← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI

CÓ điều lạ lùng Thérèse nhớ lại những ngày sau khi Anne và hai ông bà Đe la Trave ra đi như một thời hôn mê. Đã ước định rằng ở lại Argelouse nàng sẽ tìm liên lạc để ảnh hưởng tới Azévédo cho cậu ta thôi đi, nhưng tới khi đó nàng chỉ nghĩ đến nghỉ ngơi và ngủ. Bernard bằng lòng không ở nhà mình mà sang ở bên nhà Thérèse, đủ tiện nghi hơn và được bà cô Clara chăm nom giúp. Những người khác đối với Thérèse quan hệ gì? Thây kệ họ thu xếp riêng với nhau. Không còn gì thích thú cho bằng cứ ỳ ra đó chờ ngày sinh nở. Sáng nào Bernard cũng làm cho nàng bực mình khi nhắc tới chuyện nàng hứa gặp Jean Azévédo. Nhưng Thérèse gắt lên với chồng: hồi này nàng bắt đầu thấy khó chịu đựng Bernard. Bernard cho rằng có lẽ vì có mang nên nàng hay cáu bẳn. Khi đó chính chàng đã phải chịu nhận những ảnh hưởng đầu tiên của một sự ám ảnh rất thông thường trong đám những người cùng xứ, tuy rằng ít khi phát hiện trước ba mươi tuổi: đó là cảm tưởng sợ chết ta ngạc nhiên nhận thấy nơi một chàng trai có vóc dáng vững vàng. Nhưng ta biết trả lời ra sao khi chàng cải lại: “Không ai biết được tôi cảm thấy như thế nào...?”

Những thể xác phàm ăn, có một truyền thống lười biếng quen ăn ngon đó, chỉ sức lực bề ngoài. Một cây thông đem trồng trên rnột cánh đồng đất đai màu mỡ mọc rất mau; nhưng chẳng bao lâu cái lõi cây bị mục nát và cây đang lớn mạnh cũng phải hạ đi. Ai cũng bảo Bernard: “Hùng dũng lắm”; nhưng chàng nhận thấy có cọng rơm, có vết rạn ngay trong khối kim khí. Với lại, thật không thể tưởng tượng được: chàng không muốn ăn, không thấy đói: “Tại sao mình không đi hỏi thầy thuốc?” ăn, Chàng nhún vai, làm bộ không cần; thật ra chàng thấy cứ để hồ nghi như vậy còn đỡ ghê gớm hơn là biết đâu không nghe nói chắc mình sẽ chết. Ban đêm đôi khi Thérèse chợt thức giấc vì một tiếng rên: Bernard cầm tay nàng đặt lên ngực phía trái để nàng nghe thấy tim chàng có khi ngừng đập. Nàng thắp ngọn nến, trở dậy rót tinh chất cây nữ-lang -hoa vào ly nước. Nàng tự nghĩ vì sự tình cờ nào mà chất thuốc đó lại làm cho chết! Tại sao không làrn cho chết? Chẳng có gì thật tình làm cho an thần, cho an giấc, nếu không phải giấc ngủ ngàn thu. Con người đang rên rỉ kia tại sao sợ đến thế, cái sự an nghỉ không đòi hỏi một sự trả lại nào? Chàng thiếp đi trước nàng. Làm sao chờ giấc ngủ được ở bên cái thể xảc to lớn mà tiếng ngáy đôi khi biến thành tiếng hốt hoảng?

Nhờ trời bây giờ chàng không kề lại gần nữa - bây giờ Bernard cho rằng ái tình là hoạt động nguy hại nhất cho tim. Tiếng gà gáy sáng gọi các tá điền trở dậy. Trong gió đông vang vang tiếng chuông mai của nhà thờ Saint-Claire; mãi lúc đó Thérèse mới chợp mắt. Khi đó thân hình người đàn ông lại hoạt động, Bernard mặc quần áo rất nhanh như kiểu nông dân -chàng chỉ nhúng qua cái mặt vào chậu nước lạnh). Chàng lao xuống nhà bếp như một con chó, háo hức kiếm những thức ăn còn lại trong chạn, cầm tay gặm một cái mình gà luộc, một khoanh giò nguội,, hoặc một chùm nho và một miếng bánh mì có sát tỏi: đó là bữa ăn duy nhất ngon lành của chàng trong ngày! Bernard liệng những mẩu vụn cho hai con chó Flambeau và Diane hàm răng đang lập cập. Trong sương mù có mùi mùa thu. Đó là giờ mà Bernard thấy hết đau khổ, chàng lại cảm thấy trong người sự trẻ trung hùng dũng của mình. Sắp tới mùa chim cu phải lo sửa soạn chim mồi, phải chọc mắt chúng sẵn. Tới mười một giờ chàng quay về thì Thérèse vẫn còn ngủ.

“Thế nào? Còn vụ cậu bé Azévédo? Mình không quên rằng má ở Biarritz đang đợi tin, thư viết về trạm đợi?

- Thế tim mình ra sao?

- Đừng nói chnyện tim của tôi làm gì. Hễ mình nhắc tới là tôi lại cảm thấy khó chịu. Dĩ nhiên là rõ ràng có bị kích động... Mình có tin rằng tôi bị kích động không?”

Không bao giờ nàng đáp đúng với ý muốn của chồng:

“Làm sao biết được; chỉ có mình mới hiểu trong người mình thế nào. Vụ cha mình mất vì bệnh sưng phổi không phải là một lý do... nhất là đang tuổi mình... Đã đành gia đình Desqueyroux có một nhượcđiểm là tim. Nhưng Bernard ạ, mình sợ chết coi bộ tức cười quá! Có bao giờ mình cũng cảm thấy như em, cảm thấy sâu sắc rằng mình sống vô ích? Không hả? Mình có nghĩ rằng cuộc đời của những người như chúng mình hiện đã hết sức giống cái chết? ”

Bernard nhún vai: những trò mâu thuẫn của Thérèse khiến cho chàng bực quá. Có đầu óc đâu có hay ho gì: bất cứ việc gì cũng làm ngược lại lẽ phải. Chàng thêm: Nhưng cô ta thừa hơi cãi lý với mình: tốt hơn hết là để dành đến lúc gặp mặt cậu Azévédo.

“Mình không quên rằng giữa tháng mười cậu ta sẽ rời Vilméja chứ?”

Tới ga Villandraut, trên Saint-Claire một ga, Thérèse nghĩ: “Làm sao nói cho Bernard tin được rằng mình không yêu anh chàng đó? Thế nào anh ta cũng tin chắc rằng mình có yêu anh chàng kia. Giống như những người hoàn toàn không biết đến ái tình, anh ta cứ tưởng rằng một tội ác như tội người ta gán cho mình chỉ có thể vì yêu mê.” Làm sao cho Bernard hiểu được hồi đó Thérèse không hề thù ghét chàng, tuy nhiên lúc Bernard rất khó chịu; nhưng Thérèse tuyệt nhiên không nghĩ rằng tìm an ủi được ở một người đàn ông khác. Cứ kể ra thì Bernard đâu đến nỗi. Thérèse thậm ghét trong tiểu thuyết hay tả những con người khác thường không sao gặp được ở ngoài đời.

Con người cao cả duy nhất mà nàng tưởng được gặp là cha nàng. Nàng cố gán một chút cao cả cho con người cấp tiến ương ngạnh đó, nhưng đa nghi, bắt cá nhiều tay: kỹ nghệ gia (ngoài một xưởng cưa ở B… ông ta lo biến chế chất nhựa thông của mình và của nhiều người thân thích tại một xưởng riêng ở Saint-Claire). Chính trị gia nhiều khi bị thiệt vì tính nóng nảy, quả quyết, nhưng rất có thế lực ở tòa quận trưởng. Ông coi thường đàn bà lắm, kể cả Thérèse vào thời mà ai nấy đều ngợi khen sự thông minh của nàng. Còn từ vụ bi thảm này thì ông không ngớt nói với luật sư: “Bọn chúng nó nếu không loạn thần kinh thì cũng ngu độn hết! ” Con người ghét đạo lại hay xấu hổ. Tuy đôi khi cũng hát lên một điệp khúc của Bérenger, ông không thể chịu nổi khi nghe ai trước mặt ông đề cập tới một vài vấn đề, lúc đó ông đỏ nhừ như một cậu bé con. Bernard được ông De la Trave cho biết, là khi cưới vợ ông Larroque còn tân: “Từ ngày ông ta góa vợ, các ông kia vẫn thường nói là không hề thấy ông ta có mèo. Cha mình đúng là một người đặc biệt!” Thật thế, đúng là một người đặc biệt. Nhưng nếu ở xa, nàng hình dung cha nàng một vẻ đẹp đẽ, mỗi khi về gần, cứ gặp mặt ông ta là Thérèse đã đo lường được sự hèn hạ của cha. Ông ít tới Saint-Claire, nhưng thưòng tới Argelouse, vì ông không muốn gặp ông bà De la Trave.

Có mặt họ là mới bắt đầu bữa ăn đã nảy ra chuyện tranh luận vô Iý đưa rất nhanh tới chỗ gây cấn, tuy họ nhất định không bàn chính trị. Thérèse rất hổ thẹn không dám tham dự: nàng kiêu hãnh không thèm mở miệng, chỉ trừ khi nào đề cập tới vấn đề tôn giáo. Khi đó nàng lao tới đỡ đòn cho ông Larroque. Ai nấy đều to tiếng, đến độ bà cô Clara cũng nghe ra vài câu và cũng nhào vào cuộc tranh luận, với giọng nói khó chịu hết sức của một người điếc, bà mặc sức thả hết nhiệt tình của một cấp tiến lâu đời,“ những chuyện xảy ra trong các tu viện”; thật tình (Thérèse nghĩ vậy) bà có đức tin hơn hết thảy mọi người trong gia đình De la Trave, nhưng bà công khai chống đối đấng cao cả vì đã để cho bà vừa xấu vừa điếc, sẽ chết đi mà không hề được yêu và được biết mùi đời. Từ ngày mà bà De la Trave bỏ bàn ăn đứng lên, ai nấy đều đồng ý không đề cập tới chuyện siêu hình nữa. Vả lại, chính trị cũng đủ để cho những con người đó, dù thuộc tả hay hữu phái, bốc Iên, tuy họ đều đồng ý về một nguyên tắc căn bản: quyền tư hửu là quý báu nhứt đời này, không có ruộng đất thì không đáng sống. Nhưng có cần phải hy sinh hay không? Nếu chịu hy sinh thì phải làm sao? Thérèse, “có óc tư sản từ trong máu”, muốn vấn đề được đặt ra một cách trắng trợn như vậy, nhưng nàng ghét cái bề ngoài giả dối mà gia đinh Larroque và gia đình De la Trave thường đưa ra để che đậy mối ham mê đồng tình của họ. Khi cha nàng tuyên bố “phải hy sinh đến cùng cho nền dân chủ”, nàng ngắt lời: “vô ích, vì chúng ta không có ai xa lạ.” Thứ chính trị cao siêu quá khiến cho nàng Iợm giọng; sự bi thảm của cuộc giai cấp đấu tranh nàng không nhận thấy trong một xứ mà người nghèo nhất cũng là chủ đất và chỉ mong có nhiều đất hơn. Tại đó lòng ham thích chung về đất đai, săn bắn và ăn uống tạo giữa mọi người, tiểu tư sản hay nông dân, một mối huynh đệ chặt chẽ. Bernard còn có học; người ta cho rằng chàng đã ra khỏi hoàn cảnh của mình; chính Thérèse cũng hân hoan thế, Bernard là một người có thể nói chuyện được:”Tóm lại, một người cao hơn hẳn hoàn cảnh của mình...” Nàng nhận xét về Bernard như vậy cho tới ngày gặp Jean Azévédo.

Vào vụ đó không khí mát ban đêm kéo dài cả buổi sáng; liền sau bữa trưa, dù trời nóng, chút sương mù đã sớm báo hiệu buổi hoàng hôn. Những con chim cu đầu liên đã bay qua, hôm nào cũng mãi chiều tối Bernard mới trở về nhà. Riêng bữa đó, sau một đêm khó ngủ, chàng đi thẳng ra Bordeaux để khám bệnh.

Thérèse tự nhủ: “Chẳng có chuyện gì thú, ta đi dạo chừng một giờ trên đường lớn vì đàn bà có mang cần đi bộ một chút. Ta tránh không đi về phía rừng vì ở đó có những chòi bắn chim cu mỗi lúc cứ phải đứng lại, huýt sáo, chờ người thợ săn cất tiếng cho phép đi lên; nhưng đôi khi có tiếng huýt sáo dài đáp lại: một đàn chim mới sà xuống những đám cây sồi; phải ẩn vào một chỗ ngay. Sau đó ta sẽ trở về, ngồi thơ thẩn trước lò lửa ở phòng khách hay ở dưới bếp, đã có cô Clara lo liệu mọi thứ. Giống như một vị thần linh không thèm ngó ngàng tới kẻ hầu gái, ta chẳng lưu ý tới cô gái già này lúc nào cũng lè nhè nói những chuyện bếp nước hay chuyện tá điền; bà ấy nói hoài để khỏi phải mất công lắng nghe người khác nói: bao giờ cũng những chuyện thê thảm về bọn tá điền mà bà đã săn sóc, chăm nom rất chu đáo: những ông già đến độ sắp chết đói, phải làm việc cho tới lúc gần chết, những kẻ tàn tật bị bỏ rơi, những mụ đàn bà phải làm những công việc cực nhọc. Bà cô Clara coi bộ hân hoan nhắc lại bằng thổ âm của họ những lời nói ghê gớm nhất của các tá điền. Thật tình, bà chỉ thương có một mình ta trong khi ta chẳng thèm ngó ngàng tới bà những Iúc bà quỳ gối xuống để cổi giày, tháo tất cho ta, suởi nóng bàn chân ta trong hai bàn tay già cỗi của bà.

Mỗi khi định ngày hôm sau đi Saint-Claire, Balion lại tới hỏi xem có dặn dò điều chi không. Cô Clara kê một bảng những việc phải làm, thu thập những đơn thuốc của mọi người ờ Argelouse: “Trước hết anh tới tiệm bào chế; Darquey phải mất cả ngày mới pha chế xong các thứ thuốc...”

Cuộc gặp gỡ đầu tiên của ta với Jean... Ta cần phải nhớ lại hết mỗi trường hợp: ta định tới cái chòi săn chim cu bỏ hoang nơi hồi nào ta ăn bữa chiều với Anne và sau đó ta biết Anne thường tới để gặp Azévédo. Không, trong óc ta, đó không phải là một cuộc hành hương. Rừng thông ở đó mọc cao quá không ngại quấy rầy những người thợ săn. Chòi săn chim cu không dùng được nữa vì rừng thông ở chung quanh che kín mất chân trời; những ngọn cây cách nhau không đủ có những khoảng trời rộng cho người đi săn ngó thấy đàn chim bay tới. Ta nhớ chăng: mặt trời tháng mười còn nóng bỏng; ta lặn lội trên con đường cát; ruồi muỗi vo vo quanh tai. Cái bụng ta sao mà nặng! Ta mong mỏi được tới ngồi trên cái ghế mục nơi chòi săn chim cu. Khi ta mở cánh cửa, một chàng thanh niên đầu trần bước ra; thoạt nhìn ta đã nhận ra Jean Azévédo và nghĩ ngay rằng mình tới phá đám một cuộc hò hẹn của y, vì nét mặt y trông lúng túng quá. Nhưng ta không thể bỏ đi nơi khác; thật lạ lùng, y nhất định giữ ta lại: “Không, thưa bà, bà cứ vào; tôi thề với bà là không bị phá đám chút nào.”

Ta ngạc nhiên không thấy có ai bên trong chòi, khi nghe lời khẩn khoản của y, ta bước vào. Ý hẳn cô gái chăn chiên đã trốn ra một ngả khác? Nhưng không hề có tiếng cành cây bị giẫm gẫy. Người thanh niên cũng nhận ra ta, và nói ngay tới tên Anne de la Trave. Ta ngồi đó, còn y đứng, như trong một bức hình chụp. Ta nhìn qua mảnh áo lụa chỗ mà ta đã cắm cây kim: nhìn vì tò mò chớ không hề có sự ham muốn. Anh chàng có xinh trai không? Vầng trán vuông vắn - đôi mắt nhung của nòi giống y - hai má no đầy - và cái điểm nó làm cho ta ghê tởm nơi những cậu trai lứa tuổi đó: những mụn, những dấu hiệu của sự máu huyết sôi sục; những gì có mủ, nhất là hai lòng bàn tay ướt y phải lấy khăn lau trước khi bắt tay ta. Nhưng khóe mắt đẹp của anh chàng như lửa đốt; ta yêu cái miệng rộng lúc nào cũng hé mở để lộ hàm răng nhọn: cái mõm của một con chó đang tơ gặp lúc thèm chó cái. Còn ta lúc đó ra sao? Ta nhớ rõ: rất nặng tình thần gia tộc. Ta lên mặt, bằng một giọng rất nghiêm trang, trách y “đã đem xáo trộn, chia rẽ vào trong một nơi gia thế”. Chà, ta thử nhớ lại sự kinh ngạc không giả tạo, tiếng cười tươi trẻ của y: “ Thế bà tin rằng tôi muốn cưới cô ta hay sao? Bà cho rằng tôi mong mỏi cái vinh dự đó sao?” Ta kinh ngạc đưa mắt lường cái hố sâu thẳm giữa mối si mê của Anne và sự thờ ơ của chàng trai trẻ. Y biện hộ rất hăng: đã đành, làm sao không bị lôi cuốn vì cái duyên của cô bé đáng yêu đó? Có ai cấm thử chơi một chút; và chính bởi không thể đặt vấn đề hôn nhân giữa hai người nên y cho rằng thử chơi một chút cũng vô hại. Có lẽ y đã giả dối khi tỏ ra đồng ý với Anne... và khi ta lên mặt kẻ cả ngắt lời, y càng hăng hái nói tiếp rằng Anne có thể minh chứng cho y, y biết giữ gìn chưa hề đi quá trớn; y tin chắc rằng cô De la Trave nhờ có y mới được hưởng những giờ phút thật tình say mê mà có lẽ suốt cuộc đời tẻ nhạt cô ta không bao giờ được biết tới: “Bà bảo rằng cô ta đau khổ; nhưng bà tin rằng cô ta có thể mong đợi nơi số phận cô ta những gì hơn sự đau khổ đó hay sao? Tôi có biết tiếng bà; tôi biết rằng có thể nói những chuyện đó với bà vì bà không giống những người ở đây. Trước khi cô ta dấn thân vào một cuộc hành trình u tối nhất trong một căn nhà cô ở Saint-Claire-Cle, tôi đã cho Anne một gia tài những cảm xúc, những ước mơ- những gì có lẽ đủ để cứu cô ta khỏi sự thất vọng, hay ít nhất sự tù hãm u mê.” Ta không nhớ rõ khi đó ta có bực mình vì sự huênh hoang, kiểu cách quá độ này, hay ta cũng lấy làm vừa ý. Thật tình y nói mau quá, ban đầu ta nghe không kịp; nhưng, lát sau ta đã quen với lối nói liên hồi đó: “Bà tưởng rằng tôi có thể ao ước một cuộc hôn nhân như vậy; tôi mà bỏ neo trên vùng đồng cát này; hay đeo đẳng một cô gái như vậy ở Paris? Tôi sẽ giữ về Anne một hình ảnh đáng yêu, đã đành; lúc bà bắt gặp tôi ở đây, chính là lúc tôi đang nghĩ nhớ tới cô ta... Nhưng làm sao có thể cắm sào một chỗ, thưa bà. Mỗi phút giây phải mang lại một sự vui thích của nó - một sự vui thích khác hẳn những giây trước.”

Sự háo hức của một con vật đang tơ, sự thông minh như vậy lại ở trong cũng sinh vật đó khiến cho ta thấy kỳ lạ, phải chăm chú nghe, không ngắt lời y. Quả vậy, ta bị choáng mắt: một cách dễ dàng quá. Trời ạ! Nhưng quả có thế. Ta nhớ lại tiếng bước chân, tiếng la man dại của những chú chăn chiên báo hiệu từ xa một bầy cừu sắp đi ngang.

Ta bảo với chàng trai rằng có lẽ hơi kỳ nếu họ thấy hai người ở trong cái chòi này ta muốn y trả lời rằng tốt hơn hết là im tiếng chờ đoàn cừu đi qua; ta sẽ thích thú sự im lặng hai người bên nhau, sự đồng lõa thế là ta cũng đã trở nên đòi hỏi, vã ao ước mỗi phút trôi qua đem lại lẽ sống cho ta). Nhưng Jean Azévédo không hề phản đối, mở ngay cánh cửa chòi, và trịnh trọng đứng tránh ra một bên. Y theo la về tận Argelouse sau khi hỏi xem như vậy có trở ngại chi không. Chuyến đi về này ta thấy mau quá, tuy người bạn đường đã đề cập tới rất nhiều vấn đề! Y làm tươi mới lại một cách kỳ lạ những vấn đề mà ta đã tưởng hiểu biết đôi chút; chẳng hạn về vấn đề tín ngưỡng, khi ta nhắc lại những điều vẫn quen nói ở nhà, y vội ngắt lời: “Vâng, có lẽ... nhưng còn rắc rối hơn nhiều...” Có thế, y rọi vào cuộc tranh luận những ánh sáng ta thấy tuyệt diệu... Thật tình những ánh sáng đó có tuyệt diệu đến thế không?... Ta tin rằng cái món ninh đó nay ta thấy đáng nôn mửa: y bảo rằng từ lâu y tin không có gì quan trọng ngoài ngoài sự tìm tòi, theo đuổiThượng Đế: “Xuống thuyền, ra khơi, trốn chạy, như trước cái chết, những người tự tin rằng đã tìm thấy, đứng lại, dựng những chỗ trú ẩn để ngủ yên trong đó; đã từ lâu tôi coi khinh những người này...”

Y hỏi ta đã đọc cuốn Cuộc đời linh mục De Fucauld (La Vie du Père de Foucauld) của René Bazin chưa; khi ta làm bộ mỉm cười, y bảo rằng cuốn sách đó đã làm y xao xuyến.

Y nói tiếp: “Sống nguy hiểm, theo nghĩa sâu sắc nhất có lẽ không phải cứ đi tìm mà là tìm cho thấy Thượng-Đế, và khi đã tìm thấy, tiến mãi theo gót Thượng Đế.” Y tả cho ta: “cuộc phiêu lưu lớn của các nhà thần bí học”, phàn nàn rằng bản chất của y không cho phép y thử làm, “lùi thật xa về dĩ vãng y không thể nhớ có trong trắng bao giờ không».

Bao nhiêu trắng trợn, sự dễ dàng cởi mở của y khiến cho ta đổi hẳn bản tính giữ gìn của người tỉnh nhỏ, sự e dè của những người cùng xứ không chịu thổ lộ về đời sống bên trong của mình. Những chuyện đồn đại ở Saint-Claire chỉ lướt qua mặt ngoài: những con tim bao giờ cũng được giấu kín. Tóm lại, ta biết những gì về Bernard? Phải chăng bên trong Bernard còn biết bao nhiêu những gì hơn bức hí họa mà ta đã lấy làm bằng lòng mỗi khi muốn hình dung ra anh ấy? Jean vẫn nói và ta cứ ngồi im: ta không có một lời nào khác ngoài những lời lẽ quen thuộc trong những vụ tranh luận giữa gia đình. Cũng như ỡ vùng này các xe ngưa đều “cùng một cỡ”, nghĩa là cỗ xe nào cũng khá rộng bề ngang để bánh xe lăn đúng vào vết mòn của những xe bò, cho tới hôm đó những tư tưởng của ta đều “cùng một cỡ” với tư tưởng của cha ta, của bố mẹ chồng ta. Jean Azévédo để đầu trần; ta còn nhớ lại chiếc sơ-mi để hở bộ ngực trẻ thơ, cái cổ quá to của y. Có phải ta đã bị mê hoặc vì bề ngoài của y? Không đâu. Trời ơi! Nhưng y là người đàn ông đầu tiên mà ta gặp và người đó coi trọng đời sống tinh thần hơn hết mọi sự. Những thầy, bạn ở Pari mà y luôn luôn nhắc tới những lời nói hay những sách vở không cho phép ta coi y như một quái vật: y ở trong đám thượng lưu đông đảo, “những người hiện hữu” như y nói. Y đưa ra những tên, không nghĩ rằng ta có thể không biết; và ta làm bộ như không phải lần đầu nghe thấy những tên đó.

Khi tới một khúc quanh, cánh đồng Argelouse hiện ra, ta la lên: “ Đến nơi rồi cơ à!” Khói từ những đống cỏ cháy bay là là trên mặt đất cằn cỗi sau vụ gặt lúa mạch; từ một cái khe giữa ngọn đồi, một bầy cừu chảy trôi như dòng sữa đục, coi bộ đang gặm cát khô. Jean phải đi ngang cánh đồng mới về được Vilméja”. Ta bảo y: “Tôi đưa cậu về; tôi thích những vấn đề đó lắm. “Nhưng hai người chẳng có chuyện gì để nói thêm. Những cọng rạ ta giẫm dép lên thấy đau cả chân. Ta có cảm tưởng y muốn có một mình, có lẽ để được tự do theo đuổi một ý tưởng vừa hiện đến. Ta nhắc y rằng cả hai chưa hề nói chuyện tới An, y đáp chúng ta đâu có tự do để tùy ý chọn đề tài cho những cuộc tranh luận, cũng như cho những dịp suy tưởng, y huynh hoang nói tiếp:“ hoặc giả phải theo những phương pháp do các nhà thần bí học bày ra… Những con người như chúng ta bao giờ cũng theo những trào lưu, lăn xuống những dường dốc…” chuyện gì y cũng kéo tới như vậy, tới những sách vở y đang học. Ta hẹn với y sẽ gặp lại để cùng định một thái độ về vụ cô An. Y trả lời lơ đãng, đáp một câu ta hỏi, y cúi xuống: như một đứa trẻ nhỏ, y đưa cho ta coi một cây nấm, rồi đưa lên mũi ngửi và đặt lên môi hôn.