NGÀY THỨ SÁU Ngày vất vả, đêm mịt mù-I
Khởi đầu ngày thứ Năm, 15 tháng Năm 1969 của tôi chẳng có gì tốt đẹp. Tôi vừa bước vào phòng làm việc, chuông điện thoại đã bắt đầu reo. Là sếp của tôi, ông yêu cầu tôi đến văn phòng ông ngay lập tức. Tôi biết ngay có chuyện gì đó không ổn. Ngày 17 tháng Năm là Quốc khánh Na Uy, báo chí đang chuẩn bị cho ngày hội của đất nước, các bản tin về việc phóng con tàu Apollo 10 ở Mỹ và bắt đầu cuộc thám hiểm Ra của Thor Heyerdahl ở Morocco chiếm ưu thế vượt trội. Tóm lại, nhiều thông báo đầy lo âu nói rõ rằng vẫn chưa có tiến triển gì trong cuộc điều tra “khó khăn và quan trọng” các vụ sát hại “nhà triệu phú Magdalon Schelderup và ngôi sao điền kinh Leonard Schelderup”, tuy vậy, ông cảnh báo một cơn bão truyền thông có thể đang tích tụ.
Tôi kể thật với ông rằng chưa có gì dứt khoát sắp xảy ra dưới dạng bắt giữ hoặc đại loại thế, nhưng cuộc điều tra đã chọc thủng một số phòng tuyến quan trọng và có đủ lý do để hy vọng rằng cả hai vụ sẽ sớm được giải quyết. Báo cáo bằng văn bản hôm qua đã bổ sung vội một số kết luận của Patricia tuy đương nhiên không hề nhắc đến tên cô hoặc việc tôi đã đến gặp cô.
Tôi kết thúc bằng cách hỏi sếp, với kinh nghiệm phong phú và kỹ năng điêu luyện của mình, liệu có thể lượm lặt hơn những gì tôi có từ thông tin có sẵn không. Ông mỉm cười và lắc đầu trầm ngâm. Kết quả là ngày 15 và 16 tháng Năm, tôi sẽ phải làm thêm giờ, và nếu không có vụ bắt giữ nào, chúng tôi sẽ thảo luận vụ việc lần nữa vào ngày nghỉ, tức là ngày 17 tháng Năm.
Bước ra khỏi phòng sếp, tôi thốt một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Lúc này, nếu không nói là trước đó, tôi sửng sốt thấy rõ ràng có nhiều đồng sự sẽ rất vui mừng không thừa nhận vị trí của tôi. Và trên đường về phòng làm việc của mình, tôi không dừng lại ở bất cứ phòng nào khác.
IINếu bắt đầu một ngày hơi phiền toái, phần còn lại trong ngày lại tốt hơn hẳn. Cú điện thoại đầu tiên là của Sandra Schelderup, gọi từ Lâu đài Schelderup. Giọng bà vẫn thân thiện và tôn trọng. Bà muốn cảm ơn tôi lần nữa vì đang dẫn dắt cuộc điều tra hiệu quả đến thế, bà nói thêm rằng cả bà và con gái sẽ rất cảm kích nếu tôi có thể ghé đến trong ngày để cập nhật tình hình cho họ.
Tôi chưa có kế hoạch cụ thể nào trong ngày, ngoài nói chuyện với Herlofsen và Wendelboe lần nữa. Vì thế tôi đáp lại tôi cũng có vài câu muốn hỏi họ, và hy vọng có thể tạt vào khoảng giờ ăn trưa. Bà nói họ rất mong mỏi gặp tôi.
Tôi vừa đặt điện thoại thì có tiếng gõ cửa. Một kỹ thuật viên dấu vân tay thở không ra hơi đang đứng bên ngoài, anh ta muốn trực tiếp nói chuyện với tôi về thứ tìm thấy rất giật gân trong căn hộ của Leonard Schelderup. Trên bàn bên cửa phòng khách, họ tìm thấy một dấu vân tay duy nhất nhưng rõ ràng và khá mới, khớp với một trong những người phụ nữ đã có dấu vân tay tại Lâu đài Schelderup, sau vụ giết Magdalon Schelderup.
Những khuôn mặt phụ nữ lóe sáng qua tôi trước khi anh ta nói tên. Nó chính là cái tên tôi hy vọng. Hai phút sau, tôi đã ngồi trong xe trên đường tới Gulleråsen. Tôi rẽ ngoặt trước Lâu đài Schelderup. Lần này tôi sẽ rất thích thú nghe Magdalena Schelderup phải cất lời biện hộ cho mình.
IIITôi tới nhà Magdalena Schelderup, trông mong phá được vụ án. Kết quả chẳng được gì ngoài một cuộc nói chuyện chán ngắt nữa. Hoặc Magdalena Schelderup là một diễn viên cừ khôi hơn tôi tưởng, hoặc bà đang quẫn trí thực sự. Bà nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng bà chưa bao giờ biết kể toàn bộ sự thật đúng lúc và đương nhiên bà nên kể chuyện này cho tôi từ trước. Mắt bà rưng rưng lệ và giọng bà thiểu não, thỉnh thoảng bà lại nói khi bà ra khỏi nhà, Leonard Schelderup vẫn còn sống. Và bà không hề biết ai giết cậu ta hoặc anh trai bà.
Câu chuyện của bà đủ đơn giản và tôi phải thừa nhận là không tin được hoàn toàn. Sau cái chết của Magdalon Schelderup và cuộc thẩm vấn của tôi, bà ta hiểu rằng ngay từ ban đầu, sự hoài nghi đã chĩa thẳng vào bà và Leonard. Vì không có con, bà luôn đằm thắm với đứa cháu trai. Bởi vậy ngày hôm sau, bà đã gọi điện hỏi liệu hai cô cháu có thể gặp nhau để bàn bạc một số việc không. Leonard trả lời bà đến lúc nào cũng được đón mừng. Bà đến đó vào đầu buổi tối và họ đã có một cuộc trò chuyện khá dễ chịu. Bà giục cậu thú tội nếu cậu giết cha mình, và nói cả bà lẫn những người khác trong gia đình sẽ hiểu nếu chuyện đó xảy ra. Leonard đã khẳng định: cậu chẳng có gì để thú nhận. Lúc đó, bà cô của cậu không chắc có tin cậu hay không. Bà nói thêm với vẻ mặt đau đớn, tất nhiên là bây giờ bà tin.
Theo lời khai của Magdalena, thì Leonard Schelderup đã rất thoải mái trong phần lớn cuộc chuyện trò, nhưng vào khoảng 9 giờ tối, sau cú điện thoại của một người vô danh, cậu bỗng trở nên bối rối. Lúc đó bà đứng cạnh Leonard nên có thể nghe thấy giọng ở bên kia đầu dây rõ từng lời. Người đó buộc Leonard tội giết cha và dọa cậu sẽ sớm bị giết nếu không nói rõ, nói hết mọi ý định của mình. Người gọi ngắt máy lúc Leonard thất vọng đáp rằng cậu chẳng có tội gì để thú nhận. Cậu ta vô cùng hoang mang và muốn gọi tôi ngay sau cú điện thoại, vì thế bà đành vội vàng rút lui. Leonard đã khóa cửa sau lưng bà. Đó là lần cuối cùng bà trông thấy đứa cháu trai còn sống, bà nói, nước mắt giàn giụa.
- Leonard mến anh và trông mong anh có thể phá được vụ của cha nó, - bà ta nói thêm, ngay lập tức.
Câu này chắc chắn có chủ định rõ ràng. Song cả hai chúng tôi đều sửng sốt. Sau ba ngày tôi vẫn chưa phá được vụ giết Magdalon hay Leonard Schelderup. Dưới ánh sáng của cuộc trò chuyện hôm nay, hiện giờ bà ta chính là nghi phạm hàng đầu của cả hai vụ án mạng.
Tôi hỏi vì sao chỉ có một dấu vân tay trong căn hộ, vì sao nó lại ở trên bàn cạnh cửa. Câu trả lời xứng đáng với sự nghiêm trọng của tình hình, bà không muốn để lại bất cứ dấu vết nào trong nhà của một nghi phạm khác, vì thế bà không hút thuốc. Bà đi găng tay khi vào nhà và cố không động chạm vào mọi thứ. Leonard đã dọn cà phê và bánh quy, nhưng bà cố tình không ăn uống gì. Bà nghĩ có dấu vân tay ở trên bàn chắc vì trên đường ra, bà bị vấp và phải túm lấy bàn cho vững.
Magdalena Schelderup hiểu tình cảnh của bà mong manh biết chừng nào và hỏi thẳng tôi có định bắt giữ bà không. Ý nghĩ ấy thật cám dỗ, nhất là qua cuộc nói chuyện với sếp vào đầu giờ sáng nay mở đường. Nhưng tôi cũng biết rõ phản ứng mạnh sẽ khắc nghiệt biết bao nếu có thể xảy ra những vụ bắt giữ vội vàng, và phải thừa nhận rằng thực ra vẫn chưa đủ bằng chứng chống lại bà. Lời giải trình của bà khớp với cú điện Leonard gọi tôi, phù hợp với những lời khai của người hàng xóm và người tình của cậu. Lẽ tất nhiên cũng có khả năng Magdalena Schelderup trở lại vào lúc nào đó giữa nửa đêm và 3 giờ sáng, rồi giết chết cháu trai. Nhưng không có bất cứ dấu hiệu gì cho thấy bà đã làm việc này. Bởi vậy tôi kết luận bất cứ cuộc bắt giữ nào cũng phải đợi, nhưng ngay lập tức hỏi bà có biết điều gì quan trọng nữa không.
Magdalena ngồi và nghĩ ngợi lúc hút thuốc. Rồi bà ta kiên quyết dụi tắt điếu thuốc.
- Nếu vậy, vì ép buộc và trái ngược với mong muốn của mình, tôi sẽ giãi bày với anh một việc mà nhiều năm qua, tôi đã hứa sẽ không bao giờ kể với bất cứ người nào còn sống, lời hứa đó tôi đã giữ cho đến ngày nay. Đây là tên của người đã đưa tôi gia nhập NS năm 1940…
- Người đó là…
Bà ngập ngừng giây lát, rồi bắt đầu câu chuyện.
- Là anh trai quý hóa của tôi, Magdalon Schelderup. Một buổi tối, ông đến nhà tôi, đặt tờ đơn đã hoàn tất xuống bàn và bảo tôi ký vào. Ông cũng làm thế với em trai tôi. Nó sẽ cứu được tài sản của gia đình nếu Đức thắng và sẽ không có hậu quả gì nếu phe Đồng minh thắng. May mắn thay chúng tôi sẽ không bao giờ biết kết luận thứ nhất có đúng không, nhưng cái sau thì chắc chắn là không. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm cay đắng trong những năm sau chiến tranh.
Rồi bà bổ sung:
- Anh không tin tôi chứ gì?
Tôi nghĩ đến lời Patricia nói về trình tự các sự kiện xảy ra trong năm 1940 và đáp rằng tôi không chắc nó có gì quan trọng với bất cứ vụ án mạng nào, nhưng căn cứ vào những phát hiện tôi đã thấy trong suốt quá trình điều tra, trên thực tế tôi có thể tin lời bà nói về việc gia nhập NS.
Chúng tôi chia tay hầu như thân thiện. Nhưng nỗi nghi ngờ Magdalena chỉ càng mạnh thêm vì sự thất bại mới nhất này, toàn bộ sự thật vẫn chưa được hé lộ. Tôi tới đó với hy vọng được nghe một lời thú tội và ra về với sự nghi ngờ càng lớn thêm rằng thực ra, bà ta chẳng thú nhận gì hết.
IVMặc dù tôi đã có thêm nhiều chi tiết hồi hộp hơn để hỏi Herlofsen và vợ chồng Wendelboe, tôi nghĩ mình có thể tạt vào Lâu đài Schelderup một lát như tôi đã làm ở Gulleråsen.
Sandra Schelderup đích thân ra đón tôi ở cửa trước và trông bà khá hơn nhiều. Bà trả lời những câu hỏi của tôi chính xác và rõ ràng. Tiếp theo cuộc trò chuyện hôm qua, bà đã lục lọi khắp nơi mà không tìm thấy vòng đeo chìa khóa bị mất. Ổ khóa các cửa ngoài sẽ được thay trong vài giờ và khi xong việc, bà sẽ không cần đến nguồn lực cảnh sát quý giá nữa. Trong vài đêm qua không có dấu hiệu náo động gì ở Lâu đài Schelderup và đàn chó cũng im ắng.
Bà nói bà hiểu đây là một cuộc điều tra rất phức tạp, vì thế tôi không thể nói nhiều hơn ở đây và bây giờ, nhưng bà hy vọng chúng tôi đang có nhiều tiến triển. Tôi xác nhận điều này và nói chúng tôi có những nghi ngờ của mình. Sandra Schelderup run lên nhẹ nhõm khi nghe câu này và nói con gái bà rất mong được nói chuyện với tôi và nhất định cô cũng đánh giá cao tin này.
VCửa phòng Maria Irene Schelderup đóng, nhưng mở ra ngay khi tôi gõ.
Hóa ra phòng của cô vừa dùng làm phòng ngủ vừa là phòng học. Có nhiều khoảng không gian sàn, mặc dù cô có một góc riêng biệt để tivi, một đầu đĩa stereo, một cái bàn lớn và một giường bốn cọc sắp xếp gọn gàng. Maria Irene đứng ở ô cửa, ăn vận thanh lịch đến bất ngờ: một bộ đầm dạ hội đen rất vừa vặn. Ánh sáng lấp lánh trên sợi dây chuyền bằng vàng cô đeo nơi cổ, cùng với đó là ánh sáng lóe lên từ viên kim cương đỏ thắm.
Rõ ràng Maria Irene đang học, vài cuốn sách nằm trên bàn, nhưng cô vẫy tôi vào và gập sách lại. Tôi bình luận rằng các cuốn sách về kinh tế và luật không nằm trong chương trình khi tôi dự thi. Cô cười to và đáp vẫn còn vụ án đó, nhưng vì mùa thu tới cô sẽ vào đại học nên dù thế nào đi nữa, cô cũng không muốn là một sinh viên bình thường.
Tôi không thể đồng tình hơn, và thắc mắc những bộ trang phục làm việc tao nhã có phải là thông thường ở Lâu đài Schelderup không. Cô cười và nháy mắt, đáp rằng cô chỉ mặc bộ này khi trông đợi những vị khách rất đặc biệt.
Tôi không có nhiều điều kể với cô về cuộc điều tra, cũng như không có nhiều câu để hỏi. Như tiếng chuông ngân, các câu trả lời của cô hầu như giống hệt của mẹ cô về việc cái vòng đeo khóa bị mất và tình hình tại Lâu đài Schelderup. Thứ duy nhất cô nói thêm là xin lỗi vì những cơn xúc động của mẹ cô liên quan tới buổi đọc di chúc.
Chúng tôi ngồi suốt trên sofa và thời gian cứ thế trôi qua. Chắc chắn là Maria Irene mê hoặc tôi hơn bất cứ người nào khác trong vụ, bất chấp thực tế là quá khứ của họ chưa để lộ, cuộc sống của họ càng thêm phần hấp dẫn. Một điều gì đó trong vẻ trang trọng và bình tĩnh toát ra từ cô, cộng với tuổi trẻ và sắc đẹp khiến cô vô cùng trái ngược với những cơn bột phát của Magdalena Schelderup và những người già cả khác đang gần đất xa trời.
Tôi tự cho phép mình thổ lộ rằng chắc hẳn rất khó khăn cho cô phải chứng kiến những thảm kịch gay cấn trong gia đình mình ở độ tuổi còn trẻ như thế. Maria Irene cam đoan với tôi rằng cô chịu được, nhưng công nhận rằng mấy ngày vừa qua đòi hỏi rất nhiều cố gắng. Cô cảm ơn sự ân cần của tôi với nụ cười hết sức ngọt ngào.
Maria Irene đặt bàn tay nhỏ nhắn của cô lên vai tôi lúc nói câu này. Bàn tay cô mềm hơn và ấm hơn tôi hình dung. Chỉ đến lúc này tôi mới nhận ra ba khuy trên cùng của bộ đầm không cài, cho nên nhìn rõ cả phần trên bầu ngực trẻ trung của cô.
Sau này, tôi có nhiều vấn đề quan trọng giải thích cho mình chuyện xảy ra trong vài giây tiếp theo. Hình như tôi đã buông thả cơ thể mình theo một cách khác thường. Tôi nghe thấy tiếng Maria Irene nói cô thấy mấy ngày vừa qua tại Lâu đài Schelderup rất khó khăn và lẻ loi, vì thế cô sẽ phấn chấn lên rất nhiều nếu tôi vui lòng khiêu vũ với cô. Tôi nghe thấy mình trả lời đồng ý, mất ba phút trong ngày làm việc chắc chắn là được phép, và nhất định nếu nó giúp được cô. Tôi thấy Maria Irene mỉm cười, ngả người tới trước và đặt một đĩa đơn vào máy hát rồi ấn nút play. Động tác ấy càng làm cho bộ ngực cô lồ lộ dưới bộ đầm và sợi dây chuyền vàng.
Rồi đột ngột, chúng tôi đứng dậy và tôi cùng cô khiêu vũ theo giai điệu bản hit từ mấy năm trước Something Stupid của bộ đôi nổi tiếng Nancy và Frank Sinatra. Dưới tiếng nhạc ngụy trang, Maria Irene thì thầm với tôi rằng đây là bài hát yêu thích của cô và tôi thật tử tế khiêu vũ cùng cô. Tôi đáp bài hát này rất hợp với cô. Tôi nghĩ giọng của Nancy Sinatra rất giống giọng Maria Irene, có điều Maria Irene xinh đẹp hơn nhiều.
Sau này, tôi không biết chắc mình có thực sự thì thầm câu ấy với cô hay không. Tôi nhớ là tôi đã ngỡ thân hình cô hình như an toàn hơn và vững chắc hơn trong vòng tay tôi, nụ cười của cô đẹp hơn, đôi môi đỏ thắm của cô sát gần hơn vào môi tôi. Tôi hầu như không thể tránh khỏi lướt nhìn xuống cổ cô, thậm chí không cố tránh. Trước hết, ánh mắt tôi nấn ná trên viên kim cương lộng lẫy, rồi sau đó lướt sâu xuống bộ ngực tuyệt đẹp của cô. Tôi sửng sốt vì một ý nghĩ choáng váng và hơi ngớ ngẩn là tôi được một nữ thừa kế trẻ măng, vô cùng kiều diễm, đáng giá ít nhất 40 triệu krone mời khiêu vũ ngay trong nhà nàng, khi không có ai ở đấy.
Chúng tôi gần như lướt theo những vòng tròn trên sàn trong trạng thái ngây ngất, với một cảm giác hơi hư ảo mà trước đó tôi chưa bao giờ trải qua trên sàn nhảy. Nhưng trái lại, tôi đã hẹn hò với một tiểu thư rất đặc biệt ngay trên sàn nhảy rất đặc biệt này. Chúng tôi đang lướt qua chỗ máy quay đĩa, tôi bực mình khi tiếng nhạc khẽ dần. Tôi nhẹ người thấy Maria Irene buông một bàn tay và khéo léo đặt kim máy hát xuống lần nữa.
Chúng tôi tiếp tục khiêu vũ và quay tròn khắp phòng thêm ba phút nữa. Vòng quay đưa chúng tôi từ chiếc sofa tới cái giường bốn cọc. Lúc giai điệu mờ dần lần thứ hai, Maria ngẩng khuôn miệng đỏ thắm và nghe rõ cả tiếng thở lên miệng tôi. Nó dừng lại, cách chưa đầy hai xen ti mét. Tôi nhìn xuống cặp mắt sẫm lại của cô. Trong khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy chắc chắn rằng cô sẽ không phản đối nếu tôi làm cái việc duy nhất trên đời mà tôi muốn. Nói cách khác, là nâng bổng cô lên và hôn cô bất cần lý do.
Bỗng nhiên, tôi ở một nơi mà sức cám dỗ bao trùm đến mức phần còn lại của thế giới và toàn bộ mọi lo âu của nó dường như biến mất. Lúc này dường như tôi không chỉ quên hết thời gian và địa điểm, mà quên cả tuổi tác và hành tinh. Tôi nhìn vào mặt Maria Irene, với nụ cười hầu như cay độc trên đôi môi thắm và ánh lấp lánh trong cặp mắt nâu của cô, nhưng vẫn bình tĩnh vô tận. Bất ngờ, tôi cảm thấy một thoáng giận dữ bực tức và nỗi thèm khát sâu sắc tước bỏ nụ cười cay độc và vẻ bình thản kia khỏi mặt cô. Tôi nghe thấy tiếng vang của giọng Maria Irene trong tai tôi trong cuộc thẩm vấn đầu tiên, nhận xét Synnøve Jensen to mồm lạ lùng trên giường với một người bản tính kín đáo như thế. Ngay tức khắc, tôi mất tinh thần vì một nỗi khao khát không cưỡng lại được, muốn tìm ra những âm thanh ẩn giấu trong con người Maria Irene thuộc loại nào.
Tôi vừa nhấc cô lên một chút, vẫn còn khoảng cách giữa chúng tôi thì một tiếng đập mạnh ngoài hành lang đưa chúng tôi trở về thực tại theo đúng nghĩa đen. Có tiếng gõ cửa và giọng người mẹ quá ư tức tối: “Maria Irene, nếu thanh tra thám tử còn ở đấy với con, xin con đừng quấy rầy anh ấy bằng thứ nhạc kinh khủng của con.”
Lần đầu tiên trong cuộc điều tra, tôi thực sự căm ghét một trong những bên liên quan. Sau này tôi rất biết ơn Sandra Schelderup và rùng mình khi nghĩ đến việc có thể xảy ra nếu bà ta đến muộn hơn một chút, hoặc tệ hơn là đi thẳng vào trong phòng. Chỉ mười giây nữa thôi, rất có thể tôi sẽ đứng đó, lưỡi tôi trong miệng Maria Irene. Và không thể không tin, một phút sau có thể tôi đang nằm đè lên cô trên cái giường bốn cọc kia, vì sức cám dỗ mạnh đến thế. Nhưng may quá, sự việc gián đoạn vì tiếng nói của mẹ cô. Tôi buông Maria Irene ngay lập tức, như thể cô đang cháy - trên thực tế điều đó cũng không xa sự thật là mấy.
Chúng tôi mỗi người lùi lại vài bước, cùng chung nỗi sợ mẹ cô sẽ mở cửa. Trong vòng năm giây, Maria Irene đã tới chỗ máy quay đĩa và nhấc kim lên. Cô đã cài ba khuy trên cùng của bộ đầm, để che kín bộ ngực. Rồi, bằng một động tác nhanh như chớp, cô cởi phắt sợi dây chuyền vàng và giấu sau lưng.
Tôi thấy mình nói rất to rằng tôi rất vui được nghe nhạc, nhưng tôi vẫn phải hỏi về cái nhẫn và vòng đeo chìa khóa bị mất. Maria Irene trả lời - cũng lớn tiếng khác thường - rằng cô đã giúp tìm hai món đồ ấy nhưng không có kết quả.
Mối nguy qua rất nhanh. Mẹ cô bỏ đi, không thử mở cửa. Nhưng ma lực kỳ diệu đã tan và sàn nhà vững chắc dưới chân tôi. Tôi đã trở lại con người mình và trong chừng mực nào đó, đã lấy lại sự điều khiển tâm trí. Tôi cảm ơn Maria Irene và nói khá to rằng bây giờ tôi đã có câu trả lời cho mọi câu hỏi của tôi, chắc chắn là trong lúc này.
Maria Irene lại mỉm cười và cam đoan với tôi - cũng bằng giọng to hơn mức cần thiết - rằng tôi được chào đón bất cứ khi nào trở lại nếu cần, nếu có điều gì xuất hiện bất ngờ và cô có thể giúp. Rồi cô nói thêm rất khẽ rằng cô hy vọng có thể mời tôi trở lại vào lúc nào đó, khi vụ án được phá xong và cuộc điều tra đã khép lại.
Tôi ôm cô bẽn lẽn lúc chia tay. Chính lúc đó, tôi nhận ra cô đã mở hai khuy trên cùng của bộ đầm lần nữa. Tôi lẩm bẩm cô nên cẩn trọng trong thời gian chờ đợi và rút lui thật nhanh.
Sandra Schelderup đang đợi tôi bên cửa trước. Tôi phát hoảng khi nhìn thấy bà, nhưng trấn tĩnh lại khi bà nói bà hy vọng tôi không cảm thấy bị tiếng nhạc quấy rầy. Bà nói thêm con gái bà có cá tính mạnh và những dấu hiệu nổi loạn của cô trở nên hiển nhiên hơn trong những ngày sau cái chết của cha. Tôi an ủi rằng mọi việc đều ổn và bà có cô con gái rất cừ, rồi dặn họ nên chăm sóc nhau thật tốt cho đến khi vụ án được giải quyết.
Trở về an toàn trong xe, tôi lao qua cổng lúc suy ngẫm về sự việc diễn ra trong những giây phút ở phòng Maria Irene và tự hỏi là thực hay mơ. Kết luận của tôi là tôi đã ở trong một thực tại không mấy dễ chịu, có thể rất gần với cơn ác mộng tệ hại nhất trong đời. Tuy nhiên, nó cũng mở ra một hoàn cảnh đáng mơ, một khi cuộc điều tra khép lại, giá như chúng tôi sớm bắt giữ được ai đó. Tôi nhanh chóng tự thỏa thuận rằng dù trong bất cứ tình huống nào cũng không được đả động đến tình tiết này với Patricia. Tôi sẽ chỉ viết một cách đơn giản trong báo cáo hằng ngày với sếp rằng “cả người mẹ và cô con gái một lần nữa khẳng định họ không hay biết về chiếc nhẫn hoặc vòng đeo chìa khóa bị mất.”
VILúc tôi rẽ vào bãi xe bên ngoài nhà ông bà Wendelboe ở Ski, hầu như tôi đã hoàn toàn lấy lại bình tĩnh. Bây giờ, cuộc điều tra là đam mê duy nhất và lớn nhất của tôi. Trái ngược với tình trạng nửa giờ trước đó, lúc này tôi rất biết ơn Sandra Schelderup vì bà đã tình cờ ngăn chặn được một việc có thể trở thành một vụ bê bối lớn. Tôi không thể chịu nổi khi nghĩ tới những lời mà sếp và các đồng nghiệp hay tỵ nạnh của tôi có thể nói, hoặc các phương tiện truyền thông có thể viết gì về vụ việc. Vì vậy tôi cảm tạ các ngôi sao may mắn của tôi vì tôi đã dừng lại đúng lúc, và tự hứa với bản thân sẽ thận trọng hơn trong quan hệ cá nhân với những người liên quan. Đặc biệt cho tới khi vụ án khép lại. Và tôi hy vọng ông bà Wendelboe có thể giúp tôi làm việc này.
Một lần nữa, đích thân Petter Johannes Wendelboe mở cửa. Tôi hỏi thăm ông và người vợ hiền của ông sống ra sao và được biết là không may, mọi sự với ông vẫn tốt hơn với vợ ông. Câu này hầu như hài hước vì tôi biết cách Petter Johannes Wendelboe xử sự và tôi cảm thấy đây là một khởi đầu đầy hứa hẹn. Thế nên tôi gợi ý có lẽ hai chúng tôi lại nói chuyện riêng, không cần vợ ông có mặt. Ông gật đầu và dẫn tôi vào phòng khách.
Tôi đi thẳng vào việc và nói với ông rằng tôi đã phát hiện ra Hans Herlofsen đến thăm Arild Bratberg. Lúc đó tôi đợi một phản ứng mà mình đã dự đoán trước, song nó không bao giờ xuất hiện. Nó càng củng cố sự nghi ngờ của tôi rằng hiện giờ, tôi đã có bằng chứng. Tôi nhắc nhở Wendelboe rằng ông đã trả lời một tiếng không rõ ràng cho câu hỏi ông có liên hệ với Arild Bratberg hay không. Ông xác nhận điều này ngay lập tức. Nhưng với câu hỏi liệu vợ ông có liên hệ với Bratberg không, tôi ngạc nhiên thấy ông trả lời có.
Tôi nhìn ông ngờ vực, không thể luận ra bất kỳ phản ứng nào hơn nữa. Cuối cùng, tôi nhận thức được tình hình và hỏi một câu đúng đắn: nói cách khác, sau chuyến thăm ấy, Hans Herlofsen có gặp họ không.
- Herlofsen đến đây vào một ngày giữa tháng Hai và căng thẳng khác thường. Ông ấy đã đến thăm Bratberg và nghe được câu chuyện như anh vừa kể lúc nãy. Kết quả là hiện giờ ông ấy có chiều hướng tin rằng chính Magdalon Schelderup đã bắn Ole Kristian Wiig và ông ta có thể là Ông hoàng Bóng tối. Herlofsen đề nghị tôi cân nhắc xem chúng tôi nên đối đầu với Schelderup hay hành động gì khác không. Nhưng đương nhiên chuyện đó không xảy ra.
Ông ta im lặng. Lúc này tôi bắt đầu hiểu Wendelboe và hiểu thứ cần thiết để kích động ông ta là một câu hỏi chính xác.
- Nhưng ông đủ thận trọng để bà nhà đi thăm Arild Bratberg?
Wendelboe gật đầu.
- Thực ra, bà ấy chủ động đi mà không hỏi ý kiến tôi. Phải, đúng là bà ấy đã đi thăm Arild Bratberg và trở về cùng cảm tưởng giống như Herlofsen. Sau này, khả năng đương đầu với Magdalon Schelderup lại được đem ra bàn bạc lần nữa. Nhưng chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Chắc chắn không phải vì chúng tôi.
- Chắc chắn không phải vì chúng tôi… Vậy ông cho rằng có thể Herlofsen hành động một mình?
Wendelboe lắc đầu.
- Chẳng có bằng chứng nào cho thấy ông ấy đã làm, nhưng lẽ tất nhiên không thể nói là không làm. Herlofsen đã tới đây bàn về sự việc có thể xảy ra. Và chúng tôi đã gạt bỏ.
Bộ mặt sắt đá của Wendelboe khép lại ngay khi ông ta nói xong. Tôi cảm thấy như mình đập đầu vào một bức tường gạch.
- Khi ông nói đương đầu hoặc hành động, có thể có nhiều khả năng bao gồm cả mưu sát ông ta?
- Herlofsen đã nhắc đến việc ấy như một lựa chọn. Nhưng ông ấy không bao giờ làm thế, chắc chắn là không theo như vợ chồng tôi biết.
Tôi vỡ mộng thừa nhận rằng hiện tại, tôi không đạt được gì hơn nữa. Bởi vậy tôi nói với Wendelboe rằng tôi thật không may song cũng phải xác nhận việc này với vợ ông. Ông ta lẳng lặng đứng dậy và đi ra tiền sảnh. Tôi đứng cạnh ông lúc ông gọi bà xuống.
Gần như ngay tức khắc, bà vợ xuất hiện từ một trong các căn phòng, rõ ốm yếu nhưng ăn vận cẩn thận và đi giày. Chúng tôi ngồi bên bàn và tôi hỏi bà những câu tôi vừa hỏi chồng bà, và được trả lời y hệt như vậy.
Phải, Herlofsen đã tới thăm họ và nói về khả năng đương đầu với Magdalon Schelderup hoặc thực hiện hành động nào đó. Đúng, bà đã chủ động đến thăm Arild Bratberg và cũng tin câu chuyện của ông ta. Phải, sau đó cả ba người bọn họ đã bàn bạc xử trí Schelderup. Nhưng không, họ thực sự không làm gì hết. Ít nhất là không, trong chừng mực bà biết.
Suốt cuộc trò chuyện, không khí trong phòng thật ảm đạm, nhưng không đối địch. Tôi tiếc đã không yêu cầu bà Wendelboe ở đó ngay từ đầu, nhưng ít có lý do để tin có sự khác biệt. Cũng không dễ để nói lời khai của ông bà Wendelboe là đúng hay sai. Nhưng tôi ngạc nhiên thấy nó rất kín kẽ từ trước khi tôi tới gặp họ. Bởi thế, tôi yêu cầu họ ở nhà suốt phần ngày còn lại và không tiếp xúc với Herlofsen. Rồi tôi lái xe qua thành phố để gặp ông ta.
VIITôi tìm được Hans Herlofsen tại nơi người ta có thể mong tìm thấy ông ta lúc 3 rưỡi chiều trong ngày làm việc: tại văn phòng ở trung tâm thành phố, khuất sau một đống giấy tờ đầy những con số và cột số liệu. Ông khẽ nhận xét rằng công việc là thứ duy nhất giữ cho ông thành công.
Ngay lập tức tôi đảm bảo với ông rằng mặt đó của vụ việc đã rõ ràng và ổn thỏa, nhưng có một số vấn đề quan trọng khác mới nảy sinh nên chúng ta cần nói chuyện. Ông gật đầu và miễn cưỡng gạt sổ sách sang một bên.
- Ông nói với tôi rằng ông không gặp ông bà Wendelboe sau khi ông đến thăm Arild Bratberg, - tôi mở đầu.
Vẻ biểu cảm trong mắt ông cứng lại.
- Không, và họ không nên nói với anh là tôi đã gặp. Dù sao đi nữa, tôi không muốn phủ ánh sáng tiêu cực lên những người bạn cũ từ hồi chiến tranh, và tôi chắc chắn 100% rằng họ không làm gì với cái chết của Magdalon. Nhưng nếu họ cố đổ tội cho tôi, thì lúc này tôi không chắc chắn quá 50%. Và đương nhiên là tôi nên kể với anh từ hôm qua, - ông ta bổ sung ngay lập tức bằng giọng đề phòng.
Sự nhẫn nại của tôi với những người chỉ nói thật một nửa trong cuộc điều tra này bắt đầu mòn đi nghiêm trọng. Tôi nhận xét cộc lốc rằng nhất định là ông ta nên nói với tôi từ trước rồi. Sau đó tôi ra lệnh cho Hans Herlofsen, vì lợi ích của ông ta, phải kể cho tôi mọi thứ ông biết có thể liên quan, bất chấp có dính dáng tới các đồng chí cũ thời chiến hoặc bất cứ ai trong các vụ này.
Herlofsen gật đầu và bắt đầu nói. Không may, lời khai sửa lại của ông ta trùng hợp rất nhiều với những điều ông bà Wendelboe kể với tôi. Herlofsen thừa nhận rằng ông ta đã gặp họ vào giữa tháng Hai, chính xác là ngày 16 tháng Hai, đề cập đến những sự việc có thể xảy ra với Magdalon Schelderup. Họ chống lại, nhưng mười hai ngày sau họ gọi điện lại cho Herlofsen, sau khi bà Wendelboe cũng đến thăm Bratberg. Hôm đó họ đã ngồi quanh bàn và kết luận rằng Magdalon Schelderup phạm tội giết Ole Kristian Wiig, nhưng các tình huống vẫn chưa rõ ràng đến mức họ cảm thấy không đủ tự tin để đương đầu với ông ta. Vì thế chẳng làm được việc gì. “Ít nhất là không trong chừng mực tôi biết,” Herlofsen nói với đôi chút ngập ngừng.
Tôi cảm thấy nỗi giận tăng lên với những con bạc chính trong vụ này. Rõ ràng vợ chồng Wendelboe và Herlofsen đã gặp Bratberg và sau đó đã thảo luận khả năng giết Magdalon Schelderup. Vợ chồng Wendelboe đã chối biến, nhưng không loại trừ khả năng Herlofsen đã hành động một mình. Herlofsen phủ nhận mình tham gia, nhưng không loại trừ khả năng ông bà Wendelboe có thể hành động một mình. Còn tôi không có bằng chứng về bất cứ người nào trong bọn họ đã làm bất cứ việc gì đầu độc Magdalon Schelderup. Một lần nữa tôi cảm thấy dường như tôi phải đối phó với một bức tường gạch đúng lúc giải pháp đã ở trong tầm tay.
Tôi hỏi Herlofsen có bất kỳ lý do gì để nghi ngờ vợ chồng Wendelboe. Ông ta đợi một lát rồi đáp lại rằng có lần, hai mươi tám năm trước, ông đã nghe thấy Petter Johannes Wendelboe dọa giết Schelderup, khi tiếp xúc với ông ta xin gia nhập nhóm Kháng chiến. Wendelboe là người hoài nghi nhất trong việc đồng ý cho Schelderup tham gia, và trong cuộc họp đầu tiên của Schelderup, ông đã nói thẳng:
- Xin hoan nghênh việc đấu tranh cho tự do của Na Uy. Nhưng nếu xảy ra việc anh phản bội bất cứ người nào trong chúng tôi, tôi sẽ giết anh. Còn nếu anh phản bội tôi, tôi biết chắc sẽ có người nào đó giết anh.
Herlofsen bình luận rằng hoàn toàn có thể tưởng tượng được nhiều năm sau, ông ấy có thể thực hiện lời đe dọa đó. Ông ta nói thêm đó là lần duy nhất nhìn thấy nỗi sợ tột cùng trong mắt Magdalon Schelderup.
Tôi thích thú ghi lại và hứa với cả Herlofsen lẫn bản thân mình là tôi sẽ hỏi Wendelboe việc này. Rồi tôi tiếp tục tấn công và nói thẳng với Herlofsen rằng ông vẫn còn chưa giải thích nhiều điều, chắc rằng cuộc nói chuyện của tôi với Wendelboe có thể cho thấy ông ta đã đương đầu với Schelderup vì những phát hiện của mình.
- Không thể được, vì… - Herlofsen bác bỏ một cách tự phát.
Mặt ông ta bất chợt đỏ bầm. Chúng tôi ngồi, im lặng giây lát. Rồi tôi nói nốt câu của ông ta.
- Không thể được, vì ông không kể với họ. Nhưng ông đã kể rồi phải không? Chính vì thế ông ta đã thay đổi di chúc.
Herlofsen gật đầu ngượng ngập. Ông ta đặt hai bàn tay xuống bàn, cố trấn tĩnh.
- Nó giày vò tôi như một nỗi ám ảnh và tôi bắt đầu tuyệt vọng. Càng ngày tôi càng tin chắc hơn cảnh ngộ của tôi, nhưng Bratberg đã chết và Wendelboe không muốn làm gì hơn nữa. Họ rất ổn về mặt tài chính, vì thế tôi là người duy nhất có thể làm việc đó. Thế là, tôi đã dừng lại vào giây phút cuối tới tám lần, đến lần thứ chín tôi đã đến nói chuyện với Magdalon Schelderup trong văn phòng ông ta. Đó là ngày 4 tháng Tư, trước khi tôi về nhà.
Nhiều đốm sáng lóe lên trong mắt Herlofsen. Tôi hồi hộp đợi ông nói tiếp.
- Đây là khoảnh khắc quan trọng nhất và tồi tệ nhất của đời tôi. Không ai có thể biết Magdalon phản ứng ra sao nếu bị tống tiền. Nhưng càng ngày tôi càng cảm thấy tự tin hơn. Sự căm thù của tôi với ông ta ngày càng mạnh hơn và ngày càng thấy vỡ mộng hơn vì tình hình tài chính của tôi suy sụp nghiêm trọng. Thế là một hôm, tôi bước vào và nói toạc ra rằng tôi đã nói chuyện với Bratberg trước khi ông ta chết và hiện giờ tôi tin rằng Magdalon chính là người đã bắn chết Ole Kristian Wiig. Sau đó tôi nói rằng trừ khi chúng tôi giải quyết các vấn đề vẫn treo lơ lửng trên đầu tôi, nếu không tôi buộc phải chia sẻ nghi ngờ này với Wendelboe.
- Ông ta phản ứng ra sao?
Herlofsen cười cay đắng.
- Không có bất kỳ phản ứng nào hết. Chính lúc đó tôi tin rằng mình đúng. Magdalon chỉ ngồi trên ghế và nhìn tôi, hoàn toàn bình tĩnh. Tôi thừa nhận đã không kể toàn bộ sự thật khi tôi nói lúc nãy rằng lần duy nhất tôi thấy Magdalon Schelderup tỏ ra sợ hãi vào năm 1941. Ban đầu, ông ta ngồi im lặng. Sau đó ông ta nói tất nhiên là mọi thứ đều là nhảm nhí và là trò mua bán, nhưng người ta không bao giờ biết Wendelboe tin gì, và đây có lẽ là lúc động chạm đến quá khứ. Thế rồi, ông ta lấy giấy hẹn trả nợ và thú tội trong ngăn kéo ra, đưa cho tôi và nói thêm rằng ông đã ghi rõ trong di chúc là khoản tiền tôi nợ ông ta đã được xóa bỏ.
Trong lúc kể cho tôi nghe, dường như Herlofsen hồi tưởng lại những cảm xúc trong cuộc gặp Magdalon Schelderup. Mặt ông tươi hẳn lên, nhưng cũng có thể thấy một chút sợ hãi trong mắt ông và bàn tay ông hơi run. Tôi chợt thấy Magdalon vẫn có uy lực to lớn với những người gần gũi nhất, kể cả sau khi ông ta chết.
- Tôi không dám bắt tay ông ta, nên chỉ nhận chúng và cam đoan rằng tôi sẽ không làm bất cứ chuyện gì ầm ĩ. Tôi nói thêm ngay lập tức rằng nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, cả Wendelboe và cảnh sát sẽ nhận được một lá thư thông báo về kết luận của tôi. Magdalon gật đầu và trở lại với công việc, trong khi tôi vui mừng về văn phòng của mình và thiêu hủy cả giấy hẹn trả nợ lẫn giấy thú tội trên một ngọn nến.
Hans Herlofsen mỉm cười, nhưng vẫn run rẩy.
- Đó là khoảnh khắc quan trọng nhất trong đời tôi từ hồi chiến tranh, quan trọng hơn cả lúc tôi nhìn thấy đứa cháu nội đầu tiên của mình. Nhưng sau đó, một cảm giác không chắc chắn sâu xa cứ len lỏi vào tâm trí tôi, vì ông ta có thể làm gì đó. Mặc dù tôi đã báo trước với ông ta, nhiều tuần lễ tiếp theo tôi vẫn cảnh giác. Tôi không cảm thấy xuôi chèo mát mái cho đến khi di chúc được đọc. Ông ta có thể không làm như đã nói, và có thể giữ các bản sao tài liệu tôi đã đốt rồi giấu ở đâu đó.
- Nhưng ông không để lại bất kỳ lá thư nào sẵn sàng gửi cho Wendelboe phòng khi ông bị giết, vì thấy là không cần thiết. Vì nếu ông chỉ đe dọa Magdalon Schelderup khi Bratberg đã chết, thì cũng đã vài tuần sau khi ông thông báo với Wendelboe.
Herlofsen gật đầu.
- Chính xác. Tôi đến gặp họ mười sáu ngày trước khi gặp Magdalon. Chắc chắn tôi sẽ sẵn sàng hành động gì đó. Nhưng chỉ khi nào biết chắc tình hình tài chính của mình đã được cứu vãn theo cách này và với điều kiện họ sẵn sàng tham gia. Một khi tôi đã có giấy tờ mình muốn, tôi sẽ không phản đối nếu vợ chồng Wendelboe giết ông ta. Tôi không biết họ có làm việc đó hay không. Tôi chỉ biết một điều là tôi không hề làm gì với cái chết của Magdalon.
Kết luận này thật đáng nản lòng so với những gì tôi mong đợi. Cảm giác dường như Herlofsen đang rơi tự do. Nhưng ông ta vẫn khăng khăng phủ nhận mọi dính líu với vụ án mạng. Chẳng có bằng chứng gì cho thấy ông ta có thể là kẻ sát nhân hơn vợ chồng Wendelboe hoặc Magdalena Schelderup.
Tôi cảm thấy không cần cảm ơn Herlofsen, mặc dù trên thực tế ông ta đã cung cấp cho tôi vài thông tin rất thú vị. Thay vào đó, tôi trách ông đã không nói cho tôi biết chuyện này từ trước. Rõ ràng nó khiến Herlofsen trở nên yếu thế biết chừng nào và lúc này ông ta căng thẳng trông thấy.
Giống Magdalena Schelderup vài giờ trước đó, Herlofsen hỏi liệu ông có bị bắt không. Sau một lát ngập ngừng suy nghĩ, tôi đáp hiện giờ ông ta vẫn được tự do trong chốc lát nhưng ông là một nghi phạm nên mấy ngày tới có thể vẫn bị thẩm vấn tiếp. Herlofsen nhắc lại mình chẳng có gì giấu giếm về các vụ giết người. Lúc tôi rời khỏi văn phòng, Herlofsen lại rút vào thế giới của các con số, nụ cười thoáng nở trên môi. Tôi cảm thấy khá nghi ngờ, liệu nụ cười kia có liên quan tới các vụ giết người hay vì cách chấm dứt cuộc gặp.
VIIIHôm nay chắc chắn Fredrik Schelderup và tôi có phần trăm độ cồn trong máu thấp hơn. Khi tôi tới, anh ta gần như tỉnh táo hoàn toàn và còn dọn bàn sạch sẽ so với lần cuối tôi đến đây.
Thứ đầu tiên chúng tôi nói tới là những chiếc chìa khóa bị mất. Fredrik xin lỗi vì cơn bột phát đêm trước và nói rất vui lòng tiếp nhận một cảnh sát tới canh chừng. Fredrik nhớ rõ cái vòng đeo khóa to tướng của cha mình: nó luôn là biểu tượng cho sức mạnh và quyền lực điều khiển của ông. Magdalon có chìa khóa nhà anh từ nhiều năm nay nhưng chưa bao giờ sử dụng. Lúc này khi đã tỉnh rượu và lắp xích an toàn, Fredrik đã tương đối bình tĩnh về các chìa khóa bị mất.
Tôi tận dụng cơ hội hỏi trực tiếp xem Fredrik có biết cậu em có một người tình nhưng không phải là phụ nữ không. Anh ta do dự trong chốc lát, nhưng rồi gật đầu.
- Có lẽ tôi là người lười biếng, coi mình là nhất và nói chung chẳng có ích gì cho xã hội, nhưng tôi không phải là tội phạm và không nói dối cảnh sát. Phải, từ nhiều năm nay tôi đã biết Leonard hạnh phúc nhất trong đám bạn đàn ông. Năm Leonard mười chín tuổi, tôi đã hỏi nó về chuyện ấy. Lúc đó tôi đã có nhiều ngờ vực một thời gian rồi. Leonard là người tốt vì không nói gì, nhưng cậu ấy là người nói dối rất kém. Cậu ta thừa nhận ngay lập tức. Leonard sợ hãi và dặn tôi đừng bao giờ nói cho ai biết. Tôi hứa sẽ không nói. Rồi tôi nói thêm rằng tôi sẽ rất mừng vì giữ bí mật cho cả tôi. Chẳng hay ho gì khi tôi đã mang tiếng là kẻ thích đàn đúm tiệc tùng, nay lại có một cậu em trai ngủ với đàn ông. Cánh phụ nữ hay cho rằng chuyện ấy dễ lây và tệ hơn là có tính truyền thống. Một số phụ nữ tôi giao du đã nói và nghĩ như thế.
Tôi nhìn anh ta, lạnh lùng. Fredrik nắm bắt được hàm ý và vội nói tiếp.
- Chúng tôi không bao giờ nói về việc này lần nữa. Cả hai chúng tôi đều biết anh ta là ai và không người nào muốn có người khác nữa biết. Vì thế tôi không biết gì về các bạn trai của Leonard. Nhưng tôi không hình dung là có nhiều. Năm ngoái tôi lái xe qua một nhà hàng và trông thấy Leonard ngồi bên ngoài, đang tán gẫu với một cầu thủ nổi tiếng. Có lẽ nhiều người khác thấy chẳng có gì đáng chú ý, nhưng vẻ thân mật giữa họ làm tôi đoán em trai tôi có một người tình, đó cũng là lý do cậu ấy vui vẻ khác thường trong suốt vài tháng sau đó.
- Anh thấy chuyện này ra sao?
Anh ta nhún vai.
- Về phần tôi, tôi hy vọng chuyện này không bị lộ, nhưng tôi mừng vì Leonard tìm thấy niềm vui với bất cứ người nào cậu ấy thích, miễn là tôi không cần phải xác nhận.
- Cha của anh có biết không?
Lại một khoảng lặng trong chốc lát, và lần này rõ ràng kéo dài hơn. Fredrik Schelderup nuốt khan hai lần trước khi trả lời. Tôi mừng khi thấy một thoáng run run trong giọng anh ta lúc nói.
- Tôi mong anh đánh giá đúng sự thật thà và cởi mở của tôi lúc này. Phải, cha tôi đã biết. Cha tôi nghe chuyện đó từ tôi, ít ngày sau tình tiết năm ngoái tôi vừa kể. Tôi tưởng nó có thể làm cha tôi quan tâm khi biết con trai mình sắp…
Lúc này tôi nhìn anh ta thật nghiêm khắc và nghe thấy tiếng mình đầy phẫn nộ.
- Anh phá vỡ lời hứa với em trai vì anh tin rằng có thể có lợi cho anh nếu cha anh biết chuyện này trước khi ông viết di chúc?
Anh ta nhìn xuống và gật. Lúc cất tiếng lần nữa, giọng anh ta run bắn.
- Tôi mong anh hiểu cho, tôi là kẻ tham lam nhưng cũng là một tên vô tích sự thật thà. Đúng là tôi sợ cho vị thế của mình trong di chúc, chưa kể đến cậu Leonard trẻ trung làm rất cừ trong mọi việc. Cậu ấy lúc nào cũng kiên quyết và tận tâm. Còn tôi chưa bao giờ được như thế, nên cứ phải xoay xở hết sức với những thứ có sẵn khi ra đời: tiền của gia đình và mức độ thông minh.
Tôi cố hết sức tỏ ra kiềm chế và hỏi Fredrik Schelderup sự việc này xảy ra khi nào, và Magdalon Schelderup phản ứng ra sao. Anh ta cố nghĩ, trán nhăn lại.
- Tôi không thể nhớ ngày tháng chính xác, nhưng vào khoảng cuối thu, có lẽ là tháng Mười một, Mười hai. Cha tôi là người bình tĩnh khác thường. Dù sao, rõ ràng ông bị tác động vì cái tin ông rất ghét. Ông nói “Cảm ơn con vì thông tin này,” và tôi không thể nhớ ông nói câu gì tương tự khi tôi từ trường về với điểm số cao bất ngờ cho một môn thi từ hai mươi năm trước. Tôi không biết ông có nói chuyện đó với Leonard hay với bất kỳ ai về lý do ông thay đổi di chúc không. Trong di chúc thứ hai, chắc chắn là tôi được hưởng nhiều hơn hẳn so với di chúc đầu tiên, nhưng may mắn là em trai tôi cũng được như thế.
Tôi nhận thấy Fredrik Schelderup bỗng nhiên trở lại con người quen thuộc với tôi, và tôi không hy vọng hão huyền vào cuộc trò chuyện này.
- Vì thế anh đã phá lời hứa và để lộ bí mật lớn nhất của em trai, chỉ để tăng phần tài sản thừa kế của mình. Không chỉ thế, anh còn tiếp tục được hưởng thêm nhiều triệu nữa khi cậu em bị bắn chết. Tôi mong anh hiểu rằng những tiến triển trong vụ này hiện giờ đã biến anh thành một nghi phạm hàng đầu.
Anh ta nổi nóng ngay lập tức và giọng nói đầy phẫn nộ.
- Tôi hiểu anh phải coi mọi người như nghi phạm, và người thừa hưởng một khoản tiền lớn khi cả cha lẫn em trai đều bị giết có thể gây nên không ít nghi ngờ. Nhưng ngoài một tài khoản ngân hàng béo bở, không có bằng chứng nào khác trong vụ này. Tuyệt đối không có gì kết nối trực tiếp tôi với vụ án mạng nào. Tôi chỉ chứng minh sự thật thà của mình bằng cách kể cho anh một việc chẳng có gì đáng tự hào và chỉ tỏ rõ khía cạnh rất xấu của tôi mà thôi.
Tôi quả quyết với Fredrik Schelderup rằng anh ta chỉ là một trong vài nghi phạm và không có quan hệ pháp lý chính thức nào. Anh ta trấn tĩnh lại ngay tức khắc và nói nghe câu đó anh ta rất mừng. Chúng tôi chia tay không có bất đồng, nhưng cũng không bắt tay nhau.
Thật dễ tin rằng Fredrik là kẻ tham lam nhưng là cũng là một gã vô tích sự thật thà. Tuy vậy, tôi chắc chắn hơn về lòng tham của anh ta hơn là sự chân thật. Trong mấy ngày qua, tôi đã có ý niệm lờ mờ về một Fredrik Schelderup bớt vui tính hơn nhiều, dường như xuất hiện bất cứ khi nào quyền lợi của bản thân bị đe dọa. Không kể đến mọi sự khác biệt rõ rệt khác, anh ta khiến tôi chợt nhớ đến bà cô Magdalena. Tôi có thể thông cảm rằng sống trong cái bóng của Magdalon Schelderup không hề dễ dàng, dù họ không lo về mặt tài chính trên đời. Nhưng tôi vẫn không ép được mình ưa Fredrik hoặc Magdalena, lại càng không dám liều để tin cậy họ.
IXKhi tôi về đến phòng làm việc khoảng 4 giờ, không có tin gì quan trọng đợi tôi. Tôi đã có thêm nhiều câu hỏi nữa cho vợ chồng Wendelboe, nhưng họ là những người duy nhất và sau một ngày nhiều xáo động đến thế, tôi rất muốn kể cho Patricia trước khi làm việc khác. Cuối cùng tôi gọi điện cho cô và gợi ý gặp nhau sớm hơn thường lệ vào lúc 5 giờ, cô đồng ý ngay. Trong khi chờ đợi, tôi viết một báo cáo ngắn và để trong hộc tủ của sếp trên đường đi ra.
Cuộc gặp với Patricia ngắn hơn thường lệ, chúng tôi thỏa thuận giới hạn các món ăn nhẹ bằng cà phê và bánh ngọt. Tôi bỏ qua, không kể với cô cuộc gặp Maria Irene, chỉ thuật lại vắn tắt cuộc nói chuyện với mẹ cô ta tại Lâu đài Schelderup. Mặt khác, tôi kể các tin tức khác trong ngày rất tỉ mỉ. Patricia gật gù cảm kích.
- Cuộc điều tra đang tiếp tục tạo nên những đột phá quan trọng. Bây giờ chúng ta đã biết ai đến thăm Bratberg, chúng ta xác nhận vợ chồng Wendelboe và Herlofsen đã bàn bạc và có thể lên một số kế hoạch xử lý Magdalon Schelderup. Bởi vậy bây giờ hơn bao giờ hết, các bên đều có động cơ nào đó để giết Magdalon Schelderup, nhưng chúng ta thiếu bằng chứng ai là người thực hiện đến cùng.
Cô không nói gì một lát, rồi sau đó tiếp tục một cách mạnh mẽ.
- Nhưng có một thứ chúng ta chắc chắn: các tình huống và các sự việc xảy ra bất ngờ nhiều đến nỗi không một thực khách nào có thể hành động một mình. Tất cả bọn họ đều có thể dính líu đến một vụ giết người hoặc nhiều hơn, nhưng không ai có thể làm tất cả.
Tôi không hiểu kịp ý cô.
- Maria Irene và Sandra Schelderup đều có bằng chứng ngoại phạm với cái chết của Leonard. Nhưng những người khác vẫn thiếu nghiêm trọng các bằng chứng ngoại phạm…
Patricia lắc đầu.
- Với các vụ giết người thì đúng nhưng với các việc khác thì không. Tất cả bọn họ đều có thể rắc bột lạc vào đồ ăn của Magdalon Schelderup, và tất cả bọn họ đều có thể gửi các bức thư đe dọa qua bưu điện. Nhưng tất cả bọn họ không thể gọi điện đe dọa Leonard. Magdalena không thể làm việc đó, và theo người hàng xóm, bà ta đã ở đấy rồi. Hans Herlofsen đang trong cuộc họp tại văn phòng khi xảy ra cú điện thoại đó. Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều nhất trí rằng Ingrid Schelderup không thể giết con trai mình.
Tôi càng hoang mang hơn.
- Còn vợ chồng Wendelboe thì sao? Một trong hai người có thể gọi điện cho cậu ấy, hoặc cả hai cùng gọi và phạm cả hai vụ án mạng?
Patricia lắc đầu, nôn nóng.
- Đúng về mặt lý thuyết, nhưng họ không thể rạch nát lốp ô tô của Magdalon Schelderup. Khi ông ta gọi điện cho anh về chuyện đó, họ vẫn đang ở Bergen.
Một ý nghĩ dần lóe lên trong trong trí tôi rằng đây không chỉ là sự thật, mà nó có thể cũng có ý nghĩa đáng kể.
- Bây giờ cô nói gì nếu đây là sự thông đồng giữa hai hoặc nhiều thực khách vẫn còn sống?
Patricia trầm ngâm gật đầu.
- Đó hoàn toàn là một khả năng. Cũng có thể không phải là một âm mưu có chuẩn bị, mà đúng hơn là một trường hợp các vệ tinh chệch-khỏi-quỹ-đạo đâm sầm vào nhau. Tôi nghĩ nó có vẻ phù hợp. Nhưng điều chắc chắn đáng ghi nhớ là ở đây rõ ràng có vài người phạm tội.
Patricia lấy một miếng bánh, nhưng cầm trong tay ngồi đó một lát rồi mới bắt đầu ăn chậm rãi.
- Tôi vẫn nghĩ Wendelboe sẽ thấy khó mà nói dối một cảnh sát. Hãy hỏi về lời đe dọa của ông ta trong thời chiến, hỏi họ có bàn bạc với Herlofsen những kế hoạch cụ thể về việc xử tử Schelderup, và hỏi bà Wendelboe có gọi điện cho Leonard Schelderup trong tối cậu ta bị giết không. Tôi hy vọng họ sẽ cho anh những câu trả lời có thể giúp chúng ta tiến tới. Nếu không thì…
Cả hai chúng tôi lặng thinh một lát. Thật đáng tiếc, tôi hình dung ra cô sẽ nói gì lúc cô tiếp tục.
- Nếu không thì, chúng ta biết quá nhiều nhưng không phải việc anh nên làm ngày mai. Tôi nghĩ không hy vọng nhiều việc vắt ra thông tin nào nữa, và đây rõ ràng không phải là chỗ chúng ta có thể mong đợi. Vì thế chúng ta vẫn thiếu một chất xúc tác giúp phá được vụ án.
Tôi gật đầu đồng tình và tin rằng Patricia đang suy nghĩ như tôi. Nói cách khác, bức thư hôm qua ngụ ý sẽ có một vụ giết người nữa, và đó không phải là chất xúc tác chúng tôi muốn có trong cuộc điều tra.
Tôi rời ngôi nhà số 104-8 phố Erling Skjalgsson với cảm giác bất an rằng một tai họa mới sắp xảy ra, nhưng tôi không biết ở đâu, bao giờ hoặc nó có thể ảnh hưởng đến ai. Bị cảm giác lo âu dằn vặt, suy nghĩ của tôi trở lại với Maria Irene, người chỉ mới vài giờ trước mềm mại đến thế, ấm áp và tin cậy đến thế trong vòng tay tôi, trong vũ điệu bị ngắt quãng của chúng tôi tại Lâu đài Schelderup.
XTôi tới nhà Wendelboe ở Ski lần nữa, vào khoảng 7 giờ. Lần này bà Wendelboe ra mở cửa với nụ cười mỉm gan dạ và dẫn tôi vào phòng khách, nơi chồng bà đã ngồi sẵn. Bầu không khí căng thẳng, tuy cả hai nói họ rất hiểu hoàn cảnh của tôi và xin lỗi đã không kể với tôi nhiều việc lẽ ra họ nên nói từ trước. Sự căng thẳng dịu đi chút ít khi tôi nói có lẽ tôi cũng nên hỏi nhiều câu sớm hơn.
Tuy vậy, những câu hỏi mới của tôi khiến sự căng thẳng lại tăng lên là điều khó tránh khỏi. Wendelboe công nhận ngay lập tức lời đe dọa gay gắt của ông với Magdalon Schelderup trong thời chiến. Họ đang trong một hoàn cảnh rất khó khăn và ông nghi ngờ lòng trung thành của Schelderup. Trong cuộc gặp cuối cùng của chúng tôi, ông Wendelboe công nhận ông đã suy xét đến hành động trực tiếp chống lại Schelderup nếu có thể chứng minh ông ta phạm tội giết em vợ của ông. Ông không tin chắc rằng Schelderup có tội, vì thế hiện giờ đã gạt bỏ ý tưởng làm bất cứ việc gì. Herlofsen đã phác họa nhiều khả năng khác nhau và đã đề cập thời điểm, vũ khí có thể dùng tới. Ông bà Wendelboe khẳng định họ không muốn xúc tiến bất cứ kế hoạch nào. Họ không hề nghe thấy Herlofsen nhắc tới việc đầu độc, và chắc chắn không liên quan đến bột lạc hoặc các bữa tối Chủ nhật. Thế đấy, nếu người ta có thể tin vào lời giải trình chung của họ.
Nhưng bi kịch thực sự xảy ra khi tôi đột ngột quay sang bà Wendelboe và hỏi thẳng bà có gọi điện cho Leonard Schelderup vào đêm cậu ta bị giết không. Bà òa khóc. Chồng bà chăm chú nhìn tôi, nhưng tôi cũng bắt gặp một thoáng kính trọng trong mắt ông. Một lần nữa, chính ông là người trả lời.
- Vợ tôi đã phải chung sống với một gánh nặng và trong những ngày gần đây nó càng nặng trĩu hơn. Chúng tôi hy vọng sẽ không cần phải kể cho bà Ingrid Schelderup chi tiết này. Vợ tôi và tôi không làm gì với cái chết của Leonard Schelderup. Nhưng thật đáng tiếc vì vợ tôi đã gọi điện cho cậu ấy và dọa nạt, hy vọng rằng cậu ấy sẽ thú nhận tội giết cha. Chúng tôi đã nhận thức muộn rằng cậu ta không làm gì và cũng không có gì để làm với cái chết của cha mình. Nhưng thật khó cho vợ tôi sống với ý thức rằng bà ấy đã không công bằng khi đe dọa cậu thanh niên mà chỉ ít giờ sau chính cậu ta bị giết chết.
Tôi nhìn bà Wendelboe, dò hỏi. Bà ta vẫn nức nở, và gật đầu tới ba lần mới cố cất lời.
- Điều chồng tôi nói là đúng; chuyện đó thật khủng khiếp, và cậu ấy không biết gì hết. Tôi biết chúng tôi không làm gì với cái chết của Magdalon Schelderup. Nhưng đã có những ngày trước đó, chúng tôi ngồi đây với Herlofsen và bàn về dự định giết Magdalon Schelderup. Tôi rất sợ Herlofsen để lộ chuyện này và chúng tôi sẽ trở thành nghi phạm. Cứ nghĩ chuyện đó kinh khủng biết bao, các con cháu chúng tôi sẽ không chịu đựng nổi. Trong tình huống ấy, tôi thấy khả năng hợp lý nhất là cậu Leonard tội nghiệp đã giết người cha chuyên chế. Tôi muốn làm cậu ta hoảng sợ mà thú tội, nhưng thay vào đó lại thêm gánh nặng về những giờ cuối cùng của một người vô tội trên trái đất này. Thế giới sụp đổ quanh tai lúc tôi nghe tin chính cậu ấy cũng bị sát hại.
Bà Wendelboe phiền muộn không nguôi, đến mức không thể giận bà được. Tôi vỗ nhẹ vai bà và cảm ơn bà đã vui lòng giải thích với tôi. Bà xin phép đi nằm và rời khỏi phòng, đầu cúi gằm. Chồng bà và tôi còn ngồi lại, lắng nghe tiếng chân lúc bà lê bước lên cầu thang.
Khi tiễn tôi ra ngoài, Wendelboe cảm ơn sự thông cảm của tôi bằng giọng khẽ khàng.
- Chắc anh hiểu trong mấy ngày qua vợ tôi trong tình trạng khủng khiếp, bà ấy tiếp tục xoay quanh cậu em đã chết trong suốt từng ấy năm. Những sự kiện mới xảy ra đã đưa tất cả mọi chuyện cũ trở lại lần nữa. Bà ấy không kể với tôi việc gọi điện cho đến sau này và ngay lập tức tôi nói ước gì việc ấy chưa xảy ra.
Tôi không thể làm gì hơn, ngoài việc hỏi sáng hôm sau, ông ta nghĩ gì khi nghe tin Leonard Schelderup được tìm thấy đã chết. Wendelboe thở dài nặng nề, rõ ràng những việc đó cũng rất khó khăn cho ông.
- Tôi phải thừa nhận rằng tôi nhẹ cả người khi nghe tin cậu Leonard trẻ trung ấy bị giết. Vợ tôi và tôi không dính dáng gì và cú điện thoại vô cùng đáng tiếc kia hiển nhiên là không liên quan đến cái chết của cậu ấy. Nhưng sáng hôm ấy, tôi cảm thấy những bước chân đi đến gần giường vợ tôi để báo tin về cái chết của cậu ta giống như một hành trình vô tận. Lúc bước vào phòng, tôi nghĩ việc tệ nhất nếu là Leonard tự tử sau khi tiết lộ cha cậu bị người khác giết. Tôi nghĩ thần kinh mong manh, yếu ớt của vợ tôi lúc đó bị suy sụp và tôi phải canh chừng bà ấy suốt ngày đêm để biết chắc bà ấy không tự kết liễu đời mình.
Tôi gật đầu và sau đó bắt tay ông ta. Tôi cảm thấy thương bà Wendelboe. Và chắc chắn là tôi thấy Petter Johannes Wendelboe đáng tin hơn Hans Herlofsen. Nhưng sau những điều phát giác trong ngày, tôi không tin người nào hết, nhất là khi dính líu đến cái chết của Magdalon Schelderup cực kỳ thâm hiểm.
XISau cuộc đến thăm ngắn ngủi ông bà Wendelboe hôm ấy, tôi cảm thấy cả tinh thần lẫn thể xác trống rỗng. Trên đường về nhà, tôi phải đối mặt với sự thật là tôi chẳng có thêm đường dẫn nào để theo, kể cả tối nay lẫn ngày mai. Theo những phát hiện trong ngày, giờ đây tôi tin rằng hung thủ không phải là Hans Herlofsen cũng không phải là Magdalena Schelderup. Nhưng tôi không biết tí gì, làm sao có thể tìm ra bất kỳ chứng cứ nào hoặc phát hiện ra một kẽ hở trong lời biện hộ.
Hơn hết thảy mọi thứ vướng mắc, tôi cảm thấy tình trạng kiệt s?