CHƯƠNG II
Một đêm kia, vào khoảng giữa đêm, hai vợ chồng Bô đang ngủ bỗng thức dậy vì những tiếng vó ngựa dừng ngay trước cửa nhà. Đứa ở gái của ông bà Bô mở chiếc cửa sổ trên gác xép ra hỏi xuống. Dưới đường, có một anh nhà quê đến mời ông Đốc đi chữa bệnh gấp. Anh ta có một lá thư gửi cho ông Đốc. Cái Nụ lạch cạch, vừa đi vừa run vì rét, xuống mò mẫm mở cửa, dẫn anh chàng nhà quê vào phòng ông bà chủ, Anh này lột chiếc mũ dạ trên đầu ra, lấy lá thư kính cẩn đưa lên ông Đốc. Cái Nụ cầm cây đèn dầu đứng ở đầu giường, và bà Đốc thì giả vờ thẹn, quay mặt vào tường.
Bức thơ đó khẩn khoản mời ông Bô đến gấp một cái trại nhỏ ở trong Quận, kêu là vùng Bà Tô, để chữa cho một ông chủ trại vừa bị té gẫy giò. Từ Quận Ông Tố đến Bà Tô phải đi đến hơn mười cây số, lại qua mấy khu rừng nhỏ, mà đêm thì tối như mực, Bà Bô sợ nguy hiểm cho chồng, Anh nông dân được sai về trại trước chừng vài giờ đồng hồ nữa khi có trăng mọc ông Đốc Bô sẽ lên đường sau. Anh nông dân sẽ dặn một thằng nhỏ ra chờ bên đường cái để dẫn ông Đốc vào trại.
Vào khoảng bốn giờ sáng, mặc quần áo đại hàn như một người đi thám hiểm miền Bắc Cực, Bô lên ngựa đi Bà Tô. Hãy còn ngái ngủ, Bô gật gù lắc lư ngồi trên yên, theo nhịp đi êm êm của con ngựa, đến lúc ngựa tự động dừng lại bên một cái hố ven đường thì Bô mới giật mình choàng dậy. Thế rồi chợt nhớ tới cây chân gẫy phải chữa lát nửa đây, Bộ lẩm nhẩm ôn lại trong óc tất cả những cái chân gẫy mà Bô đã gặp trong đời. Trời không còn mưa bụi nữa, Ngày đã bắt đầu rạng nơi chân trời, và trên những cành cây khẳng khiu trụi lá, nhiều con chim đứng ủ rũ, rỉa bộ cánh đẫm sương trước làn gió lạnh của buổi ban mai.
Miền đồng ruộng phẳng lặng chạy dài mãi đến chân trời, và những lùm cây trơ trọi trên cánh đồng như những nét chấm phá điểm vào một bức tranh thủy, mạc chỉ toàn một màu xám nhạt, Thế rồi, Bô lại thiu thỉu ngủ. Những cảm giác mới cũ lộn xộn trong óc Bô.
Lúc thì Bô tưởng mình còn là sinh viên như ngày xưa, mùa thu ôm sách đến trường đi trên những hè phố vắng lá vàng rụng đầy. Lúc thì anh mơ như mình vẫn còn đang nằm lơ mơ trong chiếc giường nệm bông ấm áp. Mùi dầu nóng của nhà thương phảng phất trước mặt anh, lẫn với mùi sương đêm. Bỗng nhiên, Bô thấy một thằng bé ngồi chồm hổm bên đường:
- Ông có phải là ông Đốc không ạ?
Bô gật đầu. Thằng bé tụt đôi guốc gỗ ra cầm tay và bắt đầu chạy vào một con đường nhỏ. Bô thúc ngựa theo sau. Dọc đường, nhờ sự dọ hỏi thằng bé, Bô được biết thân chủ của anh tên là ông Năm Hòa một nông gia kiêm trại chủ khá giả nhất vùng.
Hồi chập tối hôm qua trong khi đi nhậu ở nhà ông bạn về ông Năm Hòa bị ngã ngựa gẫy chân. Ông ta góa vợ từ hai năm nay và hiện giờ chỉ có mỗi một cô con gái trông nom cửa nhà.
Hai người đã đến trước cửa trại. Thằng bé vạch bờ rậu chui vào sân, rồi ra mở cánh cổng gỗ cho Bô. Đó là một cái trại bề ngoài trông có vẻ trù phú lắm. Một đàn gà vịt đang kiếm mồi trong sân, Phía sau nhà, Bô thấy hai cái vựa chứa lúa mì thật lớn và một chuồng bò, chuồng ngựa khá rộng.
Anh nông dân đi mời hồi nẫy lăng xăng ra giữ lấy cương ngựa và dẫn ông Đốc lên lầu thăm người bệnh. Ông Năm Hòa là một người chừng năm mươi, da màu nâu tái mà lại rỗ hoa, trán hối và hai lỗ tai có đeo vòng theo kiểu dân Bô Hê Miên (Bohémien), Ông Năm đang nằm trong giường, trên chiếc ghế gỗ cạnh giường để sẵn một chai rượu đế, thỉnh thoảng ông lại tợp một ngụm cho đỡ buồn.Từ chập tối đến giờ, tức là đã gần mười hai giờ đồng hồ ông chỉ nằm chửi thề om sòm nhưng khi thấy Bô, thì ông lại nhăn nhó và rên khe khẽ ra cái điều đau đớn.
Chỗ xương gẫy thật là tầm thường không có rắc rồi tí tẹo nào cả. Bô không ngờ lại dễ chữa đến thế. Rồi nhớ lại dáng điệu trịnh trọng của các Y Sư ngày xưa mà trong hồi đi học, anh đã thấy bên giường bệnh. Bô lựa lời an ủi và khuyến khích bệnh nhân. Những câu nói có vẻ chân thành và làm bệnh nhân cảm động tin tưởng ấy cũng là một phương pháp trị bệnh của các ông thầy thuốc.
Người ta vội chạy xuống chuồng bò tìm hai khúc cây, đem lên phòng để ông Đốc Bô làm cái kẹp chân cho ông Năm Hòa. Dùng một miếng vỏ chai? Bô khẽ cạo cho khúc cây được nhẵn nhụi. Mụ hầu gái già của ông Năm xé vải soàn soạt để làm băng, khi cần vài cái gối nhỏ để làm nệm, người ta mời đến cô Ánh.
Ánh là cô con gái của ông Năm, Nàng bước vào phòng, tay cầm giỏ đồ khâu, Bô chú ý đến trước nhất hai bàn tay có những ngón tay dài và những móng tay trắng nhọn, cong cong của nàng, Rồi.Bô lại thấy một vẻ đẹp khác, Đó là đôi mắt trong, to và đen lay láy của nàng. Dưới những hàng mi dài, đôi mắt ấy bỗng nhiên làm cho tâm hồn Bô rung động,
Băng bố xong, Bô được ông Năm nhất định mời ăn điểm tâm một chút xíu rồi hãy
về,.
Chàng xuống nhà dưới, trên chiếc bàn gỗ gụ dài đã bầy sẵn hai đĩa thức ăn nguội và một chiếc bánh mì tròn vành vạnh kiểu nhà quê. Bô ngồi vào bàn ăn uống qua loa. Vừa ăn, Bô vừa cảm thấy mùi xạ hương bay trong mùi đất ẩm, và mùi rơm rạ nồng nồng từ ngoài sân theo nắng bay vào, Trong góc nhà có chất vài bao lúa mì. Chàng được cô Ánh cho biết trong vụ gặt vừa qua, vùng Bà Tô được mùa lúa. Vựa lúa của ông Năm không đủ chỗ chứa lúa. Trên bức tường vôi, chàng thấy một bức tranh vẽ phong cảnh đồng quê bằng bút chì màu, dưới có đề hàng chữ ‘‘ kỷ niệm ngày về quê hương’’ và một nét ký tháu. Chàng đoán tác giả bức tranh đó là cô Ánh.
Hai người trò chuyện về cái chân gẫy của ông Năm, qua đến vụ gặt, đến cái rét lạnh mùa đông ở đồng quê và những con chó sói lảng vảng đêm khuya quanh trại. Cô Ánh không thích đồng quê mấy, nhất là bây giờ, cô phải thay ông già trông nom tất cả mọi việc. Buổi sớm mai hơi lạnh; thỉnh thoảng nàng lại khẽ rùng mình. Bô để ý thấy hàm răng trắng xinh của nàng đôi lúc lại lộ ra trên làn môi, hồng mịn.
Mái tóc đen huyền của Ánh chải rẽ đường ngôi ở giữa trán rồi cuộn lại thành một lọn ở phía sau gáy. Cổ nàng trắng ngần như một đóa hoa sen tươi mơn mởn. Và đó là lần đầu tiên, nhà y sĩ đồng quê của chúng ta để ý đến những sợi tóc mây lòa xòa trên má của một người con gái. Bất giác Bô chợt nhớ đến mớ tóc khô khan, cằn cõi và đã ngã màu tiêu của bà Bô già ở nhà.
Thế rồi, đáng lẽ sẽ trở lại thăm bệnh cho ông Năm sau ba ngày nữa như đã hẹn trước, chỉ qua ngày hôm sau, Bô đã trở lại Bà Tô, rồi chàng trở lại đều đều mỗi tuần hai lần đó là không kể những cuộc thăm viếng lặt vặt như tình cờ đi qua tạt vào cho vui vậy.
Mọi việc đều êm đềm trôi qua, Cái chân gẫy của ông Năm được chữa chạy theo đúng phương pháp, Vào khoảng chừng bốn mươi ngày sau, khi thấy ông Năm khập khễnh chống nạng tập đi trước hiên nhà, thì người ta đã phải công nhận rằng ông Đốc Bô là một tay cừ khôi số dách. Ngay chính ông Năm cũng thường tuyến bố rằng những vị y sư danh tiếng lẫy lừng ở thủ đô cũng chỉ chữa mát tay đến như ông Đốc Bô là cùng thôi.
Còn về phía Bô, chàng không bao giờ để ý tìm hiểu rằng tại sao cìang lại có vẻ thích thú và chăm chỉ đến thăm ông Năm Hòa như thế. Nếu có tìm hiểu, thì chàng sẽ cho sự chăm chỉ đó là nguyên do ở lương tâm nhà nghề của chàng, hoặc vì hy vọng được bệnh nhân trả tiền hậu mà ra. Nhưng thật ra, có phải đâu vì những lý do kém thơ mộng đó mà những cuộc viếng thăm Bà Tô của Bô đã trở thành một nguồn vui sống cho cuộc đời trầm lặng của chàng. Những ngày ấy, chàng dậy sớm hơn mọi ngày, phóng ngựa đi trong ánh nắng mai cũng hăng hái hơn mọi ngày. Trước khi vào trại ông Năm, chàng xuống ngựa chùi đế giày lên nệm cỏ ướt, rồi móc đôi bao tay bằng da đen trong túi ra mang vào tay. Chàng thích thúc ngựa đi lộp cộp vào sân trại, được thấy thảm nắng vàng dưới chân cây hạt dẻ, rung rinh lay động trên nền đất ẩm, mấy đứa nhỏ chạy ra tranh nhau giữ cương ngựa của chàng. Chàng thích được ông Năm Hòa vỗ nhẹ vào vai và kêu to lên rằng chàng là người cải tử hoàn sinh cho ông. Chàng thích được thấy những đôi guốc gỗ xinh xinh, màu xanh, màu đỏ của cô Ánh xếp ngay ngắn dưới chân cầu thang, và những chiếc áo mỏng của nàng phơi trên giây kẽm sau nhà.
Lúc chàng về, lần nào Ánh cũng tiễn chàng ra trước hiên nhà. Trong lúc chờ bọn trẻ con mang ngựa đến, chàng và nàng đứng lặng bên nhau, không nói năng. Gió lạnh mùa đông bao trùm lấy họ, thổi bay những sợi tóc phất phơ trên má nàng. Một hôm trời bỗng nhiên ửng nắng sau một cơn mưa tuyết, tuyết đóng trên mái nhà tan thành nước rỏ giọt xuống như mưa. Ánh sợ ướt cầm chiếc dù ra dương lên, Ánh nắng xuyên qua làn lụa mỏng màu hồng của chiếc dù, lại càng làm cho môi nàng, má nàng hồng thêm. Nàng xoay xoay cán dù trong tay và lơ đảng mỉm cười, Bô nghe có tiếng nước rơi lộp hộp trên làn lụa mỏng căng.
Trong những ngày đầu tiên khi Bô đi chữa bệnh cho ông Năm Hòa, bà Bô già ở nhà đã dành sẵn một trang giấy trắng tinh trong cuốn sổ đen của bà cho ông Năm, Nhưng khi nghe đồn rằng ông Năm Hòa có một cô con gái, bà lập tức mở một cuộc điều tra, và khi được biết rằng con gái lão Năm Hòa trẻ đẹp, có đi học ở trường Nhà Trắng, biết đàn, biết hát, biết nhẩy đầm v..v... thì bà tức đến điên người được. Bà nghiến răng nghĩ thầm:
- À... thì ra vì thế mà hắn ta có vẻ khoan khoái mỗi lần được đi Bà Tô. Lần nào đi thăm nó hắn cũng đi giày mới, mặc áo mới, giời mưa, cũng như giời nắng. A... con khốn nạn, con khốn nạn.
Tự nhiên bà thấy thù ghét cô gái nọ ngay từ phút đầu tiên. Bà bắt đầu nói xa nói gần, nhưng Bô không hiểu những câu bóng gió ấy mấy. Đến khi chàng hiểu được thì chàng lại lặng im, sợ cãi nhau to tiếng chẳng hay ho gì. Bà Bô càng làm già, bà hỏi thẳng vào mặt Bô nhiều câu làm chàng cứng họng không trả lời được.
- Tại sao Bô chăm đi chữa bệnh cho lão Năm Hòa thế? Tại sao Ião Năm đã khỏi chân rồi mà Bô vẫn còn phải đến thăm bệnh cho lão? Mà lão lại còn chưa trả tiền thuốc cho chàng nữa? Hừ … tại là vì ở đấy có người ta biết nói chuyện, biết đàn, ca, hát xướng. Còn Bô thì chỉ híp mắt lại vì các cô tiểu thư tân thời …
Rồi bà lại chề môi khinh bỉ:
- Con gái nhà Năm Hòa mà là tiểu thư à? Có tiểu thư vôi thì có, bố lão Năm trước kia làm cái gì có biết không? Lão ta đi chăn trâu nghèo thấy cha, thấy mẹ. Mới khá đây mà đã lên mặt. Mà giàu có gì cho cam kia chứ, năm ngoái đây may mà được mùa chứ không thì lão Năm đã nợ đìa ra rồi. Bố thì đi cày chai cả tay ra, mà con thì cứ làm bộ phấn sáp lòe loẹt, thật không biết xấu hổ …
Trước dai dẳng của vợ, Bô đành hứa không đi Bà Tô thăm Ánh và ông Năm chàngpha3ihànggià đã bắt chàng phải nghiêm trọng thề thốt nặng lời tay đặt lên quyển Thánh Kinh, rằng chàng sẽ không đi Bà Tô nữa, sau một hồi bà khóc lóc nức nở và hôn hít Bô ghê gớm. Bô tuân lời vợ, nhưng trong thâm tâm chàng có một cuộc nổi dậy âm thầm, khinh bỉ sự tùng phục quá dễ dàng cùa chàng. Rồi giả dối một cách ngây thơ Bô cho rằng có như thế chàng mới xứng đáng được yêu Ánh, vì chàng đã chịu khổ vì nàng.
Những ngày ảm đạm lại bắt đầu đến với Bô. Chao ôi, Bà Bô già gầy guộc như một cây tăm xỉa răng, răng bà ta dài lại có bợn vàng, suốt bốn mùa bà ta khoác trên vai một chiếc khăn san mầu nâu sẫm bẩn, chân bà ta lúc nào cũng sù sù đôi vớ len, dầy như vớ lính tẩy.
Thế rồi mùa Xuân năm ấy, một tấn thảm kịch bỗng nhiên xảy ra trong cuộc đời gầy guộc của bà Bô, tức là cùa bà Cả Bút cũ. Một ông Luật Sư ở Gò Ruân, người được trao trọng trách giữ tất cả số vốn của Bà, vào một buổi sáng đẹp trời đã lên đường ẵm hết cả tiền bạc trong tủ sắt trốn đi đâu mất. Ngoài số tiền bị cuỗm đó, bà Bô vẫn còn cái thuyền và một căn nhà. Nhưng cũng chẳng đáng, là bao.
Ông bà Quản Bành nhất định tìm cho ra sự thật. Căn nhà của bà Cả Bút nát đến nỗi gần sắp đổ và đã cầm cố lung tung từ lâu rồi. Còn cái thuyền mà bà ta khoe rằng đáng giá đến sáu, bẩy chục ngàn ấy bây giờ đem bán lấy độ... một ngàn đồng bạc cũng chưa chắc đã có người mua. Trong lúc giận dữ, ông Quản Bành đập gẫy cả một cái ghế đẩu xuống sàn nhà mà kết tội bà Quản đã làm khổ Bô, đã bắt Bô phải lấy một con ngựa già mà yên cương đã nát đến như bà Cả Bút. Ông bà Quản hầm hầm đưa nhau đến nhà Bô để hỏi cho ra nhẽ…
Một cuộc cãi nhau xẩy ra, Bà Cả Bút vừa khóc, vừa mếu chạy lại ôm lấy Bô, xin chàng che chở, Bô cãi hộ cho vợ, ông bà Quãn Bành giận bỏ về
Nhưng mà sự đã lỡ rồi. Vài ngày sau, trong lúc đứng phơi quần ngoài sân, bà Bô bỗng thấy choáng váng, mặt mũi rồi miệng bà ộc ra một chút máu tươi. Sáng hôm sau trong lúc Bô quay lưng đi để khép cánh cửa sổ, nằm trong giường, bà khẽ rên: ‘‘ Trời ơi … trời’’ rồi ngất đi. Bà ta đã chết.. Ơ … lạ chưa kìa?
Khi mọi việc tang ma đều xong xuôi. Bô một mình từ nghĩa địa trở về nhà. Không thấy ai ở nhà dưới, chàng đi thẳng lên lầu thấy chiếc áo của vợ hãy còn vắt ở trên giường, Bô ra ngồi bên cửa sổ, dựa đầu vào thành ghế, chàng mơ màng rầu rĩ cả một buổi chiều. Mặc dầu sao bà Bút cũng đã yêu chàng…
Một hôm, ông Năm Hòa ra quận Ông Tố, đem trả Bô số tiền chữa chiếc chân gẫy và một đôi gà. Trước cái tang vợ của Bô, ông cố sức an ủi chàng:
- Tôi biết mà? Tôi biết quá mà? Tôi cũng qua cái cảnh đoạn trường như ông rồi. Cái ngày mà vợ tôi chết, tôi như điên như cuồng. Tôi chạy ra ngoài đồng đập phá lung tung giận trời trách đất.
Rồi ông Năm gật gù cái đầu:
- Lúc ấy tôi muốn chết theo vợ tôi. Mỗi lúc nghĩ đến người khác được vui thú với vợ mà vợ mình thì chết tôi lại như điên lên. Tôi không ăn uống gì cả. Ai rủ tôi đi nhậu nhẹt là tôi chửi ngay. Thế rồi lâu dần ông ạ... ngày nọ tiếp đến ngày kia, xuân qua rồi hạ tới sen tàn cúc lại nở hoa mà lỵ… tôi quên dần đi. Nhưng mà lúc nào nhớ đến cũng còn là đau... đau ở chỗ trái tim này này. Tôi muốn nói là nó lắng xuống. Nhưng mà người ta trước sau ai cũng phải chết cả thì mình buồn phiền quá đáng nào có ích gì? Hai nữa đâu có phải cứ thấy người khác chết là mình cũng muốn chết theo? Ông phải hoạt động lên ông Đốc ạ! Thật đấy mà, ông nên nghe tôi đi. Rồi ông sẽ quên mà. Tôi mời ông đến trại chơi, ở vài hôm đi bắn chim, đi câu cá cho khuây khỏa, Con bé nó cứ nhắc đến ông luôn ; nó bảo rằng có lẽ ông không nhớ ra nó là ai rồi đấy. Hôm nào ông đến, chính tay tôi sẽ quay một con thỏ, ông sơi rồi coi ông có ngán tài tôi không?
Bô nghe theo lời khuyên của ông Năm, Chàng trở lại Bà Tô và thấy cảnh vật y nguyên như ngày hôm qua, nghĩa là vẫn như cách đó năm tháng trước. Những cây lê trong trại đã nở hoa. Ông Năm Hòa đã khỏi chân, suốt ngày chạy ra chạy vào càng làm cho quang cảnh thêm rộn rịp.
Cho rằng mình có bổn phận phải tiếp đãi Bô thật ân cần, thật đặc biệt vì cái tang đau buồn của Bô, ông Năm yêu cầu chàng cứ việc đội mũ dạ và mang áo nỉ trong nhà, Ông lấy giọng nhỏ nhẹ trò chuyện với chàng, như với một người ốm nặng. Đôi khi ông còn giả vờ nổi giận gắt mắng bọn người nhà, vì bọn này không chịu để ý làm những món ăn riêng cho ông Đốc theo đúng lời dặn…v..v.. Trong bữa ăn, muốn làm cho Bô vui ông Năm kể vài chuyện Tiếu Lâm lẩm cẩm, bất giác Bô cười khì khì. Rồi bỗng nhiên chợt nhớ đến cái chết của vợ, mặt Bô lại sa sầm xuống, Nhưng chỉ một lát sau đến lúc uống cà phê, Bô lại quên ngay,