PHẦN THỨ NHẤT - CHƯƠNG I
HÔM ẤY, CHÚNG TÔI ĐANG ngồi học, ông Hiệu Trưởng bước vào phòng, theo sau là một anh học trò mới ăn bận quần áo lịch sự kiểu nhà quê, và một anh tống thơ văn khuân theo chiếc bàn nhỏ. Các cậu học trò đang ngủ gật bỗng choàng dậy, rồi ai nấy đều vội vàng đứng lên như đang làm việc chăm chỉ lắm. Ông Hiệu Trưởng ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống, rồi quay lại nói với thầy giáo:
- Thưa thầy, ông nói nhỏ nhẹ - Tôi gởi thầy anh trò mới này trò vào học lớp Đệ ngũ, nhưng nếu sức học của nó khá, thì sẽ được lên lớp trên, cho đúng với số tuổi.
Đứng thụt vào trong góc cửa, anh trò mới là một thiếu niên nhà quê, vào khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, dáng người mập mạp ; cao lớn hơn bọn chúng tôi nhiều. Tóc anh đã cắt ngắn để xõa trên trán, trông ngây ngô như những chú nhỏ chuyên việc giúp lễ ở các nhà thờ làng, nét mặt có vẻ hiền lành và ngượng nghịu. Mặc dầu vai anh ta không lấy gì làm lớn lắm nhưng người ta cũng rõ chiếc áo dạ xanh có những chiếc khuy đen to tổ bố của anh cũng làm cho anh khó chịu vướng víu ở khuỷu tay, ở nách, và để lộ ra hai cổ tay tròn trặn không quen có áo. Anh bận một chiếc quần vàng, đi vớ xanh, và một đồi giày da sù sì.
Đến giờ thầy giáo gọi đọc bài. Anh ta ngồi yên, chăm chú như người đang nghe giảng đạo, không dám cả vắt hai chân lên nhau hoặc chống khuỷu tay lên bàn cho đỡ mỏi. Cho đến hai giờ sau, khi ba tiếng trống nhà trường báo hiệu giờ ra chơi, ông thầy phải bảo anh ta đứng dậy, anh ta mới bước ra theo chúng tôi.
Mỗi khi vào lớp, chúng tôi vẫn thường có cái lệ ném mạnh mũ vào góc phòng để cho chân tay được rảnh rang. Vừa bước vào đến cửa đã thi nhau ném mũ rồi, nhưng phải ném làm sao cho mũ vừa vặn chạm vào tường thì đứng lại và làm bốc lên một đám bụi mù vừa đất lẫn phấn trắng. Đó là một lối chơi được chứng tôi ưa thích.
Nhưng có lẽ vì chưa kịp để ý đến sự lạ ấy, hoặc không dám ném mũ như chúng tôi, cho nên sau phút đọc kinh rồi, anh trò mới vẫn còn giữ khư khư chiếc mũ vải ở trên đùi. Chiếc mũ ấy trông cũng ngô nghê như mái tóc của anh ta, nhưng hãy còn mới, chiếc khuy đồng gắn trên mũ hãy còn sáng choang.
Ông thầy chỉ anh ta:
- Trò kia đứng dậy.
Anh ta luống cuống đứng dậy, cái mũ rơi bịch xuống đất. Cả lớp cười ồ lên.
Anh ta cúi xuống nhặt mũ, nhưng chỉ một cái chạm tay rất khẽ của gã học trò ngồi bên cạnh, cái mũ lại rơi bịch xuống đất. Anh ta lại cúi xuống nhặt nữa.
Ông thầy nhanh trí nói:
- Thì bỏ cái mũ ra nào, đã ai lấy mất mà sợ?
Cả lớp cười ầm lên làm cho anh học trò mới càng thêm ngượng nghịu, khổ sở. Anh cuống quít không biết nên bỏ mũ xuống đất, nên cầm tay hay là đội luôn trên đầu. Sau cùng anh ngồi đại xuống ghế.
Ông thầy lại bảo:
- Đứng lên, tên trò là gì?
Anh trò mới lí nhí một câu trong miệng, không ai nghe rõ là anh định nói gì. Ông thầy cau mày:
- Nhắc lại coi.
Anh ta lại lúng túng đáp, nhưng lần này cũng vậy, chẳng ai nghe rõ tiếng gì vì cả lớp đang ồn ào vì anh. Ông thầy gắt:
- Nói lớn lên nào, nói lớn lên...
Thế rồi như một kẻ liều thu hết can đảm để làm một việc gì vĩ đại, anh trò mới há hốc mồm, gân cổ la lên một câu:
- Trần... văn... Bô.
Thiên hạ phá lên cười, cười rú, cười hộc lên, không còn kiêng nề ai gì hết. Mấy gã học trò ngỗ nghịch đấm bàn thùm thụp mà la lối om sòm: ‘‘Ông Bô. Ông Bô’’ Người ta cười gập đôi người xuống, cười bò ra bàn. Xong rồi trận cười cũng im dần, sau cùng chỉ có vài anh thỉnh thoảng cười hấc hấc lên vài tiếng.
Trật tự vãn hồi dưới những cú thước kẻ của ông giáo đập bôm bốp trên bàn. Sau khi nghe rõ cái tên Trần văn Bô, ông ta bắt ngay Văn Bộ ra ngồi một mình ở cái bàn kê trong góc dành riêng cho những gã nào không thuộc bài hoặc quấy phá.
Lớp học yên tĩnh trở lại, những mái đầu xanh cúi xuống trên những trang giấy trắng, Văn Bô ngồi ngay cán tàn như mặt khúc gỗ cho đến lúc tan học. Chiều ấy, ra sân trường bọn học trò xúm lại vây lấy anh, Chúng vừa nhảy vừa hát loạn:
- ‘‘ Ông Bô ơi! Bà Bô đái dầm.
Đái ướt hết giường chiếu, chăn bông;
Ông Bô điên cầm cây phất trần.
Đánh mấy cái vào đầu Bà Bô'',,
Nhưng cái tên hơi lạ: Văn Bô, và bài hát riêu theo điệu Orsay cũng không làm cho Bộ cảm thấy ngượng nghịu hay khổ sở, bực bội hơn chút nào. Anh chịu khó nghe giảng bài, học bài ra rả như cuốc kêu, và làm bài bên cuốn tự vị to tướng, mỗi chữ lại giơ ra tra, vất vả như một kẻ nếu không được... vất vả như thế thì chết mất. Nhờ ở thiện chí chăm chỉ làm việc ấy, anh ta thâu lượm được cái kết quả xứng đáng là khỏi bị tống xuống lớp dưới. Bởi vì nếu thuộc rành các mẹo luật văn phạm, anh cũng vẫn chẳng biết đặt câu ra làm sao cho xuôi tai. Ông cha cố ở làng anh là người đã dạy anh học vỡ lòng; gia đình anh, vì hà tiện đã cố gửi anh đến trường học càng muộn chừng nào càng tốt.
Ông già anh, ông Trần văn Bành, người vẫn được thiên hạ tôn là quan Quản Bành đi lính từ năm mười tám tuổi, Ieo mãi từ cấp bậc binh nhì cho đến chức Thượng Sĩ Chánh, khi vừa lên chức Quan... thì quan Quản lại bị Nhà Nước bắt ép phải giải ngũ vì có dính líu một vụ ăn tiền, ăn nong gì đó. Vừa ra khỏi quân đội; ông Quản Bành lập tức trả thù đời bằng cách cưới ngay một cô gái con nhà hàng vải phải lòng mặt ông vì mê bộ râu cá chốt hiên ngang và chiếc lon vàng của ông. Bảnh trai, tán gái khéo, dáng người cao lớn, hùng dũng, uy nghiêm, ông Quản Bành đi giầy đinh gõ nghe kêu ‘‘tanh, tanh’’ ròn tan, bộ râu cá chốt lúc nào cũng xanh, tốt và vểnh ngược, tay đeo hai; ba cái nhẫn, và ăn bận thì lẳng lơ ra trò. Ông Quản đã làm cho cô con gái ông hàng vải phải lòng mê tơi, và đem về cho ông một số của hồi môn khá lớn..
Sau khi cưới vợ rồi, ông Quản sống phây phây trong mấy năm bằng cách lấy tiền hồi môn của vợ ra ăn dần. Ông ta dậy muộn, đi ăn hàng chuyên môn ngồi uống rượu, hút ống ‘‘Píp’’ với thuốc lá Prince Albert,ở tiệm rượu, tối thì đi coi xi nê, hoặc đi đánh bạc, la cà đêm nào cũng gần sáng mới về nhà,
Khi ông già vợ chết đi; để lại một số của ít ỏi, ông Quản Bành, thấy thế làm bất mãn mới xoay ra buôn bán. Nhưng cuộc làm ăn phú quý giật lùi chỉ làm cho bà Quản hết vốn, ông Quản liền rút về quê, quyết định xây dựng sự nghiệp nơi vườn mộng. Nhưng vì chẳng biết cái mốc khô gì về canh nông, ông Quản lại thích đi rong chơi, bắn chim bằng ngựa chứ không thích cho ngựa đi cày, thích bắt gà vịt chim bồ câu ở trong trại ra quay đánh chén chứ không đem bán, thích uống rượu chai chứ không thích để rượu đóng thùng cho người cất, bởi vậy cho nên, cũng chỉ trong vài năm, ông Quản Bành đã sớm thấy rằng ông ta không có số làm ăn, và cũng không nên làm ăn gì cả cho mệt xác.
Bỏ ra hai ngàn đồng, ông mua một cái trại nhỏ trong một làng quê thanh vắng ở miền Gò Cô, rồi buồn rầu, giận đời, trách trời, hận đất, ghen ghét tất cả mọi người, ông Quản Bành- từ năm mới bốn mươi lăm tuổi - đã nhất định đóng cửa ở nhà, áp dụng triết lý ‘‘mũ ni che tai’’ mà sống ẩn dật như một nhà hiền triết.
Bà Quản Bành ngày trước đã yêu thương chồng bằng một mối tình say - đắm nồng nhiệt. Hồi còn trẻ bà vui vẻ, tươi tắn, hồn nhiên biết bao nhiêu, thì lúc trở về già, bà lại cấm cản rầu rỉ, cay đắng bấy nhiêu giống như một chai rượu để lâu hóa ra thành dấm chua, Bà đã đau khổ nhiều mà không hề hé môi than thở lấy một tiếng. Trước hết, bà đau khổ vì thấy ông chồng chơi bời giăng dện với những ả lẳng lơ, thấy chồng đi chơi hết đêm này qua đêm khác, rượu chè be bét. Rồi lòng tự ái bà nổi dậy. Bà cố gắng nuốt hận không thèm than thở nửa lời, nhưng giận chồng cho đến ngày xuống lỗ. Lúc nào bà cũng bận bịu, lo lắng chật vật. Bà phải đi vay nợ, đi chạy hàng xách, ở nhà phải nấu nướng, giặt giũ, trông nom trang trại, trong lúc đó thì ông chồng chẳng phải dúng tay vào một việc gì, chỉ cả ngày uống rượu say lừ đừ, ngồi đâu thì gạt tàn thuốc và khạc nhổ lung tung ra đấy, và động mở miệng ra thì y như rằng nói cấm cản như đấm vào tai vợ.
Khi bà Quản sinh được một cậu con trai đó là cậu ấm Bô của chúng ta đấy - thì bà đã có một lẽ sống cho cuộc đởi bớt tẻ lạnh. Cậu ấm Bô được cưng chiều như một ông Hoàng con. Bà Quản nuôi cậu bằng kẹo bánh, ông Quản thì cho cậu tự do chạy chơi chân không lêu lổng ngoài đồng. Và để tỏ ra ta đây là một nhà ‘‘phi lô zốp (philosophe = triết gia)’’, ông còn tuyên bố có thể cho con ở truồng đi ra đường… cho nó sống với thiên nhiên. Vì muốn huấn luyện cho Bô trở nên một thanh niên ngang tàng, cứng rắn cho nên ông Quản bắt Bô uống rượu, bắt đi ngủ không cho đắp mền và dạy Bô phỉ báng các cuộc cúng lễ, nhưng vì bản tính nhu nhược, mềm yếu, thằng bé không thể chịu được sự huấn luyện sắt kẽm của ông Quản, Hai nữa, bà Quản lúc nào cũng giữ rịt Bô ở bên mình. Bà dạy Bô hát ru em; kể truyện cổ tích cho Bô nghe. Bao nhiêu giấc mơ đã tan vỡ của bà, bà đều đặt cả vào Bô. Bà ước ao sau này Bô sẽ có một địa vị cao sang trong xã hội, bà đã mơ thấy Bô lịch sự, bảnh trai, thông minh hơn người, Bô sẽ là kỹ sư hoặc là bác sĩ. Bà dạy Bô tập đọc, tập viết và dạy cả Bô chơi vài bản nhạc xưa trên chiếc đàn dương cầm cũ rích của Bà. Ông Quãn Bành, vốn là người vẫn khinh bỉ văn nghệ từ trước đến nay, thường nhún vai cho rằng ‘‘học hành thì ăn cái giải gì’’ liệu có tiền cho nó theo đuổi đến nơi đến chốn không? Hơn nữa, theo ý ông ở đời này bất cứ thằng nào ngu dốt đến đâu, mà ma lanh một tí là vẫn có thể thành công như thường
Trước những lý luận gàn bướng ấy của chồng, bà Quản Bành đành cắn răng nín thinh, và để cho Bô lêu lỏng cả ngày khắp đồng.
Bô đi theo những người cày ruộng ra đồng chơi, dùng súng cao su bắn những con sáo đã nhảy loi choi trên các luống cày. Bô theo chúng bạn trèo me, bẻ sấu, mùa sim thì ra bờ sông ăn sim đến no, đến đau bụng, Bô thích cầm một cái sào dài ra đầm chăn vịt, hoặc mùa gặt xách cái rổ đi mốt lúa, thích chạy vào rừng cây bắt chim, đánh đu dưới cổng nhà thờ, và những ngày mưa, hoặc là vào những ngày lễ lớn, thì nài nỉ xin chú Bô giữ nhà thờ cho leo lên gác chuông, để được đu mình bịch bịch theo nhịp đập của quả chuông đồng.
Bởi vậy, Bô nhớn lên giữa cảnh đồng rộng, sông dài mạnh mẽ và cứng rắn như một cây thông non đươc mọc giữa thiên nhiên. Mặt Bô hồng hào, tay chân Bô rắn chắc.
Năm Bô mười hai tuổi, bà Quản Bành nhất quyết cho Bô đi học. Bà long trọng nhờ ông cha Xứ giữ cái nhiệm vu dạy dỗ, mở mang tri óc cho Bô. Nhưng những giờ học tập giữa ông thầy giáo ‘‘tài tử’’ và cậu học trò ‘‘bất đắc dĩ’’ ấy cũng chẳng đem lại ích lợi gì mấy cho cả hai người. Ông cha Xứ quen dạy Bô vào những lúc rãnh rỗi, trong nhà thờ, hai thầy trò đứng bên những cột đá, ông lên lớp cho Bô một vài bài rồi lại vội vã đi làm lễ rửa tội hoặc là làm phép cưới cho con chiên. Hoặc vào những buổi tối, khi không có việc phải đi đâu, cha sai chú Bõ đi gọi trò Bô đến học. Hai thầy trò leo lên căn phòng nhỏ trên lầu sau nhà thờ. Họ ngồi vào bàn, muỗi và thiêu thân mùa hè từ cửa sổ ùa vào bay nháo nhào quanh ngọn nến. Trời oi bức, anh học trò ngủ gà ngủ vịt, và ông thầy cũng thiu thỉu luôn, Hai tay chấp lên bụng, chẳng mấy lúc mà thầy ngáy đều và trò cũng gục đầu lên cuốn sách đánh một giấc ngon lành.
Đôi khi trong những lúc ông cha Xứ về thăm người bệnh trở về, ông thấy Bố đang chạy nhẩy trên cánh đồng bèn xách tai Bô đến dưới một gốc cây cổ thụ nào đấy, bắt Bô đọc bản cửu chương hoặc là chia năm bẩy ‘‘vẹc bờ’’. Nếu trời mưa thì hai thầy trò cùng chạy về làng. Hoặc có người quen đi qua, phải tiếp chuyện thì anh học trò lỉnh mất. Nhưng mặc dầu vậy, ông cha Xứ vẫn hài lòng về Bô như thường, ông vẫn khen rằng Bô là một thiếu niên thông minh và có tương lai lắm. Nhưng sau cùng bà Quản Bành nhất định không để cho cậu con trai lông bông như thế mãi. Ông Quản có lẽ cảm thấy tự thẹn, và cũng chán ngấy mọi việc, nên để mặc bà vợ muốn làm gì thì làm. Bà Quản đợi thêm một năm nữa cho Bô đủ sức nhớn rồi mới gởi Bô tới học trường Gò Ruần.
Đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh của Bô. Đó là một thiếu niên tính nết ôn hòa, đùa nghịch trong giờ chơi, làm bài trong phòng học, chịu khó nghe giảng trong lớp, ăn no, ngủ kỹ…v.v... Anh ta có một ông chủ hiệu sắt vụn ở đường hàng Gang là chỗ thân tình nên mỗi tháng một lần, ông này đến trường đón anh ta ra tỉnh chơi vào buổi chiều chủ nhật. Ông ta đưa Bô đi chơi trên bến tàu, rồi chập tối lại đưa Bô về trường, trước giờ ăn bữa tối, Chiều thứ năm nào cũng vậy, Bô viết cho bà mẹ một lá thư dài.
Vì cố gắng chăm chỉ học hành, cho nên tháng nào Bô cũng đứng vào khoảng giữa trong bảng sắp hạng, có một lần anh được nhất về khoa Sử Ký. Nhưng sau khi học hết năm thứ ba, ông bà Quản Bành cho Bô ra trường theo học Y Khoa, ông bà cho rằng Bô thừa sức tự học để thi nốt cái bằng Tú Tài.
Bà Quản tìm thuê cho Bô một căn gác xép trên lầu một nhà thợ nhuộm ở bờ sông. Ngoài cái bàn học và cái giường bằng gỗ gụ, bà mua thêm cho Bô một cái lò sưởi nhỏ và chở từ Gò Cô ra cho Bô một mớ củi đủ sưởi trong mùa Đông.
Ngày đầu tiên, khi đọc tấm chương trình các môn học, Bô cảm thấy tối tăm mặt mũi, nào là khoa Sinh lý, khoa vật lý, cơ thể học..v..v... Cả một lô danh từ tối nghĩa, làm cho Bô kinh hoảng, Mặc dù chăm chỉ, tuy chịu khó nghe giảng Bô cũng chẳng hiểu là gì cả nhưng anh vẫn theo học đều đều như một con ngựa bị người ta bịt mắt kéo xe, tuy vẫn bước đều nhưng chẳng biết là sẽ đi về đâu hết cả.,
Trong những buổi chiều mùa hạ nên thơ, khi các dãy phố nóng nực đã vắng người qua lại và những chị sen, cô ở tụm năm tụm ba ngồi trò chuyện trên các ngưỡng cửa, Bô thường mở tung cánh cửa sổ nhìn ra dòng sông. Anh tựa tay vào thành cửa mơ màng. Dòng sông nhỏ hẹp nước đục lờ đờ trôi làm cho Bô có cái cảm giác đẹp như đang sống ở Venise. Bọn thợ thuyền đi làm về xuống sông rửa chân tay, cười đùa vui vẻ. Ngay trước cửa nhà, dưới chân chiếc cầu đá xám, ông thợ nhuộm chủ nhà Bô căng những sợi giây thừng để phơi vải lụa. Bên kia bờ sông; sau những mái nhà màu nâu sẫm, nền trời trong vắt ửng hồng dưới ánh nắng tàn. Trời ơi. Cuộc sống ở nơi đồng quê xa xôi kia vui sướng biết là chừng nào. Buổi chiều ở dưới những vòm hoa lá tươi xanh chắc là vô cùng mát mẻ. Và Bô mở rộng cánh mũi hy vọng để đươc hít thở một chút hương vị của đồng quê.
Bô gầy đi nhiều, người Bô dài ra, và nét mặt của Bô bỗng có một vẻ mệt mỏi rất nghệ sĩ trông cũng hay hay.
Thế rồi, vì chán nản, vì lừng khừng, dần dần Bô quên hết những sự bắt buộc của việc học. Một hôm anh lười không đến bệnh viện, rồi vài hôm sau, anh ngủ quên bỏ một buổi học. Thấy cuộc sống vô tư dễ chịu hơn trước, Bô sinh ra đi học lấy lệ cho có chừng, còn thì để dành thì giờ đi chơi bời.
Bô bắt đầu la cà trong các quán rượu, anh say mê đánh cờ. Tối tối được ngồỉ lỳ trong một quán rượu công cộng bẩn thỉu trước một bàn cờ và bên một ly la-ve, được cầm những quân cờ bằng sừng đập canh cách lên mặt gỗ, đối với Bô là những hành động quý báu của sự tự do được sống theo như ý muốn. Và Bô tự nhiên thấy mình có nhiều cái tài vặt khác. Anh tập hát những bài dân ca, biết thưởng thức thế nào là vọng cổ, uống được rượu đế, và sau cùng... được biết tình ái là gì.
Nhờ ở những sự học tập ấy, đến kỳ thi Bô bị đánh trượt ngay từ vòng đầu. Trong lúc ấy thì ở nhà quê, người ta đã mổ heo làm gà sẵn để chờ ông Đốc về ăn khao.
Bô lủi thủi về làng một mình. Tới đầu làng anh dừng lại dưới gốc đa, nhờ người về nhà nhắn bà Quản ra thưa chuyện. Anh thú thật tự sự với mẹ, bà Quản thương con không trách mắng gì nhưng xoay ra sỉ vả mấy ông giám khảo cho rằng không vô tư, có đút tiền thì cho đỗ.. v.v... Rồi bà Quản đưa con về nhà, tuyên bố là Bô đã đỗ, và người ta cứ ăn khao như thường. Ở nhà quê ai biết đâu?
Năm sau, bà Quản lại gửi Bô ra Gò Ruân học lại. Lần này Bô học thuộc lòng gần hết đề thi, và cuối cùng... thi đỗ. Bà Quản mừng đến ứa nước mắt … Rồi bà lập tức tìm chỗ hành nghề cho Bô. Ở quận Ông Tố gần đó chỉ có một ông Y Sĩ già gần kề miệng lỗ.Tuy rằng chưa chết, nhưng ông Tấn Y Sĩ Trần văn Bô cũng cứ đến mở phòng khám bệnh để kế nghiệp như thường.
Nhưng chẳng phải lo cho Bô ăn học thành tài, tìm chỗ cho Bô hành nghề như vậy là Bà Quãn đã xong công hết việc. Bà còn phảỉ lo cưới vợ cho con nữa. Sau một thời gian tìm kiếm khá lâu, bà mới thấy ưng ý một bà góa chồng, vợ của ông thừa phát lại đã thất lộc, bà này mới có ngoài bốn mươi cái xuân xanh, và chừng chín, mười vạn bạc vốn.
Mặc dầu người gầy gò như cây sậy, mặt thì đầy mụn trứng cá, và hàm răng thì cái ra, cái vô, bà Cả Bút - đó là tên chồng cũ của bà - cũng không thiếu gì người dòm ngó muốn cưới về chung chăn, sẻ gối. Phải là có nhiều thủ đoạn lắm, bà Quản Bành mới loại được ra ngoài vòng chiến những địch thủ lợi hại của bà. Trong số đó, đáng kể nhất là một anh hàng thịt lợn, vì anh này được ông Cha Xứ đỡ đầu.
Bô muốn lấy vợ cho xong đi vì anh cho rằng có gia đình riêng, anh sẽ thoát được ra khỏi cái quyền bảo hộ quá chặt chẽ của bà Quản, Anh tưởng rằng có vợ thì anh sẽ được tự do tiêu thì giờ và tiêu tiền hơn trước. Nhưng anh lầm, bà Cả Bút …bây giờ thành ra là bà Bô, mới là người chỉ huy gia đình. Trước mắt mọi người Bô phải giữ gìn ý tứ và ăn nói theo đúng ý muốn của vợ. Mỗi ngày thứ Sáu, Bô phải ăn chay, không được uống rượu và ăn tỏi vì bà Bô không thích ngửi mùi rượu và mùi tỏi. Theo lệnh vợ, Bô phải đòi tiền các thân chủ thiếu nợ một cách gắt gao. Bà ta dò chừng các hành động của Bô, bóc thư từ của Bô ra kiểm duyệt trước và lén nhòm qua một khe hở vào phòng khám bệnh xem chồng làm cái trò trống gì khi có nữ thân chủ.
Mỗi buổi sáng, bà ta phải uống một ly sữa ‘‘sô cô la’’ nóng, ăn hai trứng gà ‘‘ la cót = la coque’’, và bắt Bô phải chiều chuộng săn sóc chăm nom đủ điều. Cả ngày bà ta chỉ than thở kêu rên vì nhức đầu vì đau ngực. Những tiếng động mạnh làm cho bà khó chịu. Không có ai đến chơi cả thì bà ta buồn. Người ta đến thăm luôn thì bà ta chắc Ià họ đến để chờ bà ta chết. Tối tối, khi Bô đi thăm người bệnh về nhà, bà ta thò hai cánh tay gầy gò từ trong mền ra choàng lấy cổ Bô, kéo Bô ngồi xuống cạnh giường và bắt đầu ‘‘tả oán’’: Bô đã quên bà ta, Bô đã yêu người khác. Người ta đã bảo rằng nễu lấy Bô, thì thế nào bà ta cũng đau khổ mà. Và sau cùng, bà ta đòi Bô rót một muỗng ‘‘si rô’’ uống cho khoẻ và một tí… tình yêu nữa.