← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ NĂM Trên những đường mòn um tùm-I

Thứ Tư, 14 tháng Năm 1969, khi ngồi xuống ăn sáng, điều duy nhất tôi có thể nói chắc là tình trạng khép mình mà Leonard Schelderup đã sống cả đời, mặc dù là người thừa kế nhiều triệu krone và là một ngôi sao điền kinh, trái ngược với tiếng tăm đáng kể cậu đạt được khi chết. Bài tường thuật chính trong ngày là nguồn cảm hứng chủ yếu ở trung tâm Tromsø, nhưng tất cả các tờ báo lớn đều tường thuật cái chết của Leonard Schelderup trên trang thể thao, và hầu hết chạy tít trên trang nhất. “Ngọn lửa Olympic đã tắt” là tiêu đề chạy khắp trang nhất tờ Dagbladet. Tất cả các báo đều viết rằng khi chết, Leonard Schelderup đã là một trong những hy vọng lớn nhất của Na Uy cho Thế vận hội Mùa hè 1972, điều mà tôi nhớ trước kia chưa có bất kỳ báo nào viết thế.

Mọi tờ báo đều lấy những bức ảnh trong giải đua vô địch quốc gia năm ngoái. Tôi sửng sốt vì trông cậu bình tĩnh và hăng hái biết chừng nào kể cả trước và sau khi băng qua vạch đích, và lúc đứng trên bục nhận huy chương. Petter Johannes Wendelboe không phải là người duy nhất dính líu trong vụ này không bao giờ cười. Tôi thấy Leonard Schelderup chưa bao giờ mỉm cười thực sự, cả trong ảnh lẫn ngoài đời. Ngoài người con trai cả vô tư lự và ăn chơi ra, bất cứ nụ cười nào của các thực khách tại bữa tiệc của Magdalon Schelderup đều hiếm hoi và xa cách. Tôi tự nhủ lời Patricia nói vụ này khủng khiếp biết bao và tại đó, trong đám những người vệ tinh còn sống sót mới lạnh lùng và ảm đạm biết chừng nào, là hoàn toàn thích đáng.

Tôi mở cửa phòng làm việc lúc 9 giờ, đúng lúc chuông điện thoại bắt đầu reo.

- Thanh tra thám tử Kolbjørn Kristiansen nghe, - tôi nói một hơi lúc cầm máy. Thứ đầu tiên tôi nghe thấy là một tiếng thở dài nhẹ nhõm, tiếp theo là một giọng đàn ông không biết là ai.

- Cảm ơn Chúa vì tôi đã liên hệ được với anh. Tôi không làm gì dính dáng đến cái chết của Leonard Schelderup, nhưng tôi là người đã đến thăm cậu ấy đêm hôm trước, giữa 10 giờ và nửa đêm. Tôi rất vui lòng kể với anh là tôi biết chút ít, nếu có thể giúp giải quyết vụ này. Nếu có thể, tôi không đến đồn cảnh sát thì hơn. Hôm nay tôi có thể gặp anh ở nơi nào đó được không?

Giờ đến lượt tôi nín lặng trong giây lát. Lúc người đó nói xong, rốt cuộc tôi đã hiểu các tình huống.

Muốn biết chắc, tôi hỏi suốt mùa xuân, anh ta có dịp nào đến thăm căn hộ ấy không, và nếu có thì ăn vận ra sao. Anh ta đáp ngay tức khắc rằng đã đến đó vài lần, thường đội mũ và mặc áo choàng, cổ áo lật lên. Tôi chợt thấy trước kia đã nghe giọng nói này ở đâu đó, nhưng không thể nhận ra nếu không gặp.

Tôi nghe thấy tiếng mình nói rằng tôi là một thanh niên chưa đến bốn mươi tuổi, không định kiến và không muốn gây ra rắc rối gì cho anh ta. Tôi gợi ý chúng tôi sẽ gặp nhau ở một hiệu cà phê trên con phố nhỏ, cách xa phố mua sắm chính Karl Johan vào buổi trưa, và nói thêm đây là cơ hội hợp lý để tên anh ta tránh khỏi mọi con mắt nhòm ngó, nếu anh trả lời mọi câu hỏi của tôi. Anh ta cam đoan sẽ làm hết sức có thể để giúp giải quyết vụ án mạng và hẹn đợi tôi ở bàn đằng sau hiệu cà phê vào buổi trưa. Sau đó anh ta đặt máy.

Còn lại một mình với tiếng o o trong điện thoại, tôi quyết định cố làm sáng tỏ một số bí mật bao quanh Leonard Schelderup, nhưng vẫn còn xa mới phá được vụ này. Tôi ngồi đó, cố nghĩ xem trước kia đã nghe thấy giọng vị khách này ở đâu. Nhưng hy vọng điều bí ẩn đó sẽ sớm được giải quyết. Trong khi chờ đợi cứ để nó đấy, trước hết phải làm một vòng loại bỏ nhanh để biết chắc nó không thuộc về bất cứ người nào tôi đã gặp trong suốt cuộc điều tra.

II

Không có manh mối rõ hơn để dõi theo trong vụ Leonard Schelderup, tôi rẽ vào những con đường mòn um tùm từ hồi Thế chiến II suốt phần buổi sáng còn lại.

Thứ đầu tiên tôi bắt gặp là một thất bại. Các hồ sơ điều tra dân số về Arild Bratberg dừng lại với ghi chú ông ta đã được chứng tử ngày 14 tháng Ba 1969. Bratberg sống tại một địa chỉ ở Rodeløkka, nhưng theo hồ sơ thì ông ta đã trải qua nhiều giai đoạn đáng kể trong bệnh viện tâm thần Gaustad. Ông được đăng ký lần cuối lúc rời khỏi đó vào tháng Mười hai 1968, sau một năm tạm trú.

Rốt cuộc tôi cũng nối được máy với bác sĩ trưởng phụ trách phòng bệnh nơi Arild Bratberg lưu trú trong những giai đoạn cuối.

Lúc bắt đầu, giọng vị bác sĩ ở đầu dây bên kia rất lạnh lùng. May mắn là sau đó, giọng ông sôi nổi hơn khi nhận ra tôi là “thanh tra thám tử nổi tiếng trên báo chí”, và đây là trường hợp có thể liên quan đến “các vụ án mạng nhà Schelderup đang được nói đến nhiều và rất được chú ý”. Lúc này ông ta gần như thân thiện.

Vị bác sĩ có thiện ý “giữa anh và tôi thôi nhé”, không quá nhặng xị về bí mật giữa bệnh nhân và bác sĩ, cho biết người bệnh được nhắc đến trên đã chết và không có gia đình. Bởi vậy ông ta có thể nói với tôi rằng cái chết của Arild Bratberg đã được lường trước từ lâu. Nhiều năm nay, Arild Bratberg là người “nghiện thuốc lá và nghiện rượu rất nặng” và đã bị ung thư phổi. Theo nguyện vọng cá nhân, ông ta được ra viện để có thể mừng Giáng sinh tại nhà và chết sau đó. Bác sĩ nói thêm rằng rất có thể lễ mừng tổ chức tại nhà Bratberg ở Rodeløkka, nhưng không rõ có nhiều khách không. Cha mẹ của Arild Bratberg mất từ lâu, còn anh chị em ruột không tiếp xúc với ông từ nhiều năm nay. Bác sĩ nói như một cách giải thích, rằng gặp Bratberg thường không mấy dễ chịu.

Trong những năm gần đây, người duy nhất đến thăm Arild Bratberg là một người hàng xóm già cả, “rất chu đáo” ở Rodeløkka, một góa phụ tên là Maja Karstensen. Chắc chắn bà ta là người trông nom Bratberg khi ông về nhà. Tôi hỏi liệu ông Arild Bratberg có bị tâm thần kinh niên và nghiêm trọng không, câu trả lời dứt khoát là có. Câu trả lời cho câu hỏi của tôi là chiến tranh có góp phần vào căn bệnh này không, cũng là có, tuy rất có thể còn gì đó từ khi sinh ra hoặc từ thời thơ ấu. Tất cả các nhân viên đều biết phán quyết của tòa án sau chiến tranh, còn Bratberg “vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần và thường rất dữ dội” rằng ông ta chưa bao giờ giết ai hết. Tuy vậy, mọi việc ông ta có thể làm là nhai lại lời giải thích nực cười ấy, hết lần này đến lần khác. Trong những năm gần đây, hình như Bratberg trở nên đỡ hung dữ hơn, tuy vẫn có thể hăm dọa nếu có người nhắc tới vụ việc hoặc nghi ngờ ông ta có liên quan.

Tôi cảm ơn bác sĩ và nhấc cuốn danh bạ điện thoại. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong danh bạ có một Maja Karstensen sống cùng phố với Arild Bratberg ở Rodeløkka. Bà ở nhà và rất mừng được nói chuyện với tôi nếu có thể giúp đỡ được gì. Bà nói có lẽ tôi đến nhà bà là tốt nhất, và khẽ thở dài. Chân bà rất yếu không đi được nữa, và bà đã bán chiếc xe đạp. Tôi gợi ý sẽ đến đó lúc 1 giờ rưỡi, bà hứa sẽ có sẵn cà phê khi tôi tới nơi.

Bí ẩn tiếp theo từ thời chiến liên quan đến Ông hoàng Bóng tối. Theo các hồ sơ điều tra dân số, Mona Varden rất hoạt bát và vẫn đăng ký địa chỉ trong danh bạ điện thoại là số nhà 32B phố Grønne. Bà nhấc máy ngay hồi chuông thứ hai và nói:

- Mona Varden đây, tôi có thể giúp gì không?

Tôi tự giới thiệu là thanh tra thám tử Kolbjørn Kristiansen và xin lỗi vì quấy rầy bà. Tuy nhiên, tôi sẽ rất biết ơn nếu bà có thể trả lời một số câu hỏi về vụ sát hại chồng bà vẫn chưa được giải quyết.

- Cuối cùng, - bà nói chậm rãi, giọng run rẩy. Sau giây lát im lặng, bà nói tiếp. - Xin đừng bỏ máy. Hai mươi tám năm qua, ngày nào tôi cũng đợi cảnh sát gọi đến và hỏi về vụ giết chồng tôi. Anh có thể tới đây hoặc tôi có thể xuống đồn cảnh sát, cái nào thích hợp là hay nhất. Tôi sẽ trả lời mọi câu hỏi của anh.

Với tư cách là cảnh sát, tôi lờ mờ cảm thấy có lỗi. Vì thế tôi lẩm bẩm rằng có lẽ ai đó nên gọi trước, nhưng tôi rất muốn gặp bà ngay hôm nay, tôi sẽ đến nhà bà và sẽ vui hơn nếu việc đó khiến bà dễ chịu hơn. Bà đáp ngay, không hề ngập ngừng.

- Tôi sẵn lòng đi chân đất từ đây tới đồn nếu có thể giúp làm sáng tỏ vụ giết chồng tôi. Nhưng anh tới đây có lẽ là tốt nhất. Ít ra anh có thể nhìn thấy căn phòng chồng tôi bị giết. Suốt từng ấy năm, tôi vẫn để nguyên không động chạm tới, phòng khi có một ngày có người hỏi về nó. Vì thế anh muốn đến bất cứ lúc nào cũng được chào đón.

Tôi hỏi liệu 3 giờ có thích hợp không. Bà đáp ngay lập tức rằng rất tiện và bà mong được gặp tôi.

Sau khi bà đặt máy, tôi còn cầm ống nghe một lát. Cảm giác tôi đã có trước khi gọi Mona Varden lúc này càng mạnh hơn bao giờ hết. Cái chết của Magdalon Schelderup đã thực sự đưa ra ánh sáng những câu chuyện thú vị dính dáng đến bao cuộc đời của những người khác, ngày càng nhiều hơn.

III

Tôi đến hiệu cà phê đã hẹn, gặp vị khách bí ẩn của Leonard Schelderup lúc 12 giờ 4 phút, và quan trọng nhất là đã kịp thay bộ thường phục. Tôi gọi cốc cà phê và cái bánh ngọt rồi đến thẳng phía sau. Chỉ có một người đàn ông duy nhất ngồi đó, nhưng tôi không thể nhìn rõ mặt vì người hầu bàn đang đứng giữa chúng tôi. Tôi tiến tới đúng lúc người hầu bàn, một thanh niên trạc hai mươi tuổi, lấy lại tờ giấy trên đó có một chữ ký.

Tôi liếc nhanh cái tên trên tờ giấy lúc người phục vụ phấn khởi lao qua chỗ tôi. Khi nhìn thấy người khách, tôi nhận ra đã nghe giọng anh ta ở đâu: trong bảng tin thể thao trên radio, anh ta là một cầu thủ đá bóng bổng nổi tiếng. Anh ta có vị trí cao trong danh sách các cầu thủ ghi điểm hàng đầu của liên đoàn bóng đá Na Uy, trong thập kỷ vừa qua đã chơi nhiều trận tuyệt hay với lá cờ Na Uy in trên áo.

Anh ta khẽ gật đầu thân thiện lúc tôi ngồi xuống. Giọng anh vang và hài hước trong lúc nói chuyện với người hầu bàn, nhưng lúc này khẽ khàng và nghiêm túc.

- Tôi đã gọi anh vào khoảng 9 giờ sáng nay, và tôi không chắc có cần giới thiệu thêm nữa không?

Tôi gật đầu và chìa tay. Cái bắt tay của anh ta mạnh mẽ, nhưng tôi nhận thấy bàn tay anh ta lạnh, ẩm ướt và run run.

- Tôi phải cảm ơn anh vì cho đến nay anh đã xử lý vụ này rất thận trọng. Đây là một tình cảnh vô cùng khó xử với tôi, và tôi rất muốn giúp hết mức có thể để giải quyết vụ giết người bạn thân thiết của tôi, nhưng cũng phải thú thật là tôi sợ tai tiếng và bị nghi ngờ là thủ phạm. Anh rất ý tứ khi mặc thường phục tới đây, và thông báo của anh diễn đạt rất cẩn trọng. Cách dùng từ “người” và “sẽ loại bỏ khỏi vụ” cho thấy anh hiểu hoàn cảnh, nhưng không muốn thổi bay vỏ bọc của chúng tôi.

Tôi gật đầu và nói các từ ngữ đã được lựa chọn cẩn thận. May mắn là anh ta chấp nhận và không hỏi thêm có phải chính tôi thảo bản thông báo không.

- Tôi chính là người đã đến thăm Leonard Schelderup vào tối khuya hôm qua. Vài ngày trước chúng tôi đã thỏa thuận là tôi sẽ đến. Tuy nhiên hôm qua tôi đã gọi cho Leonard từ khá sớm để bảo với cậu ấy rằng có lẽ tôi không nên đến trong tình cảnh này. Nhưng cậu ấy nói mình đang rất lo lắng và cần nói chuyện với tôi. Thế là tôi đồng ý, bất chấp rủi ro gặp phải lúc này. Tôi rất thích Leo, thích hơn mọi người khác trên đời.

Anh ta nói câu cuối rất nhanh. Tôi gật đầu tán thưởng và cũng hạ giọng lúc đáp lại.

- Sau đó chắc chắn là tóc và dấu vân tay của anh được tìm thấy trong căn hộ và trong phòng ngủ. Đúng thế chứ?

Anh ta khẽ gật. Mặc dù chúng tôi ngồi riêng rẽ, ở khoảng cách an toàn với các nhân viên và khách hàng tại đó, tiếng anh ta gần như thì thầm lúc trả lời.

- Phải. Nhưng hôm qua chúng tôi không làm gì nhiều. Chúng tôi chỉ nằm trong vòng tay nhau, thế thôi. Leo cần sự thân mật giữa chúng tôi hơn hết thảy nhưng lại quá đỗi lo lắng và căng thẳng nên chẳng làm gì hơn.

Một lần nữa tôi gật đầu thông cảm, dường như chúng tôi đang thảo luận về kết quả bóng đá. Một cặp khách hàng mới, trẻ hơn, vừa bước vào chỉ tay hay đúng hơn là vẫy tay ra hiệu với chúng tôi. Người đang nói chuyện với tôi thân ái vẫy trả.

- Việc đó hoàn toàn bình thường và thực sự khá dễ chịu, - anh ta thì thầm giải thích. - Cả Leo và tôi hoàn toàn thoải mái với sự nổi tiếng của mình. Nhưng lẽ tất nhiên cuộc sống hai mặt đặc biệt của chúng tôi càng đặc biệt thêm vì danh tiếng. Có nhiều lúc, giữa khi hân hoan, chúng tôi sợ không được chấp nhận và những phản ứng có thể nhận lại nếu bí mật của chúng tôi bị vỡ lở.

- Chuyện này kéo dài bao lâu rồi?

- Chúng tôi quen biết nhau đã năm năm nhưng mới hẹn hò bí mật tại nhà Leo được bảy tháng. Chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên tại nhiều nơi khác trước khi dám thừa nhận mối quan hệ này, mặc dù cả hai càng ngày càng tin chắc hơn. Rốt cuộc, tôi là người chủ động, tạt vào nhà Leo tuy không được mời. Leo quá ư thận trọng ở nơi công cộng, thận trọng hơn hầu hết mọi người. Nhưng sau đó, mỗi khi tôi đến cậu ấy ngày càng âu yếm hơn.

Thật dễ hình dung ra hoàn cảnh và tôi thấy chẳng có lý gì để hỏi han kỹ càng hơn nữa.

- Từ đó, sự việc phát triển nhanh hết mức sự bí mật cho phép. Hạnh phúc của chúng tôi giới hạn trong căn hộ của Leo thật tuyệt đối, trái ngược với nỗi sợ ngày càng tăng của chúng tôi và sự hoang tưởng ở bên ngoài. Tôi nghĩ chuyện này trở nên tồi tệ với Leo hơn là với tôi. Leo khiếp sợ phản ứng của gia đình nếu sự thật bại lộ, nhất là ông già bảo thủ và bạo ngược của cậu ấy.

Tôi lại gật đầu tỏ ý thông cảm. Câu chuyện có vẻ đủ tin cậy.

Anh ta lắc đầu, không quả quyết lắm.

- Theo tôi biết là không. Một vài người có thể nghi ngờ, nhưng Leo nghĩ họ vẫn không biết gì. Leo sợ có người phát hiện ra chúng tôi, anh em và mẹ kế có thể lợi dụng những hoài nghi của họ để biến người cha chống lại cậu ấy. Leo cũng sợ mẹ cậu ấy phát hiện ra và khó mà chấp nhận. Tôi chắc chắn tuyệt đối là Leo không kể với ai, kể cả với bà mẹ. Leo không thể chịu nổi ý nghĩ về sức ép của gia đình, cậu ấy sợ điều đó hơn sợ mất tiền.

Anh ta thở dài thật sâu, và đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ lúc nói tiếp. Bỗng nhiên, mặc dù cao lớn và khỏe khoắn, song anh ta vẫn gợi tôi nhớ đến một con chim nhỏ bị nhốt trong lồng.

- Mới vài tuần trước, Leo tâm sự rằng nếu cậu ấy chỉ được thừa kế một phần ba số tiền khi cha qua đời, chúng tôi có thể cho cả thế giới biết tình yêu là gì và sẽ trốn đến một thành phố khoan dung hơn ở một đất nước dễ chấp nhận hơn trong vài tháng. Một nơi mà chúng tôi có thể tay nắm tay dạo chơi trên phố, giống những cặp đôi đang yêu khác và không lo người đời nghĩ gì về mình.

Lúc từ cửa sổ quay lại, trong mắt anh ta vẫn giữ vẻ mơ màng. Sau đó anh ta nhận ra mối nguy hiểm và đổi ý.

- Xin anh đừng hiểu lầm. Tôi nghĩ đó chỉ là một ước mơ lãng mạn để Leonard tự an ủi mình, trong khi cuộc sống đòi hỏi quá nhiều cố gắng. Nếu Leo được thừa hưởng tiền, cả hai chúng tôi có thể dễ dàng bỏ nghề, nhưng rời bỏ gia đình và thể thao vẫn rất khó khăn, dĩ nhiên nếu chúng tôi muốn quay trở lại. Tôi tuyệt đối tin Leo không giết cha. Rời đường đua, Leo là người tốt bụng nhất đời. Tôi còn nhớ cậu ấy đã băn khoăn, day dứt khi giết một con ong vò vẽ trên cửa sổ vào mùa thu năm ngoái. Đó là đặc điểm tôi yêu mến nhất của Leo. Cậu ấy là một người tử tế, luôn yêu thương mọi người, lúc nào cũng chỉ mong muốn được sống yên ổn mà không gây phiền phức cho người khác.

Tôi vội hỏi những giờ trước khi chết, Leonard Schelderup có nói gì về vụ sát hại cha mình không. Vị khách của cậu lắc đầu như xin lỗi.

- Đêm cuối cùng ấy tôi nói với Leo rằng tôi sẽ luôn luôn yêu Leo dẫu cậu có giết cha. Nhưng Leo chỉ nói không phải là mình và cậu không hề nghĩ đến việc rắc bột lạc lên đồ ăn của cha. Leo đứng đó, giữa phòng khách và nhắc đi nhắc lại câu này lần cuối lúc tôi ra về. Đó là những lời cuối cùng tôi nghe Leo nói.

Lúc nói câu này anh ta lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi định đặt tay lên vai anh song lại đổi ý. Tình cảnh lúc này đã đủ thương cảm, không cần sự tiếp xúc thân thể nào.

- Thật buồn vì Leo đã chết. Tôi nhớ cậu ấy vô cùng và vẫn chưa thể thấm thìa việc cậu ấy đã mãi mãi ra đi. Nhưng về mặt nào đó, sự việc còn tệ hơn nếu Leo phải sống suốt đời mà phải liên tục che giấu con người thật của mình. Có vài lần, chúng tôi nói về khả năng đến cuối đời, xã hội có thể thay đổi nhiều đến mức những người như chúng tôi có thể công khai tình yêu của mình mà không phải sợ hãi hoặc hổ thẹn. Tôi là người lạc quan và tin rằng việc đó sẽ xảy ra. Leo thì không chắc lắm. Cậu ấy là người khá bi quan, chắc vì gia đình và sự dạy dỗ. Cuộc sống của cậu ấy chẳng có mấy niềm vui. Còn bây giờ cuộc đời ấy đã chấm dứt. Và tôi, tình yêu lớn của đời Leo, lại chẳng có gì để tưởng nhớ. Thậm chí tôi không biết mình có dám đến dự tang lễ không.

Lúc này những giọt nước mắt chảy dài xuống má anh ta. Anh ta cố che giấu bằng tiếng ho khan, rồi lau mặt bằng chiếc mùi soa màu xanh nhạt.

- Bởi vậy, tôi thành tâm mong anh tìm ra thủ phạm giết Leo. Tôi nghĩ đó là người nhà, nhưng không biết là ai. Cha của Leo sẽ là nghi phạm hàng đầu của tôi, nhưng chính ông ấy cũng đã bị giết. Anh cứ hỏi nếu còn câu hỏi nào nữa, nhưng nói thật, tôi không chắc có gì hơn để nói.

Anh ta trả lời những câu thông thường còn lại một cách rõ ràng và chính xác. Leonard Schelderup hoảng sợ vì cú điện thoại đe dọa nhưng không nói có thể là ai. Hình như Leo có một vị khách khác lúc đầu giờ buổi tối, nhưng cậu không muốn nói là ai hoặc họ đã bàn bạc gì. Lúc anh ta tới, trên bàn đã có tách và đĩa, và vẫn còn đó khi anh ta ra về.

Trả lời câu hỏi cuối cùng về bằng chứng ngoại phạm của mình, người đàn ông ngồi đối diện tôi nói rằng vợ và hai đứa con lớn của anh ta có thể xác nhận anh ta về đến nhà lúc 11 giờ 50 phút.

Chỉ đến lúc ấy tôi mới hiểu đầy đủ sự lố bịch của hoàn cảnh. Nhưng tôi cũng có thể nói chắc rằng người đàn ông tôi đang nói chuyện đã rời hiện trường gây án trước khi phát súng định mệnh nổ. Tôi thông cảm với nỗi thương tiếc và đau đớn của anh ta. Nhưng thật khó nuốt trôi ý nghĩ đêm ấy anh ta được cả nhà - người vợ và các con - sung sướng chào đón, họ không hề hay biết về cuộc sống hai mặt và sự phản bội của anh ta. Thế nên tôi để lại chiếc bánh ngọt còn nguyên, cảm ơn anh ta vì các thông tin song không bắt tay, rồi vội trở ra phố Karl Johan. Đã gần 1 giờ và sắp đến lúc cho cuộc hẹn tiếp theo.

IV

Bà góa Maja Karstensen già hơn và tóc bạc hơn tôi hình dung. Chắc bà phải gần tám mươi hơn là bảy mươi và phải chống hai gậy để đi vài bước qua sàn căn hộ bé tí của mình. Nhưng nụ cười của bà trẻ trung và cà phê đã để sẵn trên bàn. Khi tôi hỏi có phải bà quen biết Arild Bratberg từ lâu, bà đáp bằng giọng thân thiện và sốt sắng.

- Phải, có thể nói thế. Arild sinh ra tại căn hộ bên cạnh, và tối hôm đó tôi đã sang thăm hai mẹ con. Bà Bratberg là bạn thân nhất của tôi. Ba năm trước khi Arild ra đời, khi tôi vừa sinh đứa con trai thứ hai, các bác sĩ đã bảo tôi không thể có thêm đứa con nào nữa. Bởi vậy tôi thực sự vui mừng có một đứa trẻ nữa cùng tầng.

Arild ra đời là một điều khá bất ngờ. Anh trai và chị gái lớn hơn cậu bé khoảng mười lăm tuổi, còn người bố đã ngoài năm mươi. Ông ta mất vài năm sau khi Arild chào đời, nên mọi sự không dễ dàng gì cho cả Arild và mẹ cậu. Arild còi cọc và kém phát triển, chưa bao giờ khỏe mạnh hoặc lanh lợi. Nhưng cậu tốt bụng và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Ngay trước và trong chiến tranh, dường như cậu làm việc ổn thỏa. Cậu tự xin làm người đưa tin ở văn phòng Schelderup trong thành phố và có vẻ lạc quan về tương lai. Arild có một cái xe đạp và mơ ước sẽ có ngày mua được ô tô. Nhưng sau đó…

Bà bất chợt lúng túng và im lặng, nhưng sau vài ngụm cà phê bà lại nói tiếp.

- Nhưng rồi xảy ra vụ giết người khủng khiếp vào Ngày Giải phóng đó. Thời ấy liên tục xảy ra nhiều sự việc dễ sợ và nhiều người tử tế thấy đời mình xáo trộn vì một việc xảy ra trong thời chiến. Arild là một trong những người có cuộc sống bị đảo lộn nhiều nhất, theo cách khó hiểu nhất. Nhưng đây là những lời chứng của một người đàn ông giàu có ở nơi sang trọng nhất của thành phố chống lại một chú bé nghèo khổ ở tận cùng phía Đông. Bởi vậy, bà Bratberg và tôi sớm nhận ra vụ án sẽ kết thúc ra sao.

Tôi tùy tiện nhận xét rằng cách giải thích các sự kiện mà Arild Bratberg muốn tòa án tin khá lộn xộn. Bà buột ra một tiếng thở dài buồn bã.

- Phải, đúng vậy, đây là một chuyện kỳ quặc. Kể cả tôi cũng nghi ngờ cho đến gần đây vì trong những năm qua nhiều lần Arild có vẻ hơi điên loạn. Nhưng thời gian trôi qua, càng ngày tôi càng tin chắc sự việc không xảy ra như được nói trên tòa. Arild nhiều lúc tỉnh táo khi không say rượu, và nó luôn nhắc đi nhắc lại rằng phán quyết của tòa án từ năm 1945 là sai. Nó thường nói: “Bây giờ có thể tôi là người điên, nhưng hồi ấy thì không.”

Maja Karstensen không phải là người lanh lợi nhất và có lẽ chưa bao giờ là thế. Nhưng tôi cảm thấy trong phần lớn cuộc đời mình, bà là một trong những con người tử tế nhất. Giọng bà vẫn nhẹ nhàng lúc tiếp tục.

- Rõ ràng Arild đã bị mất trí. Khi được phóng thích khỏi nhà tù, cậu ta về nhà và được mẹ chăm sóc hết mực chu đáo. Bà ấy có rất ít thời gian làm việc khác. Arild không bao giờ trở lại con người thật của nó lần nữa. Bất cứ lúc nào trong ngày hoặc đêm, Arild bất chợt nguyền rủa vụ giết người, nó nói nhiều câu lạ lùng kể cả khi không uống một giọt rượu. Người mẹ để lại căn hộ cho Arild trước khi bà chết năm 1955. Bà ngỡ anh, chị của Arild có thể xoay xỏa ổn thỏa không cần đến ngôi nhà. Nhưng họ không hài lòng tí nào. Vì vậy Arild chỉ còn lại một mình sau khi mẹ chết.

Maja Karstensen ngừng một lát. Bất ngờ, cái nhìn chăm chú của bà lướt ra ngoài cửa sổ, vượt lên trên hàng rào đằng sau. Thật kỳ lạ, trong giây phút ấy người đàn bà tóc hoa râm này khiến tôi nhớ tới cầu thủ bóng đá quốc gia tôi vừa gặp lúc trước trong ngày.

- Tôi đã hiến dâng các con trai của mình cho đất nước Na Uy và biển cả, rồi cả Na Uy lẫn biển đều không trả chúng lại cho tôi. Đứa lớn phục vụ trên một con tàu bị phóng ngư lôi và chết đuối ở đâu đó gần Shetland ngày 5 tháng Tư 1944. Một ngày sau khi chiến tranh nổ ra, tôi nhận được thư báo tin đó, khi tôi vẫn hy vọng nó sẽ trở về. Đứa thứ hai trên một con tàu bị chìm ở Thái Bình Dương, sau bảy ngày lênh đênh trên biển trong xuồng cứu hộ, cuối cùng nó cố bơi được vào bờ biển Australia. Nó viết cho tôi rằng nó không bao giờ dám liều xuống nước lần nữa. Thế là nó ở lại đó, ở nửa kia trái đất và hôm nay vẫn ở đó, theo tôi biết. Vào dịp Giáng sinh và Phục sinh, tôi vẫn gửi thư tới địa chỉ cũ của nó nhưng hồi âm cuối cùng tôi nhận được vào Giáng sinh năm 1953. Bởi vậy sau khi bà bạn qua đời, tôi chăm sóc con trai bà ấy. Anh tin tôi đi, việc ấy không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong nhiều năm, Arild trở nên không chịu nổi khi say rượu, và rất suy sụp khi không say.

Tôi gật đầu thông cảm. Hình dung chuyện ấy chẳng khó gì. Maja Karstensen trốn cảnh lẻ loi của mình bằng cách tiếp tục quỹ đạo của người bạn thân nhất, xoay quanh đứa con trai ốm yếu của bà bạn.

Cuộc đời Arild Bratberg rõ ràng là một tấn thảm kịch bi đát. Nhưng tôi không cảm thấy mình đến gần hơn trong việc giải quyết những bí mật của vụ án năm 1969, cho đến lúc Maja Karstensen đột nhiên nói ra vài câu ngắn nhưng rất kích thích óc tò mò.

- Mặc dù ốm yếu, nhưng trong vài tháng cuối cuộc đời, Arild có vẻ bình thản hơn. Tôi cho rằng một phần vì nó nhận ra mình sắp chết và chấp nhận điều đó. Quan trọng hơn, cuối cùng có lẽ nó đã gặp được một cặp vợ chồng có vẻ tin nó.

Tôi tỏ ra rất chú ý và khích lệ bà tiếp tục. Bà mỉm nụ cười dịu dàng lần nữa nhưng sau đó bà nhún vai và xòe tay ra.

- Theo tôi được biết, một người đàn ông và một người đàn bà đã tới hỏi Arild về vụ án cũ và cả hai có vẻ tin những gì nó kể. Nhưng tôi e rằng tôi không biết họ là ai. Dù họ có thiện ý hay không, tôi rất cảm ơn họ vì họ đã giúp làm vơi gánh nặng của nó trong mấy tháng cuối cùng.

Tất nhiên là tôi hỏi ngay các vị khách đó đến thăm khi nào và bà có thể nhớ thêm Arild đã kể những gì về họ. Bà ta lưỡng lự giây lát.

- Chắc hẳn là trong mùa đông hoặc đầu mùa xuân. Theo tôi biết, người đàn ông đến trước và người đàn bà đến sau đó ít lâu. Nó nhắc đến họ riêng rẽ, nhưng tôi không dám chắc. Arild hầu như không phải là người có trí nhớ tốt và đôi khi nhiều tháng trôi qua nó mới kể với tôi. Cũng có thể họ chưa bao giờ đến và trong lúc tuyệt vọng nó đã tưởng tượng ra. Nhưng tôi không nghĩ thế.

Tôi cũng không nghĩ vậy. Tôi sẵn sàng làm tất cả để trông thấy mặt của hai người đã đến đó. Tôi cảm thấy rất rõ là sẽ nhận ra cả hai người.

Tôi hỏi chuyện xảy ra với căn hộ của Bratberg. Maja Karstensen thở dài nặng nề.

- Tôi đã cọ rửa và lau chùi, dọn dẹp các chai rỗng nhưng sau khi Arild chết mới làm được. Hóa ra vài tuần trước khi qua đời, Arild đã viết di chúc để lại mọi thứ cho tôi. Song anh trai và chị gái của Arild đã không tới đây gần hai mươi năm, thì nay gửi thư qua luật sư của họ, tuyên bố rằng di chúc không có hiệu lực vì cậu ta điên. Vụ này sẽ chấm dứt ở đâu, có Trời mới biết.

Tôi biểu lộ sự thông cảm và nói tôi hy vọng bà sẽ nhận được tài sản thừa kế vì bà xứng đáng. Sau đó tôi hỏi có thể ngó qua căn hộ được không. Bà gật đầu rồi chậm rãi, gần như kiểu cách, lấy một trong hai cái chìa khóa trên vòng đeo chìa của bà.

V

Arild Bratberg đã sống những năm cuối đời và chết lẻ loi trong căn hộ một phòng ở tầng thứ hai của một tòa nhà tại Rodeløkka. Căn hộ không phải là nơi đặc biệt hấp dẫn. Các bức tường ám khói, vài chỗ sơn bong tróc. Chỉ nhìn thoáng qua cũng thấy Maja Karstensen đã dọn dẹp nơi này rất chu đáo sau khi Arild Bratberg qua đời. Mọi hy vọng tìm thấy dấu vân tay của các vị khách đã tới đó vài tuần hoặc vài tháng trước thành con số 0 tròn trĩnh.

Arild Bratberg rõ ràng không phải là người hoặc nhà văn làm việc có phương pháp. Ông ta để lại một bộ sưu tập sách phong phú nhưng chỉ có một chồng nhỏ những tờ giấy viết tay. Tôi tìm thấy bảy tấm thiếp chúc mừng Giáng sinh, tất cả gửi tới Gaustad do người mẹ hoặc Maja Karstensen viết. Có bốn tờ xé ra từ báo, là trò chơi ô chữ bỏ dở nửa chừng. Chồng giấy có ba tờ đòi tiền điện, tờ cuối cùng rất gay gắt. Sau đó tôi tìm thấy hai bản nháp di chúc, quả thật là “để lại căn hộ của tôi và các thứ trong đó, 325 krone trong tài khoản tiết kiệm bưu điện và hai tờ 10 krone dưới hộp đựng cà phê và mọi thứ khác có giá trị mà tôi sở hữu cho bà Maja Karstensen, hàng xóm quý hóa của tôi”.

Dưới đáy chồng giấy có một tờ nhỏ, trống trơn, chỉ có một cái tên và ngày tháng. Song nó làm tôi chết sững trong vài phút.

Sau đó, tôi để các giấy tờ còn lại vào chồng và chỉ mang tờ giấy kia đi. Trở lại với bà Maja Karstensen, tôi hỏi bà có nhận ra cái tên trên mảnh giấy không.

Bà suy nghĩ rất lâu và vất vả, cuối cùng bà nói không thể nhớ ra đã từng gặp người này chưa, nhưng Arild có nhắc đến tên ông ta. Có thể là người đã làm việc tại văn phòng Schelderup trong chiến tranh? Tôi gật đầu, cảm ơn bà đã giúp đỡ và vội bỏ đi.

Tôi rất nóng lòng muốn có lời giải thích vì sao mảnh giấy chỉ viết vẻn vẹn “Hans Herlofsen, 12 tháng Hai 1969” lại ở trong căn hộ của Arild Bratberg quá cố. Nhưng tôi sẽ phải đợi vài giờ nữa để tìm ra. Lúc này đã là 2 giờ rưỡi, và tôi đã thỏa thuận gặp người phụ nữ đã đợi chuyến đến thăm của tôi từ hai mươi tám năm nay vào lúc 3 giờ.

VI

Thoáng nhìn, Mona Varden trẻ hơn tôi nghĩ. Bà năm mươi hai tuổi, nhưng trên ảnh rất dễ nhầm với một phụ nữ bốn mươi, với mái tóc đen và nước da nhợt nhạt. Tuy vậy trên mặt và trong các động tác của bà có gì đó nặng nề và nghiêm trang, đúng tuổi khi gặp bà ngoài đời. Bà hơi mỉm cười khi trông thấy tôi. Tôi có cảm tưởng nhiều năm nay bà đã không cười, có lẽ từ khi chiến tranh kết thúc. Bàn tay bà nặng nề và vững chãi, đặt trong tay tôi một lát.

- Rất cảm ơn anh đã tới. Tôi rất cảm kích vì một cảnh sát trẻ tuổi như anh lại muốn sửa đổi thái độ lơ là của các bậc tiền bối, mặc dù tôi hiểu rằng các vụ án mạng mới đây đã khuấy động mối quan tâm tới cái chết của chồng tôi.

Tôi không thể phủ nhận điều này. Vì thế tôi gật đầu thân thiện và cam đoan với bà rằng tôi rất muốn làm sáng tỏ bí ẩn quanh cái chết của chồng bà hồi đó.

Mona Varden có một căn hộ hai phòng ngủ rộng rãi và trang nhã từ đầu những năm 1900. Điểm đáng chú ý nhất chính là cánh cửa phòng bị chặn bởi một cái giường lớn.

Lúc tôi bước vào phòng khách, trên bàn đã bày sẵn cà phê và bánh ngọt. Và bức chân dung chụp Bjørn Varden thời trẻ treo trên tường. Bức ảnh đã cũ nhưng cặp mắt vẫn trong sáng. Trong ảnh là một thanh niên điển trai, cao ráo, tóc vàng hoe mặc com lê đen trong ngày cưới. Bộ váy cưới của vợ anh trắng đến lóa mắt, rạng ngời như nụ cười của chị.

Mona Varden chỉ bức ảnh và lại thoáng mỉm cười.

- Hôm ấy là Chủ nhật, 13 tháng Mười 1939, tại nhà thờ Gamle Aker. Chiến tranh đã nổ ra ở châu Âu, nhưng tại đây, ở Na Uy tất cả vẫn an toàn. Chúng tôi cưới hơi vội nhưng cũng rất vui mừng. Chúng tôi ở bên nhau hơn hai năm và tôi muốn cưới từ trước đó rất lâu. Nhưng hồi trẻ hơn, Bjørn bị thoát vị bẹn nên sợ không thể có con. Vì thế, anh ấy muốn tôi tự do lựa chọn người khác, hoặc anh đại loại thế. Dù vậy, thỉnh thoảng tôi lại quả quyết với anh rằng anh là người đàn ông duy nhất với tôi. Ngày mồng 1 tháng Mười 1939, tôi kể với anh là tôi đã có thai. Bjørn khóc vì mừng và đề nghị kết hôn ngay lập tức. Chúng tôi tay trong tay chạy tới gặp linh mục, ông cho phép chúng tôi miễn thực hiện nghĩa vụ tôn giáo và đồng ý cho chúng tôi làm lễ cưới vào hai Chủ nhật sau đó. Mùa thu năm ấy, chúng tôi là những người hạnh phúc nhất quả đất, mặc dù chỉ có một phòng trong căn hộ của mẹ tôi và phải vay tiền làm tiệc cưới.

Tôi gật đầu và nhẫn nại đợi bà tiếp tục. Mona Varden đắm chìm trong kỷ niệm một lúc, nhưng trở lại thực tế trước khi cà phê nguội lạnh.

- Khi đứa con yêu quý của chúng tôi chào đời, là một bé gái sinh ra tại Oslo đã bị chiếm đóng. Tôi bị giày vò vì lúc đó đã cố ngăn Bjørn khi lần đầu tiên anh nói đến việc gia nhập lực lượng Kháng chiến. Tôi nghĩ nhiệm vụ hàng đầu của anh ấy là chắc chắn để con gái anh có cha. Bjørn nói nhiệm vụ của anh ấy là bảo đảm mọi em trai, em gái sau này của nó có thể lớn lên trong một đất nước tự do và có cuộc sống hữu ích. Lẽ tất nhiên Bjørn đúng. Bù đắp cho những thiếu sót của mình, tôi sớm nhượng bộ và sau đó là ủng hộ anh ấy rất nhiệt thành.

Trông bà hơi bối rối khi nói câu này. Tôi vội đáp lại rằng tôi chắc Bjørn hiểu và đánh giá cao hành động của vợ.

- Chúng tôi đã sống trong nỗi sợ triền miên. Nhất là sau khi Hans Petter Nilsen bị một kẻ sát nhân không rõ danh tính giết ngay tại nhà riêng. Chúng tôi đã hy vọng sẽ an toàn hơn vì ở đó có hai chúng tôi.

Bà đứng dậy chậm chạp và chỉ thẳng vào cái giường chặn cửa.

- Con gái tôi và tôi ngủ trên giường đó, nó được đẩy sát vào cửa phòng ngủ đằng sau. Cứ ngỡ nếu có kẻ giết người đột nhập, hắn sẽ dừng lại vì động lòng trắc ẩn hoặc vì không thể vượt qua mẹ con tôi mà không gây tiếng ồn đánh thức Bjørn dậy. Tôi nhận ra Bjørn nghĩ khác. Anh ấy biết cửa sổ là nguy hiểm, và chúng tôi sẽ an toàn ở bên kia cửa ra vào.

Bà cẩn thận đẩy cái giường sang một bên và vẫy tôi theo bà vào phòng ngủ. Tôi sửng sốt bước qua ngưỡng cửa và miễn cưỡng vào bên trong.

Phòng ngủ của Bjørn Varden được giữ gìn như một bảo tàng vụ sát hại, và Bjørn Varden đã chết trên giường ở đây hai mươi tám năm trước. Một số ảnh của Bjørn treo trên tường. Góa phụ cam đoan với tôi rằng phần còn lại của phòng được giữ y nguyên như buổi sáng bà bước vào thấy chồng đã chết. Tôi tin lời bà.

- Con gái tôi và tôi có mọi không gian cần thiết còn lại trong căn hộ. Trong nhiều năm tôi không dám đi qua cánh cửa này và như tôi đã nói, tôi đợi ngày hôm nay, cảnh sát tới và hỏi han.

Bà hít vài hơi thật sâu trước khi nói tiếp.

- Chúng tôi hiểu cửa sổ có thể là nguy hiểm. Nó dễ mở từ bên trong, phòng khi anh ấy cần trốn thoát, nhưng cũng dễ mở từ bên ngoài nếu có người biết cửa thuộc loại nào. Chúng tôi nghĩ sẽ an toàn vì chúng tôi ở tầng thứ nhất, nhưng kẻ đột nhập chỉ cần một cái thang ngắn là vào được. Chúng tôi thực sự tin không ai làm việc đó và không người nào biết về cửa sổ và phòng ngủ. Nhưng chúng tôi đã nhầm.

Tôi hỏi nhanh những ai có thể biết về nó. Bà thở dài thật sâu rồi mới trả lời.

- Tất cả mọi người trong nhóm: vợ chồng Wendelboe, Magdalon Schelderup và Hans Herlofsen, cũng như Ole Kristian Wiig quá cố. Họ mới đến đây họp ba ngày trước đó. Hồi đó có một người, ờ, một người tôi luôn nghĩ…

- Nói cách khác là…

- Nói cách khác là một người bạn cũ của tôi, Magdalena Schelderup đã tình cờ tạt vào uống cà phê vài ngày trước đó. Anh thấy đấy, chúng tôi vừa dọn đến nên tôi đóng vai chủ nhà vui vẻ và dẫn bà ta đi khắp căn hộ khi bà ấy đề nghị. Tất nhiên tôi không nhắc đến cái cửa sổ, nhưng có Trời mới biết con mắt cú vọ của bà ta đã tia được những gì.

Tôi gật đầu tán thưởng và cảm thấy mạch đập dồn. Một lần nữa, dường như Magdalena Schelderup dính líu rất nhiều thứ. Tôi hỏi từ đó bà có tiếp xúc lần nào không.

- Với Magdalena ư? Không, không hề. Hoặc là bà ta giết chồng tôi, hoặc biết là tôi nghi ngờ bà ta. Chắc chắn bà ta đủ khôn để tránh xa.

Mona Varden đứng trơ trọi với những hồi ức buồn bã một lúc lâu. Rồi một nụ cười dè dặt thoáng nở trên môi bà.

- Những người khác rất tốt. Tôi nhận được tiền từ ông bà Wendelboe và Schelderup để tôi có thể ở lại đây đến hết cuộc chiến. Một ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Magdalon Schelderup đích thân đến xem mẹ con tôi sống ra sao và hỏi chúng tôi cần bao nhiêu cho những năm sắp tới. Ông đã nói với Wendelboe và từ đó cứ đến tháng Giêng hằng năm, họ gửi số tiền tôi cần vào tài khoản của tôi. Từ năm 1946 đến 1951, mỗi năm tôi nhận 6.000 krone, sau đó là 8.000 krone đến năm 1958, và từ năm 1959 tôi nhận 10.000 krone mỗi năm. Tôi luôn nghĩ Magdalon nghi ngờ em gái nhưng không chắc chắn, chính vì thế ông ta thể hiện sự hào phóng mà nhiều người không thấy. Dù sự việc là thế nào đi nữa, đây là sự tử tế đến khó tin của ông ta.

Tôi phải đồng ý với bà. Đúng là sự tử tế khó tin của Magdalon Schelderup. Tôi không thích ông ta dù chỉ mảy may. Vì quan tâm, tôi hỏi tiền gửi đến tài khoản của bà trong bao lâu. Trông Mona Varden gần như ngượng nghịu khi trả lời.

- Tôi vẫn nhận được tiền. Vài năm trước, khi con gái tôi dọn đi, tôi đã viết cho họ nói bây giờ tôi có thể đi làm lại, nhưng tiền vẫn đến. Đó là khoảng thời gian đứa cháu ngoại đầu tiên của Bjørn ra đời. Bởi vậy tôi nhận tiền và dành thời gian chăm sóc cháu mình.

Tôi không nghĩ ra câu hỏi nào nữa, nên hỏi thăm cuộc sống của con gái và cháu ngoại bà ra sao.

- Ổn thỏa như mong đợi. Con gái tôi không thiếu thốn về mặt tài chính như nhiều đứa trẻ khác thiếu cha sau chiến tranh. Nhưng nó lớn lên thiếu một người cha và ở trường nhiều thứ không suôn sẻ như tôi mong, mặc dù tôi đã thuê một gia sư riêng cho nó trong một thời gian. Bjørn không ở đây, còn tôi lúc nào cũng ở đây. Tôi cho rằng nó yêu tôi quá nhiều và yêu bố nó quá ít.

Bà có vẻ nghiêm trang khi nói câu này, nhưng rồi bà lại tươi nét mặt.

- Hiện giờ nó có một đứa con trai lên ba. Tên cháu là Bjørn, và rất giống ông ngoại. Anh lại đây và nhìn này!

Bé trai trong ảnh rất đáng yêu và lúc nào cũng cười. Tuy nhiên, ngoài màu tóc, tôi thấy chẳng có nét gì giống nhau đáng chú ý giữa bé và Bjørn Varden trong các tấm ảnh cũ. Nhưng sự phát hiện của tôi có thể không thích đáng và tôi tin Mona Varden là người đánh giá đúng hơn. Bằng giọng thân thiện nhất, tôi nói hai ông cháu giống nhau lạ thường và rõ ràng cậu bé trông rất thông minh. Bà đáp lại bằng nụ cười ấm áp.

Trở lại mạch chuyện lần nữa, tôi hỏi có phải bà vẫn sống với con gái tại đây suốt từng ấy năm.

- Phải. Trước khi cưới tôi đã nói hoặc anh ấy hoặc không có ai, và sau Bjørn không có ai hết. Trong những năm sau chiến tranh, có một số người tỏ ra quan tâm đến tôi nhưng hoàn toàn không hợp. Tôi muốn dành cả đời cho con gái của Bjørn, và, khi thấy người mình yêu đã chết, lại không bao giờ tìm ra thủ phạm, dường như nó bẻ gãy thứ gì đó trong tôi và không bao giờ có thể chữa lành.

Điều đó thật dễ hiểu. Nhưng tôi phải hỏi liệu trong số những người đàn ông quan tâm đến bà, có ai là người bà đã quen biết trong chiến tranh không.

- Nếu anh định ám chỉ, thì không bao giờ là Magdalon Schelderup và không bao giờ là Petter Johannes Wendelboe. Cả hai đã có vợ và khi Schelderup ly dị người vợ sau, trong vòng vài tuần ông ta đã cưới người khác. Bởi vậy, sự giúp đỡ của ông ta dường như không phải là sợi dây ràng buộc. Mặt khác…

Bà ngập ngừng, nhưng rồi nói tiếp khi tôi tỏ ra sốt ruột.

- Mặt khác, có một thời tôi có cảm giác là giám đốc Hans Herlofsen cũng quan tâm. Đó là giai đoạn vợ ông ấy vừa mất, khi cuộc sống của ông ấy và con trai gặp nhiều khó khăn.

Nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi, bà tiếp tục ngay lập tức.

- Việc ấy cũng chẳng hại gì. Ông ấy tạt vào vài lần sau khi tan sở, nói hai người cha mẹ đơn thân rất tốn thời gian và tiền bạc, ai cũng có con riêng, và có thể tiết kiệm bằng cách kết hôn với nhau. Dù sao thì ông ấy cũng không phải là người tôi chọn. Quan trọng hơn cả là tôi chẳng có gì để trao tặng cho bất cứ người đàn ông nào ngoài Bjørn, và không nghĩ tôi có thể làm điều đó. Tôi giúp Herlofsen hiểu điều này và ông ấy không đến thăm nữa. Trong nhiều năm qua, bất cứ khi nào gặp nhau chúng tôi cũng thấy đủ dễ chịu. Nhưng quả thật tôi không biết phải làm gì với bất kỳ vụ giết người nào.

Nói thật thì tôi cũng không biết. Tuy vậy, tôi ghi một câu hỏi mới cho Hans Herlofsen, và ngẫm nghĩ thấy ông ta đã quên kể cho tôi khá nhiều chuyện.

Tôi nhận xét hầu như đã thấy mọi thứ tôi cần trong căn phòng chồng bà bị giết và bây giờ bà có thể thanh thản, muốn gì làm nấy với nó. Bà lắc đầu buồn bã.

- Tôi thích dọn dẹp căn phòng cho sạch sẽ ngăn nắp, nhưng vẫn chưa sẵn sàng. Tôi hy vọng sẽ có thể bắt đầu vào ngày sau khi anh báo cho tôi biết ai là kẻ đã giết chồng tôi.

Tôi nhận lời gợi ý và đứng dậy ra về. Tôi nghe thấy mình hứa sẽ cố gắng hết sức và sẽ báo ngay cho bà càng sớm càng tốt khi tôi phát hiện ra điều gì mới mẻ. Đồng thời, tôi tự nhủ ai giết Magdalon Schelderup không quan trọng, quả thực ông ta đã để lại sau mình một chuỗi những con người và số phận buồn.

VII

Vào khoảng 4 giờ chiều khi rời khỏi nhà Mona Varden, tôi thấy rõ với những phát hiện trong ngày, tôi nên có một chuyến thăm khác, tới một trong những người trong nhóm. Không thể kết thúc một ngày mà không đối mặt với Hans Herlofsen với thông tin mới, đặc biệt là mảnh giấy trong căn hộ của Arild Bratberg. Tôi tạt vào văn phòng xem có gì mới không.

Hầu hết các nhân viên đã về nhà và như tôi vừa mong vừa sợ, không có tin nhắn mới từ đội pháp y.

Tuy nhiên, một thứ khiến tôi chú ý đang đợi lẻ loi trên bàn tôi. Đó là một phong bì nhỏ, mỏng, đề gửi “Người chỉ huy cuộc điều tra vụ án mạng của Magdalon Schelderup”.

Nét chữ giống hệt bức thư tôi đã nhận được sau cái chết của Magdalon Schelderup một ngày. Phong bì này cũng đựng một tờ giấy trắng duy nhất. Tuy vậy lần này văn bản còn ngắn hơn.

Ở đây, bây giờ.

Thế là một trong những đứa con của tên độc tài đã chết.

Có thể tiếp theo còn nhiều hơn nữa, nếu anh không sớm tìm ra kẻ nào trong chúng tôi đang làm sai…

Tôi ngồi đó, nhìn trừng trừng vào tờ giấy. Những kết luận sơ bộ của Patricia về bức thư đầu tiên được củng cố vì bức thư thứ hai. Nếu người gửi là kẻ sát nhân thực sự, hắn hoặc ả chắc là một nhà thơ xoàng, vì lý do nào đấy cảm thấy cần phô trương với cảnh sát.

Nhưng tôi không thể lượm lặt được gì hơn từ bức thư ngắn ngủi. Có một kết luận hiển nhiên và gây lo lắng: sẽ có thêm những cái chết đầy kịch tính nữa.

Người gửi cũng đủ vừa phải để không ký tên. Tôi chụp một bản sao bức thư và gửi nguyên bản kiểm tra dấu tay, song không hy vọng lắm. Bằng mắt thường tôi cũng thấy cùng loại phong bì, cách đề địa chỉ giống hệt bức thư trước.

Nhưng có một khác biệt nhỏ, kỳ lạ. Trong khi mặt sau phong bì của thư trước trắng và sạch, trên phong bì lần này tôi phát hiện ra một vết nhỏ bút mực màu xanh lá cây. Là một đường thẳng, chỉ dài khoảng hai xen ti mét. Nhưng không hiểu vì sao tôi không tin đây là tình cờ. Theo một cách đặc biệt mà tôi không thể tự giải thích nổi, cái vạch ngắn ngủi màu xanh lá cây chỉ khiến tôi càng bối rối và lo âu về những tiến triển sắp tới trong vụ án.

VIII

Ngôi nhà của Hans Herlofsen ở Lysaker lớn hơn tôi nghĩ. Nó cùng kích thước như nhà của Wendelboe, một ngôi nhà rộng rãi hai tầng, khu vườn được chăm sóc chu đáo. Không hiểu sao, chiếc Peugeot cũ của Herlofsen trông không hợp với ngôi nhà.

Một phụ nữ trẻ bế đứa bé đang ngủ lơ mơ trên tay ra mở cửa. Cô mỉm cười thận trọng và nói chồng cô chưa đi làm về, nhưng ông bố chồng có nhà, đang ở trên gác.

Tôi thấy Hans Herlofsen trong phòng ăn rộng lớn, ngồi một mình bên cái bàn to với bữa tối còn nguyên trước mặt. Ông ra hiệu cho tôi ngồi ở bên kia bàn. Mặt ông vẫn giữ vẻ đau buồn khi tôi khen ông có ngôi nhà đẹp và được chăm sóc kỹ càng đến thế.

- Khó mà tìm được một người đàn ông nữa trong thành phố này gắn bó với nhà cửa hơn tôi. Tôi sinh ra ở tầng trệt và sống ở đây suốt năm mươi lăm năm trong đời. Chúng tôi đã dàn xếp để thế hệ trẻ hơn sống ở tầng dưới, hứa hẹn rằng tôi có thể sống ở đây đến khi chết. Tôi không thể hình dung đời tôi thiếu ngôi nhà này và con trai tôi. Tôi có thể giữ được cả hai là một kỳ công nhỏ. Thêm vào đó có một cô con dâu nấu ăn rất ngon.

- Nội dung bản di chúc chắc làm ông khuây khỏa rất nhiều?

Ông gật đầu.

- Tôi sung sướng hơn khi thừa nhận điều đó. Dường như gánh nặng chết người tôi mang khoảng hai chục năm nay đã tan biến khi nghe đọc di chúc. Miễn là không còn những tình thế phức tạp hoặc bất cứ thứ gì tương tự, giờ đây tôi có thể quên quá khứ và bắt đầu dành dụm tiền của mình. Tôi đã học được cách sống thanh đạm, nên không có lợi tức và giảm lương, mỗi năm tôi vẫn có thể để dành khoảng 4.000 đến 5.000 krone. Với lãi suất hiện tại, số tiền có thể lên gần 100.000 krone trước khi tôi bảy mươi tuổi và có thể nghỉ hưu. Có nghĩa là tôi có thể để lại cho con trai tôi và gia đình của nó một ngôi nhà không cần thế chấp và một tài khoản ngân hàng khá dồi dào. Sau mọi chuyện xảy ra, tôi chưa bao giờ đòi hỏi gì hơn.

Hình như sự tủi thẹn phá hỏng tâm trạng vui sướng và thảnh thơi của ông. Nhưng lúc này làm thế dễ dàng hơn, vì tôi đã biết ông giấu giếm một thông tin quan trọng.

- Tôi xin lỗi, nhưng tôi e rằng phải hỏi ông một số câu khó trả lời. Nghĩ cho cùng, tôi là người chỉ huy cuộc điều tra án mạng, và cái chết của Magdalon Schelderup rõ ràng là một sự giải thoát lớn cho ông.

Hans Herlofsen lau trán với vẻ lo âu.

- Không ai phủ nhận điều đó, nhưng tôi hoàn toàn cởi mở về chuyện này. Có ít nhất ba người nữa được lợi hơn tôi một cách đáng kể, ấy là chưa tính đến đứa trẻ chưa ra đời. Tôi không hề biết chúc thư đã thay đổi và nếu không, nói thật là cái chết của ông ấy báo hiệu sự suy tàn của tôi. Vì vậy khó mà thấy đó là một động cơ và dù sao đi nữa, tôi không giết ông ấy.

Lập luận của ông ta đủ hợp lý. Nhưng vẫn còn vài câu hỏi về những vấn đề mà Herlofsen chưa công khai, còn tôi thích thấy cách ông phản ứng.

- Hôm nay tôi đã đến nói chuyện với vợ góa của Bjørn Varden. Bà ấy kể với tôi có một thời gian ngắn sau chiến tranh ông đã tán tỉnh bà ấy. Bà ấy còn nhớ ông đã tính toán có thể tiết kiệm được bao nhiêu nếu hai người lấy nhau.

Herlofsen ngẫm nghĩ giây lát. Một nụ cười buồn làm khóe miệng ông co rúm, trước khi ông trả lời.

- Tôi cũng vẫn nhớ những con số đó: số tiền chi tiêu của hai nhà nhân với 0,75… Đó là một tình tiết gây nhiều lúng túng, tôi đã hy vọng bà ấy quên, còn tôi không thấy nó có liên quan gì đến cuộc điều tra vụ án mạng hiện nay. Nó chỉ minh họa cho tình trạng tuyệt vọng của tôi, cả trong quan hệ xã hội lẫn tài chính, trong hai hoặc ba năm đầu sau khi vợ tôi qua đời. Mona Varden đã từ chối bằng thái độ rất thận trọng rằng bà ấy không quan tâm và tôi ra về không phản đối. Sau này, tôi nhận ra quyết định đó là tốt nhất cho tất cả mọi người. Tôi không có tiền và đang sống dưới sức ép quá lớn, đến mức tôi sẽ không thể là một người chồng tử tế cho bà ấy hoặc cho bất cứ người phụ nữ nào. Từ đó, tôi hiểu rằng bà ấy vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc vì những hồi ức đau đớn gây ra do cái chết của chồng. Bởi vậy, nếu chuyện đó diễn ra sẽ giống như người điếc dẫn dắt người mù.

- Còn những ai có thể thấy đó là động cơ có thể để giết chồng bà ấy, nếu giả sử kẻ sát nhân thật ra là người trong nhóm Kháng chiến?

Herlofsen nhìn tôi với vẻ oán hận lạnh lùng đột ngột.

- Tôi thành thật mong rằng không người nào làm việc đó. Bjørn Varden là bạn tốt của tôi và tôi không bao giờ làm hại ông ấy. Ngoài ra, khi Bjørn Varden mất, tôi đã đính hôn và rất hạnh phúc. Tất nhiên không thể không nghĩ kẻ giết Bjørn Varden có thể là một trong sáu người còn sống ngồi quanh bàn khi Magdalon Schelderup chết. Dù sao thì chỉ có thể là một trong năm người kia.

Tôi mỉm cười thân thiện và càng tấn công mạnh hơn vào hàng rào phòng thủ đang đổ nát của ông ta.

- Tôi muốn tin ông, nhưng ông sẽ là người đầu tiên phải cho tôi một giải thích đáng tin cho tài liệu này, tôi tìm thấy từ sớm hôm nay trong nhà Arild Bratberg.

Herlofsen nhìn mảnh giấy và nhăn mặt dữ tợn. Ông ta ngồi lặng im một lúc, thở dài nặng nề hai lần trước khi bắt đầu.

- Cả tên và ngày tháng đều đúng. Lẽ ra tôi nên nói với anh, nhưng tôi sợ sẽ bị nghi ngờ không đúng về vụ giết người và ước tính rằng rủi ro còn lại về chuyến đến thăm của tôi sẽ khá mong manh. Sự thật là ngày 12 tháng Hai năm nay, tôi đã đến thăm Arild Bratberg. Tôi đã nghiền ngẫm một thời gian dài, vì muốn tìm ra lời giải cho một trong những bí mật từ thời chiến. Tôi đã nghe nhiều tin đồn rằng Bratberg đang trong tình trạng rất xấu và tự nhủ, vậy thì bây giờ hoặc không bao giờ. Chuyện là thế. Theo thông báo trên tờ Aftenposten, Arild Bratberg mất sau chuyến thăm của tôi ba mươi hai ngày.

- Chuyến thăm ấy như thế nào?

Herlofsen lắc đầu buồn bã.

- Rất khó nói. Những cuộc trò chuyện tình cảm như thế chẳng bao giờ dễ với tôi. Bratberg rõ ràng là ốm rất nặng, hơi say và hút thuốc liên miên. Ông ta khiến tôi sửng sốt vì là người khá bất ổn. Thỉnh thoảng Bratberg nhắc lại câu chuyện của mình trên tòa và thề trên mồ mẹ rằng ông ta không phải là người bắn Ole Kristian Wiig ngày 8 tháng Năm 1945. Bratberg vừa khóc nức nở vừa nói và cuối cùng, gần như quỵ trên gối, ông ta van nài tôi hãy tin ông. Trải nghiệm đó hết sức khó chịu và tôi rất tiếc đã tới đó.

- Ông đã nói gì với ông ấy?

Herlofsen nhìn thẳng vào tôi, không nao núng.

- Rốt cuộc, tôi nói với ông ấy sự thật: tôi tin ông ấy. Nó làm ông ấy rất mừng. Tôi vẫn nghĩ những chi tiết ông ấy kể thật khác thường. Nhưng tôi hiểu Magdalon đủ rõ để biết rằng hầu như ông ta có thể làm bất cứ việc gì nếu lợi ích của bản thân bị đe dọa. Arild Bratberg vô cùng bất hạnh và thật thà đến mức tôi đánh giá sự thật về những điều ông ấy kể phải trên 50%.

Herlofsen chỉ mảnh giấy.

- Hình như Bratberg nhận ra tôi ngay lúc tôi đến, kể cả sau từng ấy năm. Tôi không xưng tên và không chắc ông ấy biết tôi là ai. Rõ ràng là ông ấy biết. Mặc dù nhầm lẫn nhiều việc khác, song dường như các sự kiện thời chiến vẫn rất sáng sủa trong tâm trí ông ấy.

Tôi gật đầu đồng tình. Hans Herlofsen là người duy lý và hiển nhiên là nhớ nhiều thứ ngoài các con số. Tôi nghĩ đã nhận ra một cơn rùng mình và còn hơn cả tàn nhẫn trong cuộc tấn công của tôi.

- Trong chuyến đến thăm, Arild Bratberg đã đề nghị ông giết Magdalon Schelderup phải không?

Tôi gần như mong ông ta sẽ đổ sụp trên ghế. Thay vào đó, Herlofsen thẳng người lên. Một lần nữa, tôi thoáng nhìn thấy một người đàn ông mạnh mẽ hơn và cứng rắn hơn đằng sau vẻ mặt dễ chịu.

- Không, chắc chắn là không nói một cách trực tiếp. Bratberg nhắc lại vài lần rằng Magdalon là một kẻ sát nhân có tính toán, đáng bị bắn sau chiến tranh. Nhưng Bratberg không nói một lời nào về việc bây giờ phải giết ông ta, và cũng không nhờ tôi. Ông ấy là người ốm yếu và nhẫn nhục.

- Ông có biết ai trong số những người khác liên quan trong vụ này đã đến thăm Arild Bratberg, trước hoặc sau ông không?

Herlofsen kiên quyết lắc đầu.

- Không. Bratberg không nhắc đến ai, nhưng nói rằng tôi là người đầu tiên tới thăm trong nhiều năm, ngoài một bà già ở nhà bên. Sau đó tôi không liên lạc với ông ta lần nào nữa và không người nào nói đã đến thăm Bratberg.

Chúng tôi chấm dứt câu chuyện ở đó, với cung cách khá lịch sự. Tôi đề nghị ông cho tôi biết nếu nhớ thêm điều gì. Tôi thấy Herlofsen do dự trong giây lát, rồi đáp ông ta không còn gì hơn để nói, và thoáng mỉm cười. Ông ta nhắc lại mình không giết Magdalon và không biết ai đã làm việc đó.

Chúng tôi chào tạm biệt nhau khá lịch thiệp lúc 5 giờ. Lúc này, bàn tay ông ta đẫm mồ hôi.

Trên đường về trung tâm Oslo, tôi đi qua ga Lysaker đúng lúc một đoàn tàu ra khỏi ga. Một thanh niên trạc hai mươi đứng lẻ loi trên sân ga, rõ ràng cậu ta đã chạy theo đoàn tàu nhưng không kịp. Nom cậu ta cô đơn và hoang mang đến mức tôi mong đời cậu sẽ không bị đảo lộn. Nhưng hình ảnh của chàng trai không quen biết trên sân ga cứ lưu lại trong tôi như một minh họa cho tấn thảm kịch của cuộc đời Arild Bratberg nay đã quá cố. Dù có phạm tội giết người hay không, Arild Bratberg đã bị bỏ lại một mình trên sân ga lúc đoàn tàu sau cuộc chiến c