MAURIAC NHÀ LUÂN LÝ
Về phần tôi, trong đời tôi, bao giờ tôi cũng đào sâu những vấn đề mà mọi người chỉ giải quyết nửa chừng
DOSTOIEVSKI
Bình luận về những văn hào Pháp được giải thưởng văn chương Nobel, François Mauriac (giải thưởng Nobel 1952) đã nhận định rằng tất cả, từ thi sĩ Sully Prud'homme đến nhà văn Camus, đều là những luân lý gia, Thật ra, danh từ này tạm dùng để dịch chữ “moraliste” của Pháp, chứ không biểu lộ được hết ý nghĩa của chữ moraliste. Vì ở đây, luân lý gia không phải là ông thầy dạy luân lý mà người đời thường hình dung dưới dáng điệu một ông già đạo mạo, nghiêm khắc; mà cũng không phải là một thuyết gia sáng tạo nên một lý thuyết đạo đức với những phương châm thực hành để làm ‘‘khuôn vàng thước ngọc” cho thế nhân.
Trái lại, ở đây nhà luân lý của chúng ta lại có thể xa cách hẳn luân lý, đạo đức thông thường. Bằngr chứng là André Gide, giải thưởng Nobel 1947, nhà văn mà thanh niên tiền chiến chịu ảnh hưởng sâu xa nhất, lại chính là người đã kịch liệt đả phá hết mọi ước lệ, công thức xã hội, giá trị luân lý cổ truyền để đưa con người tới chỗ giải thoát hoàn toàn, khiến con người có thể say sưa với hết mọi thích thú, chìm đắm trong mọi đam mê... Không những André Gide không phải là một ông thầy dạy luân lý, mà ngược lại dưới ảnh hưởng của Oscar Wilde, tác giả tập Les nourritures terrestres chủ trương một cuộc sống hết sức phóng khoáng, ngoài mọi ràng buộc của luân lý và đạo đức.
Ở đây, nhà luân lý là người quan sát, phân tích tập quán, phong tục, những lề thói sinh hoạt để tìm hiểu bản tính con người, để ghi lại, qua những biểu lộ dị biệt bên ngoài, những nét bất di bất dịch của con người muôn thuở. Đối tượng của nhà luân lý là Người, là toàn diện con người với tất cả mâu thuẫn, trong mọi biến trạng,.. Những nền văn minh kế tiếp sụp đổ; những hoàn cảnh xã hội, những điều kiện kinh tế, những tổ chức chính trị luôn luôn đổi thay. Nhưng dưới khung trời nào, trong khỏang thời gian nào, con người vẫn là con người, với những năng khiếu căn bản, với niềm khát vọng hạnh phúc không bao giờ hủy diệt.
Như vậy trong văn chương Pháp, Mauriac nối tiếp một truyền thống cổ kính minh họa bởi những tên tuổi lẫy lừng như Montaigne, La Rochefoucauld, La Bruyère, mà viện Hàn-lâm Thụy-Điển coi như là biểu lộ tinh thần đặc sắc nhất của dân tộc Pháp. Nhưng khác với các tác giả vừa kể, để đào sâu tâm lý con người, Mauriac đã không ghi chép những nhận xét và suy tưởng trong những thiên tiểu luận như Montaigne, hoặc trong ruột tập ‘‘châm ngôn” như La Rochefoucauld. Phương pháp diễn tả của Mauriac là tiểu thuyết. Là vì, đối với Mauriac, tiểu thuyết là phương pháp thích hợp nhất, toàn vẹn nhất để miêu tả cái nhân loại đương quay cuồng dưới mắt ông, mà không những ông ghi tả những lời nói, những dáng điệu, những cử chỉ một cách khách quan như nhà nhiếp ảnh mà thôi, Mauriac còn muốn bỏ cái vỏ ngoài để rọi một ánh sáng tàn nhẫn vào những vùng sâu thẳm của tâm hồn, vào những động cơ tâm lý thầm kín chính những đương sự cũng, không ý thức nổi. Là vì Mauriac có một nhân sinh quan riêng, một nhân sinh quan công giáo đượm màu Janséniste, nên ông nhìn con người, nhận xét nhân loại dưới sự soi sáng của nhân sinh quan ấy, mà muốn truyền sự sống cho con người ấy, cho nhân loại ấy, không phương pháp diễn tả nào thích ứng hơn là tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết, bao giờ tư tưởng cũng vượt lên thực tế, bao giờ phần sáng tạo cũng quan trọng hơn phần quan sát. Vẫn biết để dựng nên những nhân vật, nhà tiểu thuyết phải mượn những yếu tố, những “tài liệu” của thực tại. Chính Mauriac đã viết: “Những nhân vật mà chúng ta tưởng sáng tạo ra đều do những yếu tố của thực tại kết hợp lại; chúng ta hòa hợp, một cách khéo léo nhiều hay ít, những cái gì mà sự quan sát người khác và sự hiểu biết riêng về chúng ta đem lại. Những nhân vật tiểu thuyết là những con đẻ của cuộc phối hợp giữa tiểu thuyết gia và thực tại. Nhưng phải chăng nhận xét này càng làm nổi bật vai trò sáng tạo của tiểu thuyết gia? ” Mauriac. lại viết; “Kể tất cả mọi người, tiểu thuyết gia là người giống với Đấng Tạo Hóa hơn hết: họ là kẻ bắt chước Đấng Tạo Hóa.” Vậy thì, không lạ gì nếu để khám phá sự bí hiểm của số mệnh, diễn tả lẽ mầu nhiệm của cuộc sống, nhà luân lý Mauriac đã chọn bộ môn văn nghệ phong phú nhất: tiểu thuyết.
Nhưng độc giả không khỏi bỡ ngỡ, khi bước vào thế giới do tiểu thuyết của Mauriac tạo nên. Thế giới này là một thế giới hắc ám, một hỏa ngục nhân gian. Tuy không ma quái, lạ lùng như thế giới của Kafka, không kinh hoàng, rùng rợn như thế giới của Dostoievsky thế giới của Mauriac chìm đắm trong bóng tối của Sự ác, sặc sụa mùi diêm sinh của Tội lỗi. Ở đây, sự ác ngự trị dưới mọi hình thức: thù hằn, ích kỷ, biển lận, nhục dục, giả dối... tất cả sự xấu xa, bẩn thỉu của con người được phô bày không mảy may giấu giếm. Những đức tính, những cái gì nâng cao phẩm giá con người như tính vị tha, lòng hy sinh, (trừ tiểu thuyết Le mystère Fontenac trong đó Mauriac mô tả hạnh phúc gia đình của chính ông) thảy đều vắng bóng: trong mọi cảm tình cao thượng, mọi hành vi đẹp đẽ, con mắt soi mói và nghiệt ngã của nhà luân lý đều tìm thấy một điểm gì xấu xa, nhơ bẩn làm hoen ố tất cả.
Cho nên những nhân vật của Mauriac đều là những con người sống ngoài khuôn khổ thường. Họ là những quái nhân (monstres), những hắc thần (les anges noirs). Trái tim họ là một ồ rắn độc, một khi đã lao mình theo một dục vọng, họ đi cho tới tận cùng, tới vực thẳm, để tới giờ hấp hối họ mới nghe thấy tiếng gọi của một thế giới khác, tiếng gọi của Thiên ân (grâce).
Muốn hiểu, ở con người, lòng hằn thù có thể mãnh liệt tới độ nào nên đọc cuốn Le noeud de vipères. Đây là một tấm thảm kịch xảy ra trong một gia đình một ông già gần 70 tuổi, một luật sư nổi danh và một nhà đại phú. Trong suốt nửa thế kỷ sống chung với vợ con lúc nào ông cũng chứa chất trong lòng một mối căm hờn ghê gớm đối với vợ con. Thù ghét kẻ nghịch với mình, kẻ làm hại mình là chuyện thường. Nhưng còn gì trái nghịch đau đớn hơn là ‘‘phải” thù ghét những người đáng lẽ là thân yêu nhất. Thù ghét đến nỗi định truất quyền hưởng gia tài của các thừa kế chỉ để lại một lá thư trong ấy trút hết cả nỗi căm hờn kết tụ trong mấy chục năm trời. Đọc lá thư mới cảm thấy, sự mãnh liệt của mối căm hờn ấy thế nào. Tác giả lá thư viết ở nơi ông chỉ có ‘‘lòng căm thù là sống”. Và hằn học biết bao nhiêu, khi ông tả những đôi vợ chồng hờn giận nhau, ghê tởm nhau mà vẫn phải ngồi cùng một bàn ăn, đắp chung một chăn, tắm chung một buồng trong bao nhiêu năm. Và ông ngạc nhiên thấy số ly dị ít oi quá!
Tại sao lại có mối thù nghịch quái gở ấy đối với người bạn chăn gối? Phải chăng từ buổi niên thiếu, nhân vật này đã sống hiu quạnh, và lòng đã xâm chiếm bởi sự đố ky đối với những bạn học thuộc những gia đình khá giả hơn, và sự đố kỵ ấy đã đục giũa tâm hồn ông như ung thư đục giũa một cơ thể? Rồi, sau khi kết duyên với cô gái thuộc một thành phần xã hội cao hơn, ông mới biết rằng vợ ông trước đã yêu một người trai trẻ khác nhưng bị hắt hủi, ông có cảm tưởng chua xót là đã bị lừa dối trong cuộc “trao xương gửi thịt” ấy. Hay là ở tâm hồn này, mọi tình cảm đều mãnh liệt; hoặc yêu hoặc ghét, nhưng yêu hay ghét đều phải đi tới cùng độ, và đã không tìm thấy ở bạn trăm năm một tình yêu như mong muốn, ông đem lòng thù ghét đổi lại tình yêu không tìm thấy. Và ông muốn tin, muốn tìm ý nghĩa cuộc sống trong tín ngưỡng, nhưng dưới mắt ông, cách sùng đạo của vợ con ông chỉ là một cái gì giả tạo, tôn giáo của vợ con ông là một cái xác không hồn, nên ông lại xa lánh vợ con thêm.
Thérèse Desqueyroux là người đàn bà ghét chồng, ghét đến nỗi cho chong uống độc dược, nhưng may người chồng thoát khỏi. Nhưng ở đây, ghét không phải là mặt trái của yêu, ghét không phải là phản ứng của thất tình vì lúc lấy Bernard, nàng không yêu Bernard. Nàng không tìm yêu đương trong hôn nhân. Nàng thông minh, cương nghị,-ham đọc sách, nghiện thuốc lá (gia đình chồng nàng, một gia đình trưởng giả nền nếp ghét nhất tật này). Gia đình Bernard giàu, gia đình nàng giàu. Thật là môn đăng hộ đối nhưng chỉ môn đăng hộ đối thôi! Ở phòng dự thẩm ra, được miễn nghị, nàng tự vấn lương tâm. Thế nàng đã đi tìm các ảo ảnh nào trong hôn nhân? Tất nhiên nàng không hoàn toàn dửng dưng trước 2.000 mẫu thông của Bernard, vì như cha nàng, nàng có bản năng tư hữu trong huyết quản, Thérèse nghĩ: có lẽ nàng tìm trong hôn nhân một trú ẩn hơn là một sự ngự trị hay chiếm hữu? Nàng cần lấy chồng, lấy gấp đi, để tránh một nỗi hiểm nghèo nào chính nàng cũng không biết.
Thế rồi sự chán chường đến. Mà sao không chán chường được, khi phải sống bên cạnh người chồng tầm thường, đần độn tại một thị trấn hẻo lánh ‘‘ở tận cùng trái đất ” giữa một cuộc sống quá đỗi bình dị của các trưởng giả thôn quê.
Nhưng cuộc ái ân giữa Thérèse và Bernard thì sao? Chẳng lẽ Thérèse một cô gái đầy nhựa sống lại không tìm thấy được đôi chút an ủi trong sự thỏa mãn xác thịt, để bù vào sự trong rỗng của đời sống. Nhưng Thérèse không được biết cả niềm an ủi ấy nữa! Trong những giờ phút ái ân, Thérèse thụ động, Thèrèse chỉ là vật hy sinh. Trong những lúc hiến thân cho chồng, Thérèse có cảm tưởng chồng là một con lơn đương hì hụp trong chậu nước gạo, và cái chậu ấy, chính là nàng.
Nhưng cay đắng đau khổ hơn nữa, là Thérèse phải đóng kịch ân ái với chồng. Nói dối không phải chuyện khó, ai nói dối cũng được. Nhưng làm sao thân thể cũng ‘‘nói dối” được? Làm sao trong khi nằm trong lòng người đàn ông, lại khiến cho thân thể người đàn ông cảm thấy xác thịt mình cũng thèm muốn, cũng rung động, cũng say sưa như là thật! Vậy mà Thérèses đã bắt thể xác nàng phải đóng tấn kịch yêu đương ấy.
Trong cuộc ân ái giả tạo này, Bernard người chồng đóng vai gì? Khởi đầu, chàng thỏa mãn. Thỏa mãn vì lấy được vợ giàu có học thức, lại duyên đáng (mọi người đều hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Thérèse). Thỏa mãn vì nàng đã hy sinh cho chàng một đứa con, vì gia đình giữ được nền nếp của ông cha. Thỏa mãn vì tưởng vợ yêu đương mình thực sự. Nhưng tấn kịch yêu đương giả dối không kéo dài mãi được, và Bernard lại bị xô đẩy vào sự trống rỗng của đời chàng. Thérèse sợ nhất những lúc Bernard điên cuồng vì dục vọng. Nàng nằm yên như chết, mặc Bernard quay cuồng. Nhưng nhiều phen, tới phút chót Bernard ngưng lại: chàng cảm thấy chỉ có một mình mình trong sa mạc của yêu đương.
Bởi thế cuộc nhân duyên giữa Thérèse và Bernard tan vỡ. Thế còn hơn. Hầu hết những gia đình mà Mauriac mô tả trong các cuốn tiểu thuyết khác đều kéo dài một đời sống gượng gạo không tình yêu, không hạnh phúc. Những nhân vật của Mauriac không biết yêu; hết thảy đều bị gạt ra ngoài thế giới yêu đương. Họ không được biết những tấm tình mãnh liệt của những đôi nhân tình bất hủ trong văn chương nhân loại (Tristan và Yseult, Roméo và Juliette, Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh...). Họ cũng không được hưởng những cuộc tình duyên bình thản nhưng mặn mà, bền bỉ đóng khung trong những gia đình hòa thuận, yên vui, và khi bóng xế vợ chồng lại thắm thiết với nhau hơn buổi hoa niên.
Trên phương diện luyến ái, những nhân vật của Mauriac thường là nô lệ của xác thịt: những anh nhà giàu đã luống tuổi “mua” những cô vợ trẻ măng hay “bao” những cô nhân tình non tuổi; những thanh niên mới bước chân vào cuộc đời bị xâu xé giữa sự quyến rủ của sắc dục và lý tưởng thanh khiết nhưng rồi sa ngã vào hố trụy lạc; những cô gái mộ đạo nhưng cũng không cưỡng lại được sự lôi cuốn của thể xác.
Nhưng “buồn nản xác thịt” (la chair est triste hélas!) sự chiếm hữu một thể xác chỉ là một ảo ánh mà những con người ham mê sắc tình (charnel) theo đuổi một cách vô vọng. Không, không bao giờ ta có thể chiếm được một thân thể nào cả. Hãy nghe Daniel, nhân vật cuốn Le Fleuve de Feu kể lại kinh nghiệm: “Trong bao nhiêu ngày, chúng ta muốn ôm ấp một thân thể. Chúng ta cố tin có thể làm chủ một thân thể được. Và bây giờ xác thịt ấy kề với xác thịt của ta. Chúng ta bùng cháy trong ngọn lửa máu đó. Bởi nghệ thuật âu yếm, tay chúng ta nhìn thân thể ấy, mắt chúng ta mơn trớn nó; nó không chống cưỡng, nó tự hiến hoàn toàn... nhưng những phát minh cuối cùng của khoái lạc cũng chỉ là môt sự tìm kiếm vô ích. Không bao giờ chúng ta thấy được cái thân thể mà ta tìm kiếm mãi…”
Yêu đương hay khoái lạc chỉ là ảo tưởng, sự hòa hợp tinh thần và thể xác giữa người khác giống đã không thực hiện được, chỉ còn lại cho mỗi người sự hiu quạnh, một sự hiu quạnh vô biên mà gia đình, của cải, địa vị xã hội (của cải và địa vị là hai đam mê chính của các nhân vật Mauriac) không sao lấp nổi.
Đa số những nhân vật của Mauriac là những con người cô độc. Họ sống cho họ, vì họ, không biết đến ai cả, không thông cảm với người chung quanh dù là vợ con, bạn bè thân thích.
Bernard, chồng Thérèse Desqueyroux là người không bao giờ ra khỏi cái vỏ của mình, “không bao giờ đặt mình vào địa vị người khác”. Thérères, sau khi vụ đầu độc chồng tiết lộ, sống trong cảnh cô quạnh tuyệt đối. Jean Peloueyre, gã trai nhà giàu nhưng xấu xí đau khổ vi bị vợ ruồng bỏ, đau khổ đến nỗi ốm chết, và chết đi mang theo bầu tâm sự tuyệt vọng không hề thố lộ với một ai. Còn cái ông già kỳ quặc trong cuốn Le noeud de vipères là người suốt đời đeo đẳng sự cô độc như kẻ mắc bệnh hủi mang trong người ung nhọt: lúc trẻ đi học không có bạn, khi lấy vợ không có tình yêu! lúc sống thì hiu quạnh với mọi người trong gia đình, khi chết để lại một tâm thư, con trai đọc cũng không hiểu tâm trạng đau khổ của cha.
Tình yêu là sa mạc, tình phụ tử là sa mạc, tất cả đều là sa mạc trong đó con người không bao giờ tìm thấy sự ấm áp của niềm thông cảm giữa người và người. Một bức rào không vượt được ngăn cách mọi người, nên dù gần gụi như vợ chồng, cha con đi nữa cũng không sao cởi mở nỗi lòng cho nhau được. Chính Mauriac đã viết: “mỗi người chúng ta đều cô độc, hết thảy mọi người đều cô độc vì mọi người đều bị chia xẻ nghịch lại với minh, với bản năng mình, với mọi gia đình, với mọi người khác.”.
Những nhân vật của Mauriac là những quái nhân không phải họ theo đuổi những đam mê quái gở đến cùng. Họ còn có tài phân tích và khám phá cái xấu xa ở nơi họ. Họ lại như có thích thú làm cho mình xấu xa thêm lên hoặc tự hủy hoại ở nơi họ chút gì cao quý còn lại. Họ cũng thích reo rắc sự xấu xa hay hủy hoại chung quanh họ (nhân vật tiêu biểu là Grabriel Gradère trong cuốn Les anges noirs).
Nhưng tại sao Mauriac tả nhân loại dưới màu sắc đen tối ấy. Có người trách ông quá yếm thế. Có người chê bai ông đã trộn tôn giáo vào những tấn kịch của đời sống, mà xác thịt chiếm ưu thế.
Có thể là nhà luân lý Mauriac đã nhìn đời bằng con mắt quá khắc nghiệt, và cũng có thể là ông đã. chịu ảnh hưởng của Proust và Gide, hai nhà văn này chủ trương không nên giấu giếm những điều khám phá được ở kẻ khác vì ở chính mình, về con người.
Nhưng lời giải thích căn bản phải tìm ngay ở chính con người Mauriac, ở năng cảm, khuynh hướng tôn giáo và cơn khủng hoảng tuổi thanh xuân của ông đã trải qua.
Thời sinh viên, Mauriac là một thanh niên mơ mộng, đa cảm ôm ấp nhiều khát vọng, sống một đời sống nội tâm dồi dào. Cũng như những thanh niên khác, có lẽ còn hơn nữa ở tuổi dậy thì, chắc Mauriac đã bao phen nghe thấy tiếng gọi của sự quyến rủ, Mauriac có sa ngã không, sa ngã thế nào? (ta không có quyền biết) nhưng chắc chắn đời sống nội tâm của Mauriac đã trải nhiều cơn bão táp, bởi sự xung đột giữa sự Quyến rủ và Đức tin, vì Mauriac đâu có phải là người lãnh đạm trước Dục tình, dửng dưng với những lạc thú của xác thịt. Và Mauriac cũng là người có tín ngưỡng chắc chắn theo một kỷ luật tôn giáo chặt chẻ. Hơn nữa, Mauriac chịu ảnh hưởng của Pascal và khuynh hướng Janéniste, phái này có một quan niệm rất nghiêm ngặt về đời sống công giáo, bắt buộc tín đồ phải hy sinh mọi sinh thú ở đời và hoàn toàn hiến mình cho Chúa.
Tất cả tấn kịch của Mauriac phát sinh ở mâu thuẫn căn bản ấy. Phải chọn một trong hai đường, không thể lừng chừng. Theo Chúa, thì phải bỏ hết cả. (Nhưng có đủ can đảm không?)
Bên ngoài, Mauriac vẫn hành đạo. Nhưng tâm hồn ông không khỏi bị chia xẻ bởi cơn khủng hoảng tôn giáo. Thời kỳ này, những tiểu thuyết của ông đã phản ảnh mối lo âu vò xé tâm hôn ông: Mauriac đã tả những con người đem đòi hỏi của thể xác, sức mạnh của dục vọng chống lại tiếng gọi của thể xác, sức mạnh của dục vọng chống lại tiếng gọi của Thiên- ân. Và năm 1920 trong tập tiểu luận Souffrances du Chrétien, ông miêu tả những khó khăn, những đau khổ của tín đồ công giáo trên đường Thánh -thiện. Đề tài của Mauriac là sự nghiêm khắc ghê gớm của công giáo đối với xác thịt.
Cuốn Souffrances du Chrétien đã gây một xúc động lớn lao cho bằng hữu Mauriac. Họ nhận thấy một chiều hướng nguy hiểm trong tư tưởng tôn giáo của Mauriac. Họ yêu cầu ông để một thời gian “cấm phòng” và suy ngẫm. Sự suy ngẫm đã giúp Mauriac tìm thấy sự bình tĩnh ở tâm hồn. Ông hết phân vân. Ông đã chọn. Ông chọn Chúa. Ông viết cuốn Bonheur du Chrétien để tự trả lời cuốn Souffrances du Chrétien mà ông đổi thành Souffrances du pécheur. Ông tự phê bình. Ông kết án thái độ cũ của ông, là thái độ một người tự mình chia xẻ với mình, lại chọn sống trong cảnh chia xẻ ấy. Mauriac xác nhận con người có thể thắng được sự quyến rủ, chế ngự được xác thịt và tìm thấy sự yên vui của tâm hồn.
Tin tưởng tôn giáo của Mauriac giúp chúng ta hiểu tâm lý và thảm kịch của những nhân vật của tác giả. Trong thời kỳ khủng hoảng, ông đã miêu tả một nhân loại cưỡng lại tiếng kêu gọi của Thiên-chúa.
Nhưng thiếu sự trợ lực của tôn giáo, những con người đau khổ ấy tự xô đẩy mình vào vực thẳm của Tội Lỗi. Chỉ những con người nào chối bỏ tình yêu, chối bỏ tất cả mới được thụ hưởng Thiên-ân (Hiéron trong L'Enfant chargé de chaînes, Anquetin trong Préséances, Alain trong Ce qui était perdu v.v...). Cái nhân loại đau thương này quằn quại trong một tìm kiếm vô vọng: dung hòa Dục Vọng với Tín Ngưỡng. Thế giới với Thiên-chúa.
Nhưng dù sao, ở Mauriac, Đức Tin vẫn vững chắc. Khi diễn tả tâm trạng bi đát của một nhân loại bị xâu xé giữa Đức Tin và Thế Gian, người Công giáo Mauriac không phải chỉ cốt thỏa mãn nhu cầu sáng tạo của một tiểu thuyết gia, ông còn theo đuổi mục đích ca ngợi Đạo Chúa. Nên “tôi tự hào đã tả một thế giới chống lại Thiên -Ân, và không phải hy sinh phần nào tự do của nhà văn, đã đạt tới sự ca ngợi gián tiếp đạo Công Giáo. ”
Bởi thế, trong mọi tiểu thuyết, ông đều đề cập đến vấn đề Cứu chuộc (salut). Dù đối với những con người sa đọa nhất, ông vẫn để cho hiểu họ có thể được cứu chuộc. Đấng Cứu Thế vẫn chờ đợi họ ở một nẻo đường bí mật nào.
Cuộc khủng hoảng tư tưởng đã vượt, Mauriac có một quan niệm sáng sủa hơn về “ bản chất tội lỗi” của con người mắc tội tổ truyền. Sự ác, tội lỗi, mọi sự xấu xa ở đời này đều là hậu quả của tội tổ truyền. Chúng ta, con cháu Adam có thể thoát khỏi hỏa ngục của Tội Lỗi không?
Trong những tác phẩm cuối cùng, Mauriac trả lời: Có. Có, chúng ta có thể cải tiến được bản chất tội lỗi của chúng ta, nếu khởi thủy, chúng ta ý thức được bản chất tội lỗi ấy, nếu chúng ta nhận chân sự yếu hèn của xác thịt chúng ta. “Thiên-chúa thương chúng ta, nếu chúng ta nhìn nhận sự hung ác của chúng ta. Cơn lôi đình của Chúa đối với bọn giả hình chứng minh Chúa sẽ xua đuổi chúng ta nếu chúng ta không chịu nhận chân tướng của chúng ta.”
Tuy nhiên, Mauriac vẫn tiếp tục tả những quái nhân, những hắc thần. Là vì Mauriac nhận định rằng dù con người có được gột rửa khỏi tội tổ truyền, thì cũng vẫn là mồi của Tội Lỗi. “Người công giáo chèo thuyền ngược dòng; người công giáo đi ngược những dòng lửa ác khoái lạc của thể xác và ích kỷ của đời sống.”
Nhưng phải chăng tất cả sự cao quý của con người là chèo lái trên những dòng lửa, mà không bị đốt cháy? Và khi dẫn chúng ta đi hết mọi ngõ ngách của Quyến rủ, xuống những vùng nhơ nhớp nhất của Tội Lỗi, phải chăng nhà luân lý Mauriac muốn chúng ta có ý thức về bản chất yếu hèn của con người, để từ ý thức đó phát sinh ra đức khiêm nhường, một đức tính Công-giáo căn bản, và lòng cảm thương đối với những người sa ngã, họ chỉ là những nạn nhân đáng thương của một bản tính hoen ố bởi tội tổ truyền.
TRƯỜNG SƠN