hiểm độc. Tất nhiên là tự tôi nên nói ra với anh hơn là cho phép người khác có dịp nói xấu tôi.

Bà ta hít một hơi rồi từ từ thở ra.

- Giống như cậu em đã chết của tôi, tôi là thành viên của NS từ mùa thu năm 1940 đến mùa thu 1942. Em trai tôi và tôi chỉ coi đó là một phương tiện thực tế để bảo vệ tài sản của gia đình. Tôi bỏ Đảng khi họ bắt đầu trục xuất người Do Thái và không bao giờ tham gia sự kiện nào của NS nữa. Sau chiến tranh, tôi bị kết án tù treo 60 ngày hoặc nộp 1.000 krone tiền phạt; tôi đã nộp tiền để gạt toàn bộ sự việc lại đằng sau, đồng thời gây ít thiệt hại cho gia đình và công việc làm ăn hết mức có thể. Vụ đó đã khép lại từ lâu và thực sự trở thành quá khứ. Nó là thế với mọi người, trừ những kẻ đạo đức giả ấy trong lực lượng Kháng chiến. Có kẻ muốn dựng chuyện tôi giết anh trai mình bởi vì tôi là thành viên NS trong hai năm chiến tranh chăng?

Sau cơn bùng nổ này, bà ta ngồi im một lúc, mặt hầm hầm. Bà châm điếu thuốc đầu tiên, nó làm bà ta dịu lại.

- Xin lỗi nếu tôi có vẻ quá đáng, nhưng từ hồi chiến tranh tôi đã bị nhiều lời xầm xì săn đuổi. Lẽ tất nhiên nguồn cơn khiến tôi bị suy sụp sâu sắc là vì sao tôi có thể ngu ngốc đến mức dính líu vào mọi chuyện đó ngay từ đầu. Nhưng một là tôi chưa bao giờ là Đảng viên Quốc xã, hai là tôi hết sức chắc chắn không giết anh trai mình.

Tôi nhận thấy câu sau bà ta nói với vẻ tin chắc hơn câu trước, và những điều bà ta kể lúc này khá phù hợp với hồ sơ vụ án tại các phiên tòa xử tội phản quốc. Thế nên tôi chuyển nhanh chủ đề và yêu cầu bà ta kể về cuộc hứa hôn tan vỡ của mình.

Câu này gây nên sự thay đổi tâm trạng bất ngờ. Một thoáng cười trên môi Magdalena Schelderup lúc bà ta đáp lại bằng câu hỏi:

- Cuộc hứa hôn nào?

Tôi chẳng biết gì về chúng, nên tôi nói muốn nghe về cả hai.

- Có lẽ anh định ám chỉ đến cuộc hứa hôn thứ hai, không phải là tổn thất lớn lao vào lúc đó. Anh ta đổi ý chỉ một ngày trước khi chúng tôi chính thức bước vào lễ đường, vì mọi chuyện nhảm nhí này trong chiến tranh và việc tôi là thành viên NS. Tôi không rơi quá nhiều nước mắt. Một thời gian trước đó, tôi đã hiểu anh ta không phải là tình yêu lớn trong đời tôi, anh ta không hấp dẫn cũng chẳng đẹp trai. Nhưng là một người đàn ông đứng đắn, có thể ra mắt được, tài chính vững vàng, chắc chắn sẽ là một người cha và người chồng tốt. Tôi đã ba mươi tám tuổi khi anh ta hủy hôn. Dù sao sau đó cũng đã quá muộn và quá phức tạp để bắt đầu tìm một người chồng mới. Có lẽ khi hồi tưởng quá khứ, sẽ cảm thấy sự mất mát lớn hơn, bây giờ tôi hiểu rằng anh ta là cơ hội để tôi không trở thành người lẻ loi, một phụ nữ không chồng không con.

- Còn cuộc hứa hôn đầu tiên?

Magdalena Schelderup gật đầu và ngồi thẳng lên trên ghế.

- Đó mới là một mất mát to lớn. Đó là tình yêu đầu tiên, tuyệt vời nhất và trẻ trung duy nhất của tôi. Một mối tình lãng mạn ngắn ngủi và cực kỳ mãnh liệt, kéo dài suốt mùa hè và mùa thu năm 1925, nhưng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời tôi một thập kỷ nữa. Anh ấy điển trai và quyến rũ không cưỡng lại được, trong mắt tôi cũng như những người khác. Khoảnh khắc chúng tôi gặp nhau bên bàn cà phê, một ngày khi tôi lưu lại Bergen với một người bạn, mọi thứ dường như dừng lại. Có thể nói một cách chắc chắn rằng tôi không nhớ quá nhiều về bạn tôi trong phần còn lại của kỳ nghỉ hè, mà nhớ về anh ấy nhiều hơn.

Một nụ cười lan khắp mặt Magdalena Schelderup nhưng đông cứng ngay lại thành vẻ nhăn nhó cay đắng.

- Hình như sau này tôi nói rằng chuyến đi tới Bergen năm 1925 khiến tôi rất thoải mái trên giường, có thể nằm dài trong đó. Khi từ Bergen về nhà, lúc tới Bærum đeo chiếc nhẫn đính hôn, tôi đã quên mất vị thế của mình. Tôi không ngờ sự việc lại dễ dàng đến thế. Anh ấy thuộc tầng lớp lao động, và còn hơn thế nữa, anh ấy chưa có việc làm và không có tài sản của gia đình. Nhưng tôi không cho chuyện đó là tuyệt vọng. Mọi người không để ý nhiều trước khi ở nhà biết việc tôi đã làm. Ban đầu, cha mẹ tôi không phản đối lắm. Nhưng Magdalon vốn là người sắt đá, khăng khăng một mực đây chẳng qua chỉ là mối tình lãng mạn nông nổi và hôn phu của tôi theo đuổi tôi vì tiền. Từ hồi đó, anh trai tôi đã là người độc đoán nhất nhà và vẫn thế cho đến bây giờ. Trong vòng ít ngày, một mặt trận gia đình thống nhất - không thiếu người nào ngoài tôi - đã chống lại hôn phu của tôi, họ đến gặp anh ấy.

Vẻ buồn bã tràn ngập gương mặt Magdalena Schelderup lúc bà dụi tắt điếu thuốc và châm ngay điếu khác. Chắc bà mất cả ngon miệng nên không ăn bánh, nhưng tách cà phê của bà đã cạn. Đột nhiên, nom bà già hơn tuổi sáu mươi bảy của mình rất nhiều.

- Suốt đời, chúng tôi có thời làm những việc ngu ngốc như thế đấy. Ngày nào tôi cũng hối tiếc đã là Đảng viên NS trong chiến tranh, nhưng nó chỉ là chuyện vặt so với nỗi ân hận lớn lao vì đã để mình bị thuyết phục hủy hôn và trả lại chiếc nhẫn qua bưu điện. Tôi biết mình sẽ không thể làm được việc này nếu gặp mặt anh ấy, thậm chí chỉ nghe thấy tiếng anh ấy. Vì vậy tôi đề nghị anh không bao giờ tìm gặp lại tôi. Anh ấy là người chính trực và tôn trọng điều đó. Nhưng sau này chúng tôi đã gặp nhau lần nữa, theo cách gần như kỳ lạ, tại khu vực tiếp đón của một khách sạn ở Oslo. Chỉ vài phút trò chuyện tôi đã bị xáo động như mười năm trước, cho đến lúc vợ anh ấy xuất hiện. Điều tệ hại nhất là tôi đã đúng, anh ấy sẽ là một người chồng tuyệt vời. Anh đã là một doanh nhân thành đạt trong lĩnh vực của mình và ở trong hội đồng địa phương thuộc Đảng Tự do cánh tả. Khi chúng tôi gặp lại nhau năm 1935, chắc chắn gia đình tôi coi anh ấy là một người chồng hoàn hảo. Nhưng lúc đó, anh ấy đã lấy người khác và họ đã có ba đứa con. Đêm hôm ấy cảm giác của tôi thật kinh khủng khi về nhà chỉ có một mình, lại vừa gặp vợ anh và chứng kiến vẻ rạng rỡ, hạnh phúc của cô ấy bên chồng và các con.

Magdalena thổi mạnh khói thuốc. Những giọt nước mắt tôi không thấy khi anh trai của bà chết đang đầy ứ mắt bà.

- Tôi không bao giờ tha thứ cho bản thân. Đó là sai lầm lớn nhất đời tôi - phản bội anh ấy, không dám đấu tranh cho tình yêu thắm thiết của mình khi anh ở đó, ôm tôi trong vòng tay.

Không báo trước, bà giơ bàn tay phải lên và rút chiếc nhẫn bằng thiếc khỏi ngón tay.

- Tôi đã gửi trả chiếc nhẫn đính hôn năm 1925. Nhưng tôi luôn giữ chiếc này, nó là cái nhẫn đầu tiên anh ấy mua cho tôi. Tôi nghĩ anh ấy mua với giá một krone, nhưng nó quý giá vì là krone duy nhất anh ấy có, và đó là chiếc nhẫn đầu tiên mà một người đàn ông tặng tôi. Hóa ra, tôi có được nó từ tình yêu của đời tôi. Bởi vậy, tôi sẽ đeo nó cho đến ngày chết, để nhắc nhở mình về những chuyện đã và có thể xảy ra.

- Còn anh trai bà, bà đã tha thứ cho ông ấy chưa?

Tiếng thở dài của Magdalena Schelderup thật nặng nề.

- Tôi e rằng không thể nói có, ngay cả vào ngày sau khi Magdalon chết. Nó đã tồn tại giữa chúng tôi suốt từng ấy năm, mặc dù chúng tôi chưa bao giờ nói đến. Năm 1935, sau khi gặp lại người yêu cũ, khi về nhà tôi kể với Magdalon tình tiết này. Nhưng xin tha thứ không phải là bản tính của Magdalon. Nghe tôi kể xong, ông ấy không làm gì, cứ ngồi đó. Rồi ông ấy trở lại với công việc và im lặng làm cho đến khi tôi bỏ đi. Tôi cứ đợi để nghe ông ấy xin tôi tha thứ, nhưng Magdalon chẳng bao giờ nói.

Magdalena dụi tắt điếu thuốc và kết thúc câu chuyện bằng giọng kiên quyết.

- Mọi người tin rằng lý do khiến anh em tôi ít trò chuyện với nhau trong những năm vừa qua là do chiến tranh. Nhưng chuyện tình cũ của tôi từ năm 1925 đã để lại khe nứt sâu hoắm giữa chúng tôi. Nó bắt đầu trở thành nguyên nhân chính lần nữa khi tôi già đi và ngồi một mình cạnh gia đình cứ lớn dần lên của anh tôi. Magdalon tưởng mình có quyền gạt bỏ tình yêu lớn lao của cô em gái duy nhất, và có thể lấy bất cứ người nào ông ấy muốn, bất cứ khi nào thấy thích hợp. Nó càng khiến cho sự việc khó được tha thứ hơn, nhất là khi cô em chỉ còn lại một người anh trai.

Tôi biểu lộ sự thông cảm của mình. Đồng thời, tôi kết luận Magdalon Schelderup đã rất nhạy bén và sắc sảo trong cuộc điện đàm với tôi. Nhóm thân cận nhất với ông hầu như gồm toàn những người có thể mong ông chết. Kể cả người em gái đã già của ông cũng nung nấu mối hờn sâu sắc.

Sau khi Magdalena Schelderup rời đi, tôi còn ngồi lại hiệu cà phê ít phút nữa, cân nhắc về vụ án. Rồi tôi đứng dậy, càng tư lự hơn và ra xe để có thể lái đến Lâu đài Schelderup nghe đọc chúc thư. Lúc này tôi đã biết nội dung di chúc do Rønning Con đọc cho, nhưng tôi càng nóng lòng thấy nó gây ra những phản ứng gì.

VIII

2 giờ 50 phút, khi Lâu đài Schelderup đã lờ mờ hiện ra trước mặt, tôi là người cuối cùng trong những người được mời tới. Synnøve Jensen đến ngay trước tôi; cô lượn vòng quanh quả đồi và biến vào qua cổng. Các xe khác đỗ đúng chỗ ở lần cuối cùng, theo tôi nhớ. Lúc tôi bước vào phòng ăn, mười vị khách đã yên vị tại chỗ ngồi thường lệ. Ghế của Magdalon Schelderup đã để trống, nhưng quy định của ông vẫn hiển hiện trong nhà.

Nghi thức tư sản cho việc tiếp khách tuân theo bảng chữ cái. Cà phê, bánh ngọt và rượu anh đào đã dọn lên bàn nhưng không ai làm cử chỉ mời mọc và không ai nói một lời. Tôi cảm nhận sự im lặng gần như ngột ngạt, giống hệt khi tôi bước vào căn phòng này lần đầu tiên. Tôi tiến tới và ngồi cạnh cửa sổ. Lúc 2 giờ 56 phút, tôi nhẹ người khi thấy Edward Rønning Con đỗ xe rồi đi tới cửa trước với dáng vẻ cấp tập, hồ sơ kẹp dưới cánh tay. Tôi phải nén cười khi tiếng sủa hung hăng của đàn chó khiến anh ta nhảy vọt lên không trung. Nhưng dù sao, anh ta cũng kiềm chế được và kẹp chặt tập hồ sơ vào nách. Không khí căng thẳng và có phần giả dối lan khắp phòng, chỉ mình viên luật sư trẻ làm ra vẻ mô phạm và là người tôi có thể tin cậy - không thể nói thế cho nhiều người đang có mặt.

Tuy nhiên, Edward Rønning Con khiến tôi ngạc nhiên khi anh ta rõ ràng không hề muốn thử ngồi xuống cái ghế trống, thay vào đó vẫn đứng ở đầu bàn. Như mong đợi, anh ta bắt đầu đúng lúc đồng hồ trên tường điểm ba tiếng cúc-cù-cu.

- Nhân danh di sản của ông Magdalon Schelderup quá cố, trước hết tôi xin cảm ơn tất cả các vị hôm nay đã cố gắng tới đây theo yêu cầu, và thông báo lại gấp như thế.

Không nhận được tiếng vỗ tay, anh ta tiếp tục sau lúc ngừng gượng gạo đầu tiên.

- Chắc tất cả các vị có mặt tại đây đều biết rằng, vào lúc qua đời ngài Magdalon Schelderup đã có vợ và ba người con hiện đang tồn tại, tổng số tài sản của ông là hơn 100 triệu krone. Trong hoàn cảnh này, ông đã hào phóng chia hết số tiền như ông mong muốn, ngoài ra mỗi người con sẽ thừa hưởng tối thiểu 200.000 krone theo đúng luật định.

Viên luật sư lại dừng và giở qua giấy tờ tìm di chúc. Mười cặp mắt dán theo từng cử động của anh ta. Chính tôi cũng khó biết nên tập trung vào bên nào của bàn. Cuối cùng, tôi quyết định quan sát người mà tôi quan tâm nhất và là người tôi nghi ngờ nhiều nhất: nói khác đi, là cô thư ký và người tình của người đã khuất, Synnøve Jensen. Cô ngồi trên ghế, vô cùng bình tĩnh.

- Di chúc của người quá cố được một luật sư chứng thực rõ ràng và đề ngày tháng, với sự có mặt của những người làm chứng, ngày mùng 6 tháng Năm 1969.

Một ánh lóe lên trong mắt Synnøve Jensen. Cô thẳng người lên, nhưng vẫn ngồi im, vẻ mặt căng thẳng. Tôi liếc nhanh về phía Sandra và Maria Irene Schelderup. Khuôn miệng người mẹ giật giật khi nghe nhắc tới ngày tháng. Nhưng bộ mặt cô con gái vẫn vô cảm và thoải mái. Chỉ cặp mắt nhìn xoáy vào viên luật sư lộ rõ cô cảnh giác biết chừng nào.

- Di chúc trên nói rõ như sau: Người ký bên dưới là Magdalon Schelderup; sinh ngày 17 tháng Mười một năm 1899, tuyên bố di chúc cuối cùng của ông về việc phân chia tiền và tài sản của mình. Trước hết, tôi xóa khoản nợ còn tồn đọng mà Hans Herlofsen, giám đốc của tôi trong nhiều năm, nợ tôi. Giấy ghi nợ và các tài liệu khác liên quan đã được hủy.

Edward Rønning tự cho phép dừng lần nữa. Ngay lập tức tôi chuyển trọng tâm tới Hans Herlofsen. Ông ta vẫn giữ cái vẻ mặt kiềm chế trang nghiêm. Hai câu vừa đọc đã giải cứu không chỉ danh dự mà cả tương lai của ông. Dẫu sao, phản ứng duy nhất của Hans Herlofsen là một nụ cười thoáng qua và hơi nới lỏng cà vạt. Rồi Rønning kéo dài giọng lấy lại mạch và tiếp tục. Cái nhìn của tôi trở lại Sandra Schelderup.

- Vợ tôi, Sandra Schelderup, sẽ được hưởng ngay lập tức số tiền hai triệu krone, giúp đỡ bà ấy phần đời còn lại.

Người góa phụ nhíu mày và có thể hiểu được vì sao mắt bà ta tối sầm. Rõ ràng số tiền ấy ít hơn bà ta hy vọng. Nhưng bà vẫn ngồi bình tĩnh trên ghế. Dù thế nào đi nữa, ngón đòn chính không phải với bà mà với cô con gái đang ngồi cạnh bà, bình tĩnh vừa đủ. Cái nhìn của tôi lướt sang Synnøve Jensen.

- Theo đây tôi thừa nhận mình là cha của đứa con chưa ra đời của Synnøve Jensen, thư ký của tôi, và yêu cầu nó mang họ của tôi khi chào đời. Mong muốn của tôi là cô Jensen sẽ được cấp ngay 200 ngàn krone trong số di sản của tôi để trang trải mọi chi phí liên quan tới mang thai và sinh nở.

Nếu Synnøve Jensen biết điều này từ trước thì cô đúng là một diễn viên cừ hơn tôi hình dung. Sau vài giây cô vùi mặt vào hai bàn tay, vẻ mặt cô biến đổi từ hết sức ngạc nhiên sang vô cùng khuây khỏa. Ngay từ nơi tôi ngồi, tôi nhìn rõ những giọt lệ long lanh trong mắt cô.

Sự co giật rõ ràng hơn lan khắp mặt Sandra Schelderup. Những bộ mặt khác quanh bàn vẫn căng thẳng và mong đợi, trong chừng mực tôi thấy, khi luật sư đọc to đoạn cuối cùng và dài nhất trong di chúc. Thực tế cô thư ký là tình nhân của người quá cố hình như chẳng phải là cú sốc gì với bất cứ người nào trong bọn.

- Mong muốn của tôi là phần tiền mặt còn lại sẽ chia đều cho bốn đứa con hiện nay của tôi vào ngày 6 tháng Năm 1970. Đó là vì đứa con út của tôi phải được sinh ra và đặt tên trước, và vì việc giải thể ngay lập tức các công ty của tôi sẽ dẫn tới những chi phí tài chính quá mức. Để đề phòng sự tan rã sau này, các công ty của tôi sẽ tiếp tục do một hội đồng điều hành gồm ba người con đã trưởng thành của tôi, vợ tôi Sandra Schelderup, giám đốc Hans Herlofsen của tôi và Synnøve Jensen, thư ký của tôi.

Bây giờ, mọi sự đợi chờ đã chấm dứt. Lần này vẻ kinh ngạc quanh bàn thật hiển nhiên, dù tất cả vẫn giữ vững tinh thần và tránh bùng nổ cảm xúc. Fredrik Schelderup cười toét miệng và ra hiệu vỗ tay. Ingrid Schelderup cũng mỉm cười nhẹ nhõm. Con trai bà nhai kẹo cao su hăng hái hơn, trông cậu nghiêm trang và tư lự y như trước. Bà Wendelboe nhìn quanh bối rối, kể cả bộ mặt sắt đá của chồng bà cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Synnøve Jensen vẫn vùi mặt vào hai bàn tay, nhưng những giọt nước mắt không ngừng rơi xuống má cô, tròn và nhanh. Sandra Schelderup gửi cho hai con trai của chồng cùng cô thư ký cái nhìn ít đằm thắm nhất và siết chặt đôi bàn tay.

Người duy nhất bên bàn có vẻ không xúc động một cách khó tin là người trẻ nhất. Gương mặt và thân hình Maria Irene Schelderup vẫn hoàn toàn thư thái. Đôi bàn tay của cô gái trẻ trung, xinh đẹp vẩn đặt trên bàn và mở ra.

- Tuy nhiên…

Sự im lặng căng thẳng lan khắp phòng lúc nghe thấy tiếng viên luật sư. Lần này tôi cũng nhìn anh ta chằm chặp, đề phòng. Đây là thứ anh ta không đề cập tới trên điện thoại.

- Tuy nhiên, còn tồn tại một bản di chúc trước đó, mà Magdalon Schelderup đã đọc và muốn đọc lên cùng bản di chúc hiện tại. Nó viết ngày 12 tháng Tám 1968, sau đó hủy bỏ khi di chúc mới này chính thức viết vào ngày 6 tháng Năm 1969. Bản đã hủy ngắn hơn nhiều…

Luật sư dừng lại lần nữa, ngắn và rất kịch trong lúc tìm tờ thứ hai, sau đó kiểm tra tới ba lần xem có đúng không.

- Di chúc đã hủy bỏ nói rõ như sau: Ngoài hai triệu krone chia cho Sandra Schelderup vợ tôi, 200.000 krone cho con trai Fredrik Schelderup của tôi và 200.000 krone cho con trai Leonard Schelderup của tôi, theo đây tôi để lại toàn bộ số tiền trong tài khoản và tài sản của tôi cho con gái tôi, Maria Irene Schelderup.

Mọi cảm xúc bị kiềm chế trong phòng đột ngột vỡ tung. Rõ rành rành.

Hans Herlofsen thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm, nắm chặt cổ họng và nới cà vạt lỏng thêm.

Lần này nụ cười của Fredrik Schelderup nở rộng hơn và anh ta giơ cốc lên vui vẻ: “Chúc mừng di chúc mới.”

Leonard Schelderup giấu mặt vào hai bàn tay nhưng căn cứ vào chuyển động của cần cổ, cậu đang nhai kẹo cao su điên cuồng chưa từng thấy.

Sandra Schelderup hằm hằm nhìn cậu vài lần, rồi mất hết bình tĩnh. Không khí như nhiễm điện và mọi người, kể cả luật sư Rønning Con, đều giật mình khi bà ta nổi cơn thịnh nộ, bà đập nắm đấm xuống bàn trước rồi dứ về phía hai cậu con chồng, hăm dọa.

Người duy nhất có vẻ không bị cơn giận này ảnh hưởng, chính là người mà tôi nhắm tới.

Lúc bản di chúc bị hủy đọc xong, tôi ngỡ đã trông thấy đầu lưỡi cô ở khóe trái miệng. Nhưng sau đó, Maria Irene Schelderup vẫn thản nhiên như lúc trước.

Tôi tự hỏi trong tình huống tương tự, bị bản di chúc mới thảo ra bốn ngày trước tước đi 90 triệu krone, mình sẽ phản ứng ra sao đây. Dẫu cho cô vẫn được thừa hưởng 30 triệu đi nữa, gần như không thể không ấn tượng vì thái độ tự chủ của cô gái mười tám tuổi này.

Trong khoảnh khắc đó, tôi nhận thức được rằng, nếu tôi không yêu rồi, nhất định sẽ bị cô con gái trẻ t