CHƯƠNG VIII
SAU khi ông bà De la Trave đưa Anne hoàn toàn chịu thua về Saint-Claire, Thérèse, cho tới gần ngày sinh, không hề rời Argelouse. Nàng thật hiểu rõ sự im lặng ở đó, nhất là trong những đêm dài vô tận hồi tháng mười một. Một bức thư gửi cho Jean Azévédo không có hồi âm. Có lẽ Jean cho rằng người đàn bà tỉnh nhỏ đó không đáng một dịp thư từ buồn chán. Trước hết, một người đàn bà có mang không thể lưu một kỷ niệm đẹp. Không chừng xa rồi Jean mới thấy Thérèse tẻ nhạt quá, nếu giả bộ gây rắc rối, tỏ thái độ có lẽ đã giữ lại được tên đồ tồi! Nhưng y hiểu sao nổi được vẻ bình dị giả dối, con mắt nhìn thẳng, những cử chỉ bao giờ cũng lửng lơ đó? Thật tình, y cho rằng nàng có thể, như cô bé Anne, tin lời y, bỏ hết để theo y. Jean Azévédo hoài nghi những đàn bà sớm quy hàng không để cho kẻ địch tự ý rút lui. Y không ngán điều gì bằng chiến thắng, bằng kết quả của chiến thắng. Thérèse, trái lại, cố gắng sống trong khung trời của chàng trai trẻ ấy; nhưng trong những sách mà Jean hâm mộ, Thérèse có gửi mua ở Bordeaux về, nàng thấy không hiểu hết. Thật là vô cùng nhàn cư! Không thể bảo nàng lo may tã lót: “Không phải việc của cô ấy”, bà De la Trave bả thế. Ở thôn quê rất nhiều phụ nữ chết khi sinh nở. Thérèse làm cho bà cô Clara khóc ròng khi nàng nhất định sẽ chết giống như mẹ nàng, chắc chắn không, có cách nào tránh khỏi. Nàng không quên nói thêm “có chết cũng chẳng sao”. Kỳ thật nàng nói dối! Chưa bao giờ nàng ham sống như hồi đó; cũng chưa bao giờ Bernard tỏ ra săn sóc tới nàng đến thế: “Không phải hắn lo cho ta mà lo cho cái vật ta mang trong bụng. Với cái giọng khó chịu, hắn lải nhải mãi vô ích: “Mình ăn thêm khoai tán đi... Mình đừng ăn cá... Hôm nay mình đi bộ nhiều rồi...” Ta chẳng lấy làm cảm động, khác nào một chị vú ở xa tới được người ta làm giá vì sữa tốt. Gia đình De la Trave tôn quý nơi ta một cái lọ quý; cái vật đựng dòng giống của họ; chắc chắn nếu cần họ có thể hy sinh ta để đi cứu lấy cái thai. Ta cảm thấy không còn có đời sống riêng tư nữa. Ta chỉ là một thứ dây nho, đối với gia đình này riêng có trái nho dính với phủ tạng của ta là đáng kể.
Cho tới cuối tháng chạp ta cứ phải sống trong bóng tối như vậy. Những gốc thông vô số chưa đủ, mưa rả rích không ngớt còn dan thêm khắp chung quanh ngôi nhà u tối, cả triệu những chân song di động. Khi con đường độc nhất về Saint-Claire có vẻsắp bị nghẽn, ta được đưa về thị trấn đó ở trong một căn nhà đỡ u tối hơn ở Argelouse được tý chút. Những gốc dương cổ thụ nơi công viên còn rán giữ được ít lá trước những cơn mưa bão. Không thể sống được ở đâu khác ngoài Argelouse, bà cô Clara không đi theo săn sóc ta; nhưng bà tới thăm ta luôn luôn, bất kể mưa nắng, trên chiếc xe ngựa “cùng một cỡ”; bà đem tới cho ta những món quà vặt mà hồi còn bé ta ưa thích và bà tưởng bây giờ ta cũng còn thích, những viên kẹo màu xám bằng lúa mạch trộn với mật ong gọi là miques; thứ bánh ngọt có tên là fougasse hay roumadjade [1].
Ta chỉ gặp mặt Anne vào những bữa ăn, cô bé không hề hỏi tới ta; coi bộ cô gái an phận, chịu thua, và mất hẳn vẻ xinh tươi của tuổi trẻ. Mái tóc kéo ra phía sau nhiều quá để lộ đôi tai khó coi, xám ngắt. Không ai nói tới tên cậu con trai nhà Deguilhem, nhưng bà De la Trave cả quyết rằng Anne chưa hẳn đã ưng thuận. Hừ, Jean đã xét đoán rất đúng về cô bé: không mất bao nhiêu lâu để có thể xỏ dây lỗ mũi và dẫn cô bé đi. Bernard không khá lắm vì anh ta lại bắt đầu uống rượu mạnh. Những con người ở quanh ta nói với nhau những chuyện gì? Ta còn nhớ họ bàn tán nhiều về cha xứ (nhà của gia đình De la Trave ở ngay trước cửa nhà chung). Chẳng hạn họ tự hỏi “tại sao trong ngày cha xứ đi qua công viên đến bốn lần, mỗi lần trở về lại đi một đường khác...”
Do một vài câu chuyện của Jean Azévédo, Thérèse lưu ý tới vị linh mục còn trẻ tuổi, ít liên lạc với giáo dân trong xứ, họ cho rằng ông ta kiêu ngạo: “Không phải thứ hợp với xứ này.” Nhân những dịp rất thưa cha xứ tới thăm gia đình De la Trave, Thérèse ngắm hai bên thái dương đã bạc, vầng trán cao của ông ta. Không có một người bạn thân nào. Ban tối ông ta làm những việc gì? Tại sao ông ta lại chọn cuộc đời đó? Bà De la Trave nói: “Người giữ đúng giờ giấc lắm; tối nào cũng chầu minh thánh, nhưng người thiếu sự uyển chuyển thấm thía, tôi không thấy ở người cái mà người ta gọi là sự kinh tín. Bao nhiêu công việc từ thiện người đều bỏ bể cả.” Bà phàn nàn cha xứ đã bãi bỏ phường kèn của hội từ thiện; cha mẹ học sinh phàn nàn cha xứ không đưa học sinh ra sân đá banh nữa: “Lúc nào cũng chúi mũi vào sách vở thì tốt thật, nhưng làm vậy công việc trong xứ sẽ bê trễ ngay.” Muốn nghe ông ta giảng, Thérèsere hay tới nhà thờ. “Con chịu khó đi lễ vào đúng lúc mà sức khỏe của con không buộc con làm vậy.” Những lời giảng của cha xứ, về giáo lý hay đạo đức, không có đặc tính. Nhưng Thérèse thú một giọng nói, một cử chỉ: có những chữ đôi khi mang một nghĩa nặng... Hừ! có lẽ ông ta có thể giúp nàng chỉnh đốn lại cái thế giới rối ren ở nội tâm nàng; không giống những người khác, ông ta có khuynh hướng bi thảm; cộng thêm vào nỗi cô đơn nội tâm, ông ta lại gây một sa mạc do bộ áo tu sĩ tạo nên chung quanh con người mang nó. Trong những nghi lễ thường nhật ông ta tìm thấy hửng khởi thế nào? Thérèse muốn đi xem lễ vào ngày thường trong tuần, khi không có ai khác chứng kiến ngoài chú bé phụ lễ, ông ta cúi xuống mẩu bánh, lầm rầm khấn khứu. Nhưng cử chỉ đó sẽ hóa thành kỳ lạ đối với gia đình nàng và dân trong vùng, mọi người có thể la hoảng cho rằng nàng mới cải tâm. Vào thời kỳ đó Thérèse đã đau khổ tới chừng nào đi nữa, sau khi nằm cữ nàng mới bắt đầu thấy thật tình khó sống. Bên ngoài không có vẻ gì khác lạ; không có chuyện cãi cọ giữa nàng và Bernard; và nàng tỏ ra tôn kính cha mẹ chồng còn hơn chồng nàng nữa. Sự bi thảm là do đó, không hề có một lý do gì để cắt đức được; không thể tiên liệu một biến cố nào để ngăn mọi chuyện không cứ cái đà bình thường diễn tiến cho tới khi hai tay buông xuôi.
Muốn xích mích cần phải có dịp so đọ đưa tới sự đụng độ; nhưng Thérèse không hề bao giờ có dịp so đọ với Bernard, càng không có với cha mẹ chồng; những lời nói của họ không lọt tai nàng; không bao giờ nàng thấy cần phải đáp lại. Giữa nàng và họ không có lấy cả một dụng ngữ chung. Họ cho những dụng ngữ thường dùng một nghĩa khác hẳn. Một dịp nào đó thiếu phụ thành thật thốt ra một tiếng, thế là cả gia đình nhất định tin rằng Thérèse thích thú những câu bông đùa. Bà De la Trave nói: “Tôi giả tảng không nghe thấy, nếu nó nhấn mạnh, tôi tỏ vẻ không lưu tâm mấy tới chuyện đó; nó tất phải hiểu rằng cái điệu như vậy không ăn thua gì với nhà mình.”
Tuy nhiên, bà De la Trave rất khó chịu thấy Thérèse làm bộ bực bội khi nghe mọi người la Iớn rằng con bé Mary giống mẹ quá. Những lời thốt ra thường lệ: (“Không thể trộn lẫn được...”) thường gọi nơi người mẹ những tình cảm quá độ mà nàng khó che dấu. Nàng nhắc đi nhắc lại mãi: “Con bé này chẳng giống tôi một chút nào. Các bà thử nhìn nước da hung hung, đôi mắt đen láy. Các bà lại nhìn những bức ảnh của tôi: hồi nhỏ tôi xanh xao lắm.”
Nàng không muốn Marie giống mẹ. Nàng không muốn có chút gì chung chạ với cục thịt đã rời khỏi nàng. Mọi người đồn tình mẫu tử không bóp nghẹt những tình cảm khác ở nàng. Bà De la Trave đoán chắc Thérèse yêu con theo cách riêng: “Lẽ dĩ nhiên không thể đòi hỏi nó tắm hay thay tã cho con: đó không phải là việc của nó; nhưng tôi thấy nó ngồi cả buổi tối bên cái nôi, nhịn hút thuốc để ngắm con bé ngủ... Vả lại nhà tôi có chị ở tốt lắm, lại còn cô Anne nữa; Ồ, con bé này thì tôi dám nói chắc là sẽ thành một người mẹ rất tốt…”
Từ ngày có thêm một đứa nhỏ trong nhà, thật tình Anne đã sống lại. Cái nôi bao giờ cũng lôi cuốn các phụ nữ; nhưng Anne, hơn ai hết, chăm sóc con bé với một sự vui thích sâu xa. Cô ta làm lành với Thérèse để được tự do vào phòng con bé cháu, tuy nhiên sự mật thiết xưa kia không còn nữa, ngoại trừ những cử chỉ, những lời xưng hô thân mật. Cô gái ngại nhất nếu người mẹ tỏ ra ghen với mình: “Cháu mến tôi hơn mẹ cháu. Mới trông thấy tôi là nó đã cười ngay. Hôm nọ tôi đang bế, cháu, nó la khóc khi chị Thérèse đưa taymuốn bế nó. Con bé mến tôi lắm lúc tôi phá ngượng.”
Anne thấy ngượng thật vô lý. Trong đời nàng, hồi đó Thérèse cảm thấy thờ ơ với đứa con gái cũng như với hết thẩy mọi thứ khác. Thérèse nhìn những người và vật, và thể xác nàng, tâmhồn nàng nữa, không khác gì một ảo ảnh, một áng sương lơ lửng, tách biệt hẳn với nàng. Riêng có Bernard là một thực tại ghê tởm trong quãng không đó: thân hình thô kệch, tiếng nói giọng mũi, cái vẻ hách dịch, thỏa mãn. Tách khỏi thế giới này... Nhưng bằng cách nào? và đi đâu? Nắng đầu mùa làm cho Thérèse ngột ngạt. Không chút gì báo trước, tội nàng sẽ phạm. Năm đó những chuyện gì đã xảy ra? Nàng không nhớ có một biến cố, một cuộc cãi cọ nào; nàng nhớ thấy ghét chồng hơn ngày thường vào bữa lễ Thánh thể, khi nàng ngồi sau cánh cửa sổ hé mở chờ xem đám rước. Bernard hầu như là người đàn ông duy nhất đi sau chiếc kiệu. Trong khoảnh khắc, cả thị trấn bỗng vắng tanh, tưởng như không phải có một con chiên mù một con sư tử vừa được thả ra đường... Ai nấy đều ẩn núp trong nhà để khỏi phải ngả mũ hay quỳ gối. Nguy cơ qua đi, những cánh cửa lần lượt mở ra. Thérèse nhìn cha xứ đang tiến bước, hai mắt gần nhắm kín, hai tay nâng một vật kỳ lạ. Môi ông ta mấp mày: ông ta nói với ai bằng vẻ mặt đau khổ đó? Theo sau cha xứ là Bernard “đang làm bổn phận”.
Nhiều tuần đi qua không hề có một giọt mưa.. Bernard sống trong cảnh kinh sợ hỏa hoạn, và bắt đầu thấy đau tim trở lại. Tại Louchats có năm trăm éc-ta (hectares) bị cháy: “Nếu có gió Bắc, rừng thông của mình ở Balisac đã tiêu rồi.” Thérèse không biết mong đợi gì nơi khung trời trong vắt. Chắc không bao giờ trời còn mưa nữa... Một ngày nào những khu rừng ở chung quanh sẽ bốc cháy và thị trấn này cũng không tránh khỏi. Tại sao những làng mạc ở vùng Landes không bao giờ bị cháy? Thérèse thấy bất công khi lửa chỉ đốt những rừng thông chớ không đốt cháy người. Trong nhà mọi người bàn cãi liên miên về nguyên nhân của tai nạn đó: một điếu thuốc cháy dở? hay có người đang tâm phá hoại? Thérèse tưởng tượng một đêm kia nàng trở dậy, ra khỏi nhà, tới một khu rừng có nhiều củi ngo nhất, liệng mẫu thuốc lá, chờ tới khi một luồng khói vĩ đại làm mờ nền trời rạng đông…
Nhưng nàng vội xua đuổi ý nghĩ đó, vì từ trong máu Thérèse vẫn trìu mến rừng thông; nàng đâu có thù hận những cây cối.
Nay tới lúc nàng nhìn thẳng vào hành vi đã làm. Giải thích thế nào đây với Bernard? Không cách nào khác là nhắc lại từng điểm một những gì đã xảy ra. Đó là bữa cháy rừng Mano. Mọi người chạy vào phòng ăn khi gia đình đang vội vã ăn bữa trưa. Người thì nói chắc lửa còn xa Saint-Clair lắm, người khác lại đòi bằng được phải kéo chuông báo cấp. Mùi nhựa thông chảy khét dưới bầu trời nồng nực, mặt trời tưởng như lem bẩn. Thérèse còn nhớ Bernard, quay mặt lại nghe Balion báo cáo, trong khi bàn tay to lông lá lơ là trên miệng cốc và những giọt thuốc Fowler nhỏ xuống nước. Bernard uống một hơi hết ly thuốc, còn Thérèse dã dượi vì nóng không nghĩ tới nhắc chồng đã uống gấp hai lượng thuốc thường nhật. Mọi người rời bàn ăn – riêng nàng ngồi bóc những trái hạnh nhân còn tươi, thản nhiên, xa lạ với sự nhộn nhịp, lững lờ trước tấn bi kịch đó, cũng như mọi bi kịch khác không phải của nàng. Chuông cấp báo không được kéo. Sau đó Bernard trở về: “Lần này thì mình có lý, không náo động: cháy mãi bên rừng Mano...” Chàng hỏi: “Tôi đã uống thuốc chưa nhỉ?” và không đợi trả lời, Bernard lại nhỏ thuốc vào cốc. Thérèse nín lặng vì lười, có lẽ vì mệt. Giây phút đó nàng mong ước gì? “Không thể nào có chuyện ta nín lặng vì cố ý.”
Nhưng đêm hôm đó, ở bên giường Bernard, khi chàng vừa nôn mửa vừa khóc, bác sĩ Pédemay hỏi nàng về những chuyện xảy ra trong ngày, nàng không hề nói tới những gì trông thấy khi ở bàn ăn. Khi đó thật dễ dàng lưu ý viên y sĩ về số Iượng thạch - tín mà Bernard đã uống mà không bị liên lụy gì. Thérèse có thể nói một câu chẳng hạn như: “Lúc đó tôi không dè... Chúng tôi ai nấy đều kinh hoảng vì vụ cháy... nhưng bây giờ tôi tin chắc rằng nhà tôi đã uống tới hai liều...” Thérèse nín lặng; không biết nàng có ý định nói hay không. Hành vi mà trong bữa ăn nàng không lưu ý tới bây giờ bắt đầu trổi dậy trong tiềm thức - tuy chưa rõ rệt, nhưng đã ý thức được nửa chừng.
Sau khi bác sĩ ra về, Thérèse nhìn Bernard đã thiếp ngủ được, nàng nghĩ: “Không có gì chứng tỏ rằng vì đó; có thể là đau ruột thừa, tuy không có triệu chứng gì... hay một trường hợp cảm nặng. ” Cách một ngày sau Bernard đã khỏe lại. “Rất có thể là vì đó.” Thérèse không tin chắc hẳn; nàng mong được biết chắc như vậv. “Ừ, ta đâu có bị lôi cuốn vì một ý định ghê gớm; đó chỉ là một sự tò mò nếu chiều theo thì nguy hại. Ngày đầu tiên, khi ta nhỏ những giọt thuốc Fowler vào trong ly của Bernard trước khi chàng bước vào phòng ăn, ta còn nhớ có tự nhủ: “Chỉ một lần thôi nhé, cho biết chắc... biết chắc rằng anh ấy bị đau vì thế. Chỉ một lần, rồi thôi.”
Đoàn xe chậm lại, thả một hồi còi, rồi chạy. Có hai, ba chấm lửa trong bóng tối: ga Saint-Claire. Nhưng Thérèse không còn chi đêể dò xét nữa; nàng đã nhào vô tội ác lôi cuốn; chính tội ác đã thu hút nàng; những gì xảy ra sau đó, Bernard cũng biết hết như nàng: Bernard bỗng thấy đau lại, và Thérèse săn sóc chồng đêm ngày, tuy nàng coi bộ mệt lả và không sao nuốt được một miếng (đến độ chính Bernard khuyên nàng nên thử phương thuốc Fowler và nói với bác sĩ Pédemay cho đơn). Tội nghiệp cho bác sĩ! ông la ngạc nhiên thấy Bernard thổ ra thứ nước màu lục nhạt; ông ta chưa hề nhận thấy có sự không ăn nhập lạ lùng giữa mạch và nhiệt độ của bệnh nhân; có nhiều lần gặp trường hợp phó thương hàn ông nhận thấy mạch bình thường tuy nhiệt độ cao- nhưng mạch nhảy mạnh và nhiệt độ dưới mức trung bình như thế này là nghĩa làm sao? Không chừng cảm cúm truyền nhiểm: cảm cúm thì lắm chuyện đấy.
Bà De la Trave tính mời một danh y. nhưng lại không muốn làm mất lòng ông bác sĩ quen từ lâu đời; còn Thérèse cũng sợ làm làm Bernard phải kinh động. Nhưng, tới giữa tháng tám, sau một cơn đáng ngại hơn nữa, chính ông Pédemay mong có một đồng nghiệp để hỏi ý kiến; may thay ngay bữa sau tình trạng sức khỏe của Bernard đã khá nhiều; ba tuần sau có thể nói là gần khỏi hẳn. Pédemay nói: “Thật may quá! Nếu vị danh y có thi giờ tới đã được tiếng là chữa khỏi.”
Bernard đòi chở về Argelouse, hy vọng sẽ khỏe kịp mùa săn chim cu. Dịp đó Thérèse mệt nhọc hết sức: bà cô Clara sau một cơn tê thấp nặng phải nằm liệt giường; bao nhiêu công việc thiếu phụ đều phải ngó tới: hai người đau nằm đó và một đứa bé; không kể những công việc mà bà cô Clara còn bỏ bê. Thérèse rất cố gắng thay cô săn sóc những người nghèo khổ ở Argelouse. Nàng đi thăm một vòng các nhà tá điền, cũng như bà cô Clara, nàng lo đưa những đơn thuốc tới nhà bào chế, bỏ tiền túi ra trả tiền thuốc. Thérèse không có thì giờ buồn về chuyện căn nhà ở Vilméja cửa đóng kín mít. Nàng không nghĩ đến Jean Azévédo nữa, chẳng nghĩ tới một ai khác trên đời này. Một mình Thérèse đi qua một đường hầm nguy hiểm; nàng đang ở khúc tối tăm nhất; cần phải như một kẻ đần độn, không suy tính, ra khỏi miền tăm tối đó, ra khỏi đám khói mù, tìm thấy không khí khoáng đãng, ngay lập tức!
Đầu tháng chạp, Bernard bỗng nằm liệt vì căn bệnh cũ: một buổi sáng trở dậy chàng run rẩy, hai chân cứng đơ, không cảm giác. Rồi những chuyện xảy ra sau đó! Một buổi tối ông De la Trave đưa vị danh y từ Bordeaux về; sau khi khám bệnh, bác sĩ nín lặng trong một lúc lâu (Thérèse tay cầm cây đèn, Balionte còn nhớ da mặt nàng trắng hơn tấm khăn trải giường): ở đầu cầu thang không đủ ánh sáng, Pédemay hạ thấp giọng vì Thérèse đang đứng nghe, nói cho người đồng nghiệp biết dược sĩ Darquey có cho xem hai đơn thuốc của ông ta bị làm mạo: đơn thứ nhất một bàn tay sát nhân biên thêm Liqueur de Fowler; trên đơn thứ hai có ghi những liều rất nặng các thứ độc dược chloroforme, digitaline, aconitine. Balion đưa những đơn đó tới cân cùng, với nhiều đơn thuốc khác. Darquey, thắc mắc vì đã bán những độc dược đó, ngày hôm sau liền chạy tới nhà ông Pédemay.... Ừ, Bernard biết rõ hết những chuyện đó cũng như Thérèse. Một chiếc xe y tế chở Bernard về ngay một bệnh viện ở Bordeaux; và từ bữa đó Bernard bắt đầu khỏe lại. Thérèse một mình ở lại Argelouse; nhưng mặc dù cô quạnh, nàng nghe thấy ở chung quanh một sự xôn xao rộng lớn; con vật ẩn trốn nghe thấy tiếng đàn chó săn lại gầu; mệt lả như sau một cuộc trốn chạy thục mạng - khác nào khi gần tới đích, bàn tay đã đưa ra, nàng chợt bị đẩy té nhào xuống đất, hai chân gãy gục.
Cuối mùa Đông, một buổi tối cha nàng có tới nài nỉ nàng phải minh oan. Mọi sự còn có thể cứu vãn được. Pédemay đã bằng lòng rút đơn khiếu nại, khai rằng không nhớ kỹ có đơn thuốc nào của ông không hoàn toàn do chính tay ông ta biên. Về những chất aconitine, chlorofonne và digitaline, tất ông ta không thể cho đơn với những liều mạnh như vậy; nhưng trong máu bệnh nhân không hề tìm thấy một chút nào những độc dược đó, vậy thì..-
Thérèse còn nhớ kỹ cuộc gặp gỡ ông bố ở bên giường bà cô Clara. Một lò sưởi bằng củi đốt chiếu sáng giang phòng không ai đòi thấp đèn- Nàng giải thích bằng một giọng đều đều của đứa trẻ đọc bài (bài mà nàng học đi học lại mãi trong những đêm không ngủ): “Tôi gặp ở trên đường một người không phải dân vùng Argelouse, người đó nói nhân tiện tôi cho người đi lấy thuốc ở nhà Darquey nên nhờ tôi làm ơn cho cân giùm một đơn thuốc của y; y nợ tiền của Darquey nên không muốn đưa mặt tới tiệm bào chế... Y hẹn sẽ tới nhà nhận thuốc, nhưng không nói tên, cũng không để lại địa chỉ...
- Tìm cách khác đi, Thérèse, đừng để taí tiếng cho gia đình. Khốn nạn, tìm cách khác đi! ”
Ông già Larroque cứ trách mắng Thérèse mãi không thôi; bù nghễnh ngãng nhỏm người dậy, thấy Thérèse có vẻ bị hăm dọa ghê gớm, rên lên:
“Ông ấy nói gì với con thế? Họ kiếm chuyện gì với con? Tại sao mọi người cứ muốn Iàm khổ con?”
Thérèse còn đủ can đảm để mỉm cười với bà cô, cầm tay bà, và như một cô gái nhỏ trong giờ giáo lý, nàng đọc bài: “Một người đàn ông ở trên đường cái; trời tối quá tôi nhìn không rõ mặt; y cũng không nói ở trại tá điền nào.” Một tối sau, y lại tới để lấy thuốc. Không may chẳng một ai trong nhà trông thấy y hết.
Chú thích:
[1] Tên của fougasse hoặc focaccia được lấy từ thành ngữ Latinh “panis focacius“. Có nghĩa đen là "một chiếc bánh mì dẹt được nướng trên lò sưởi hoặc dưới đống tro tàn của ngọn lửa". Focaccia không chỉ làm bánh mặn, mà còn làm cả bánh ngọt và cả bánh mình mềm (brioche). Phần bánh làm vị ngọt được gọi là fouace hoặc fouasse. Nó là một loại bánh ngọt có nguồn gốc từ tỉnh Aveyronnaise (miền Nam xứ Pháp), là một loại bánh kếp đơn giản làm từ hoa lúa mì không men nấu trong tro. ( Ct.Ly)