← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III

Lâu dần, Bô không nhớ đến bà Cả Bút mấy nữa. Chàng đã quen với cuộc sống mới và thấy thích thú vì được tự do, Bây giờ, chàng có thể thay đổi giờ ăn, giờ ngủ theo như ý muốn, đi về bất cứ vào giờ nào, khỏi cần giải thích lý do với ai hết. Chàng hài lòng tiếp nhận sự an ủi thương cảm của mọi người, cái tang vợ của Bô cũng có lợi cho nghề nghiệp, Trong suốt một tháng trường, người ta đã nhắc nhở đến chàng với câu ‘‘Ông ấy góa vợ sớm thật là tội nghiệp’’. Tên tuổi chàng được nhiều người biết, thân chủ kéo nhau đến đông hơn trước, và chàng được tự do đi thăm ông Năm, Bô cảm thấy cuộc sống của chàng có một nỗi vui lâng lâng, một niềm hy vọng mơ hồ, chàng mơ ước mà không biết là mơ ước gì? Mỗi buổi sáng, khi đứng cạo râu trước tấm gương, Bô nhận thấy mặt mũi mình có vẻ sáng sủa và dễ thương hơn trước.

Buổi chiều, sau mỗi lần đi Bà Tô thăm Ánh trở về nhà, Bô thường ngồi mơ màng rất lâu về Ánh. Chàng cố nhớ lại những lời nàng đã nói, cả đến những cái chớp mắt những làn môi hơi nhếch lên khi nàng cười. Lần nào chàng cũng đặt ra câu hỏi: ‘‘Rồi đây cuộc đời của Ánh sẽ ra sao. Bao giờ nàng đi lấy chồng? Và chồng nàng sẽ phải là một người như thế nào?’’ Chao ôi! Ông Năm Hòa cũng khá giàu mà Ánh thì …đẹp quá! Bên tai Bô cả ngày như có tiếng ai văng vẳng nói: ‘‘Nếu ta hỏi cưới Ánh? v..v..’’ Đêm đêm, Bô nằm trằn trọc khó ngủ. Chàng khát nước trở dậy lịch kịch suốt đêm. Nhiều lúc chịu không nổi, chàng ra đứng bên cửa sổ. Trời đêm lấp lánh đầy sao, làm gió nồm thổi qua, đưa những tiếng chó sủa từ x axa vọng lại. Chàng quay mặt nhìn về phía Bà Tô.

Nghĩ rằng dù có hỏi cưới Ánh làm vợ mà không được thì cũng chẳng thiệt hại gì, Bô tự hứa rằng nếu gặp cơ hội thuận tiện, chàng sẽ ngỏ ý muốn với ông Năm ngay ; Nhưng lần nào cũng vậy, khi nhất định mở miệng nói về vấn đề này, thì chàng cảm thấy sợ hãi đến ríu cả lưỡi …rồi..im luôn.

Trong thâm tâm, ông Năm Hòa cũng đang muốn thanh toán được cô con gái sớm ngày nào hay ngày nấy. Ở nhà với Bô, cô Ánh cũng chẳng giúp đỡ ông được việc gì đáng kể. Nhưng mặc dầu vậy, ông Năm cũng chẳng trách gì Ánh, vì ông cho rằng một cô gái có học thức như nàng làm sao có thể lo lắng được công việc đồng áng nặng nhọc cho được, Bởi vậy khi ông thấy ông Đốc Bô thường hay đỏ mặt mỗi khi thấy Ánh, và có những cử chỉ ngây ngô đến là buồn cười bên nàng, thì ông tin chắc rằng một ngày kìa thể nào ông Đốc Bô cũng xin cưới Ánh làm vợ. Ông tính toán mọi việc trước cả Bô nữa. Ông thấy Bô hơi gầy gò, Bô không phải là chàng rể lý tưởng mà ông muốn có, nhưng người ta cho rằng Bô có học, có địa vị đàng hoàng không chơi bời và chịu khó cần kiệm, làm ăn và nhất là chàng sẽ không riết róng mấy về số của hồi môn của vợ.

- Nếu hắn hỏi cưới con Ánh - ông Năm tự bảo thầm - ta gả cho hắn ngay.

Trong dịp lễ Thánh Mi Xen, Bô đến chơi nghỉ dưỡng sức tại Ba Tô trong ba ngày. Cũng như hai ngày trước, ngày cuối cùng đã sắp hết Bô vẫn ngần ngại chưa dám nói đến cái chuyện mà chàng quyết định phải nói. Trước phút từ biệt ra về, ông Năm và Bô đi tản bộ trên con đường mòn sau nhà.

Vừa đi, ông Năm vừa nói về những chuyện phải trái của con người ta ở đời. Bô lặng yên nghe ngóng nhưng thực ra thì tâm trí chẳng để ở mãi tận đâu đâu. Chàng thu hết can đảm, nhất định lúc đi tới đầu gốc cây gạo đầu đường sẽ phải nói. Và... khi đã đi khỏi gốc cây một quãng khá xa, chàng mới lắp bắp:

- Ông Năm... tôi muốn thưa với ông câu chuyện...

Hai người ngừng lại. Bô đứng thộn mặt ra, mân mê cái roi ngựa trong tay.

Ông Năm khe khẽ cười:

- Cái gì vậy, sao không nói đi? Bộ thầy tưởng tôi không biết chi hết sao?

Bô lúng túng nhắc lại:

- Ông Năm... ông Năm...

- Tôi ấy à - Ông Năm đỡ lời chàng - thầy cũng biết là tôi không mong muốn gì hơn. Tôi rất tán thành cuộc hôn nhân này. Chắc con bé cũng đồng ý với tôi, nhưng dù sao, tôi cũng phải hỏi qua nó trước. Thôi được rồi, thầy cứ yên trí về đi để tôi nói với nó cho.

Đây nhé, để cho thầy khỏi phải chờ đợi sốt ruột, tôi về nói cho nó biết ngay. Thầy cứ đứng đây, nếu mọi việc xong xuôi cả, thì tôi sẽ mở toang cánh cửa sổ sau nhà bếp kia ra cho thầy thấy.

Ông Năm vội vã trở về nhà. Bô buộc cương ngựa vào gổe cây gạo, Chàng đứng cạnh hàng rào nhìn vào nhà bếp ông Năm cho đễ. Nửa giờ đồng hồ dài dằng dặc trôi qua. Bô rút đồng hồ ra đếm thêm mười bảy phút nữa, Thế rồi bỗng nhiên chàng giật nẩy mình: cánh cửa sổ sau bếp nhà ông Năm vừa bị một bàn tay bí mật nào mở tung ra. Bô nghe tiếng móc sắt đập vào thành tường đá reo như tiếng chuông, Chàng nhẩy phóc lên ngựa chạy về nhà như người bị mạ đuổi.

Sáng hôm sau, mới chín giờ sáng, Bô đã có mặt ở trại. Khi thấy Bô, cô Ánh hơi đỏ mặt, nhưng cũng cười gượng lên mấy tiếng. Ông Năm Hòa vồn vã ra đón chàng rể tương lai vào nhà. Người ta bắt đầu thảo luận đến chuyện cưới xin. Nhưng chỉ bàn tính sơ sơ thôi, bởi vì còn rất nhiều thời giờ. Phải chờ cho Bô hết tang vợ, tức là đến mùa Xuân năm sau, mới có thể cử hành lễ cưới.

Mùa đông lặng lẽ và êm đềm trôi qua trong sự đợi chờ và chuẩn bị. Cô Ánh lo sửa soạn tư trang về nhà chồng. Mỗi lần Bô đến trại chơi, hết người nọ đến người kia thay phiên nhau chất vấn Bô và trình bày ý kiến về đám cưới. Nên bày tiệc ở đâu, nên ăn

những món gì cho ra trò..v..v..

Cô Ánh muốn cử hành lễ cưới vào khoảng nửa đêm trong ánh nến lung linh và

những ngọn đuốc lửa bập bùng. Nhưng ông Năm không thể thông cảm được cái ý muốn lãng mạn và nên thơ ấy của cô con gái. Ông quyết định tổ chức một đám cưới phải có ít nhất là bốn mươi ba tân khách đến ăn nhậu, phải có một bữa cỗ ăn uống dai dẵng đến mười sáu tiếng đồng hồ, và lai rai đến ba, bốn ngày sau nữa...!

Hôm cưới, các thực khách dẫn bầu đoàn thê tử tới trại ông Năm Hòa từ tảng sáng Họ chồng chất nhau trên những chiếc xe ngựa mới cũ đủ kiểu, có nhà lại đi ăn cưới bằng xe bò. Người ta cho mời tất cả quan viên bà con hai họ. Nhân dịp này, người ta làm lành với những kẻ thân thuộc cãi lộn, giận nhau từ lâu và gửi thiếp mời cho cả những người đã bỏ làng đi tha phương lưu lạc mất tích từ bao giờ.

Nhà Công Sở Quận Bà Tô ở cách trại ông Năm Hòa chừng hai cây số. Đám cưới đi bộ đến Quận sau khi ký tờ hôn thú, họ đua nhau qua nhà thờ, rồi lại đi bộ trở về trại. Đám người, thoạt tiên, đi đều như một giải lụa nhiều màu sắc, lượn như sóng giữa cánh đồng, trên những con đường nhỏ ngoằn ngoèo chạy qua những thửa ruộng lúa xanh rờn. Sau đó họ tản mát ra họp thành nhiều toán nhỏ. Ông thầy đờn đi đầu tiên, cái đầu nghẹo trên cây đờn ‘‘ vi-ô-lông’’ cũ rích, vừa đi vừa kéo cò cử, cô dâu chú rể đi theo ông thầy đờn. Tiếp đó, đến bà con hai họ. Bọn trẻ con đi sau cùng chúng bận đuổi nhau bên vệ đường hoặc tạt vào vườn hái hoa. Ông Năm Hòa đội một chiếc mũ dạ mới tỉnh hảo, chiếc áo nỉ màu nâu của ông tay dài đến lấp mất cả ngón tay. Ông long trọng đi bên bà Sui Gia của ông, tức là bên bà Quản Bành. Còn ông Quản, thì vốn có sẵn sự khinh thị, coi thường bọn nhà quê, họ hàng nhà gái, nên đã tới dự lễ cưới với một bộ áo bành tô kiểu lính tập có tám cái khuy bằng đồng sáng chói. Ông ta đi lùi lại phía sau, để được tự do tán tỉnh một cô gái quê. Cô này mặt đỏ bừng bừng,thỉnh thoảng lại bụm miệng cười rinh rích như người bị ai thọc lét. Những người khác thì vừa đi vừa trò chuyện về đủ mọi vấn đề. Trong khi đó người ta vẫn nghe tiếng đờn ‘‘vi ô lông’’ ò è vang trên cánh đồng. Ông thầy đờn lắc lư cái đầu lấy nhịp. Khi thấy mình đã bỏ đám cưới quá xa, ông dừng lại bên vệ đường cặp cây đàn vào nách và lấy cục nhựa thông, ra sát kỹ vào cây cọ đờn. Tiếng đờn làm bọn chim sẻ trong cánh đồng hoảng sợ bay vù đi.

Tiệc cưới được bày trong nhà chứa xe bò. Mười chiếc bàn dài kê sát vào nhau. Trên đó bày chừng năm con lợn sữa, hai mươi con gà quay, hai mươi đĩa vịt tiềm, năm nồi thịt bò hầm... Rượu uống thả cửa. Người ta ăn uống từ trưa mãi đến tận chiều vẫn chưa xong. Bác nào ngồi lâu mỏi lưng thì bỏ ra sân đi tản bộ vài vòng, đấu láo dăm ba câu, rồi lại trở vào ăn nữa.

Vào khoảng hai ba giờ trưa, nhiều ông khách vừa say, vừa mệt nằm gục ngay trên bàn, pho pho ngáy. Nhưng đến phút uống cà phê thì tất cả đều tỉnh như sáo. Người ta bắt đầu ca hát, bắt đầu vật nhau và biểu diễn những trò vặt. Tối đến, nhiều gia đình lục tục ra về. Những con ngựa ăn lúa mì no căng bụng không chịu vào càng xe, lồng- lộn sân, dây cương đứt lung tung, mấy ông khách quí, ông thì cười rỡn, ông thì cấu kỉnh văng tục om sòm. Và suốt đêmhôm ấy, trong ánh trăng sáng vằng vặc trên các con đường quanh miền có nhiều chiếc xe chạy long sòng sọc, nhẩy cả xuống ruộng, đâm cả vào các hàng cây. Bọn đàn ông say mèm phải nhường cương ngựa và quyền lái xe cho các bà vợ,

Những vị khách ở lại Bà Tô thức suốt đêm để uống rượu và đánh bạc trong nhà bếp. Bọn trẻ con ngủ lăn lóc như chó con dưới gầm bàn gậm ghế, xó tủ.

Cô dâu mới, tức là cô Ánh đã khẩn khoản xin ông Năm Hòa tránh cho cô khỏi phải chịu đựng những trò đùa dai của bà con. Nhưng vào khoảng nửa đêm, khi cô dâu, chú rể vừa vào phòng thì một anh thợ hàn em họ của cô dâu đã linh lỉnh đến ghé miệng vào lỗ khóa thổi nước phì phì vào phòng. May sao ông Năm vừa đi tới cản lại kịp. Ông giải thích cho anh thợ hàn biết rằng vì địa vị quan trọng của chú rể, người ta không có quyền được đùa rởn những trò cợt nhả bậy bạ như thế, Trong thâm tâm anh thợ lập tức anh cho là lão Năm lên mặt làm kiêu, khinh họ hàng. Và anh vội đến nhập bọn với năm bẩy anh khác - mấy anh này cũng bất mãn vì trong bữa lễ đã không may ăn phải nhiều miếng thịt dai nhách – để ngồi bí sị ra trong một xó mà rủa thầm cho gia chủ chóng được …sạt nghiệp.

Bà Quản Bành hờn mát bỏ ra về sớm hơn ai hết. Cả ngày cưới bà chẳng nói chẳng rằng lấy được một lời Bà phẩn uất vì thấy không có ai đếm xỉa gì đến bà. Người ta không thèm hỏi qua ý kiến của bà về bữa cỗ, về trang phục của cô dâu v..v..

Ông Quản Bành mặc kệ bà về trước, ông ở lại Bà Tô để ngồi uống rượu, hút sì gà suốt đêm, và dở nhiều trò lẩm cẩm khác.

Suốt ngày cưới, chú rể Bô cứ nghệt mặt ra. Ai nói đùa, nói riễu gì Bô cũng nhe răng ra cười khì khì chẳng biết trả lời ra sao cả. Qua đêm tân hôn đến sáng hôm sau, người ta thấy chú rể trẻ hẳn lại, chú cứ líu tíu bên cạnh cô dâu. Trái lại, cô dâu tỏ vẻ phớt tỉnh như không có chuyện gì xẩy ra cả.

Hai ngày sau hôm cưới, đôi vợ chồng mới đưa nhau về quận Ông Tố. Ông Năm Hòa lên xe đưa con gái ra đến tận đường cái quan. Tới đây, ông hôn Ánh lần cuối rồi bước xuống đường. Ông đứng đấy nhìn theo mãi cho tới khi chiếc xe ngựa chở con gái ông đi mất dạng trên con đường mòn, và ông thở dài. Rồi, ông nhớ lại ngày cưới vợ của ông trước kia, khi ông còn trẻ tuổi, nhớ lại ngày vợ ông có thai lần đầu tiên. Ông đã sung sướng biết bao nhiêu trong cái ngày ông đón vợ ông từ nhà bố mẹ vợ về nhà ông. Ông còn nhớ rõ hôm ấy, là một ngày vào mùa đông gần lễ Giáng Sinh, cánh đồng bát ngát phủ đầy tuyết trắng, ông cưỡi ngựa, vợ ông ngồi đằng sau, một tay ôm ngang eo ếch chồng, một tay cô dâu cầm cái giỏ đựng quần áo. Mỗi lần quay lại, ông lại thấy một khuôn mặt hồng hào, tươi tắn và một đôi mắt trong đang nhìn ông trìu mến. Chao ôi, những giây phút êm đềm ấy đã thành xưa cũ mất rồi. Nếu đứa con trai đầu lòng của ông còn sống, năm nay hắn đã ba mươi tuổi.

Ông Năm quay lại nhìn theo bóng xe, ông chỉ còn thấy một con đường quê vắng ngắt dưới bóng chiều ảm đạm. Ông bỗng thấy tâm hồn trống trải như một căn nhà bỏ hoang. Những kỷ niệm êm đẹp ngày xưa lộn xộn trong óc ông, chen lẫn với những ý tưởng đen tối ông muốn đi một vòng ra phía nhà thờ. Nhưng sợ rằng cảnh vật càng làm cho ông buồn thêm nên ông đi thẳng về nhà

Ông bà Bô về đến Quận Ông Tổ vào khoảng sáu giờ chiều. Thiên hạ gọi nhau ra

cửa để chờ xem mặt cô vợ mới của ông Đốc Bô.

Bà hầu gái già của ông Đốc Bô ra chào bà chủ mới. Trong khi chờ đợi bữa ăn chiều, ông Bô dẫn bà Bô đi coi khắp nhà.

Ánh theo chồng bước vào căn phòng ngủ trên lầu. Giữa phòng kê một chiếc giường gỗ gụ khá lớn trải nệm xanh và có mền xanh. Trên mặt chiếc tủ ngăn gần đấy, nàng thấy một bó hoa buộc lụa xanh, đầy bụi phủ được cắm trong một bình hoa bằng thủy tinh cạn khô cả nước: đó là bó hoa cưới của bà Bô cũ. Chồng nàng trông thấy vội cầm bó hoa đem lên gác xép. Ánh đến ngồi trong chiếc ghế bành kê bên cửa sổ, nghĩ đến bó hoa cưới của chính nàng đang nằm trong chiếc hòm da và mơ màng tưởng tượng đến số phận nó sẽ ra sao nếu mai đây lỡ nàng chết?

Trong những ngày đầu tiên, Ánh bận rộn lo sửa sang, sắp đặt lại cửa nhà. Nàng thay hết các rèm cửa, rèm màn, mua giấy mới dán lại khắp các phòng. Nàng cho sửa lại vườn hoa, cây cảnh và xây thêm một bồn nước nuôi cá vàng ở giữa vườn, dưới chân bức tượng ông thầy tu đứng đọc sách. Chồng nàng biết ý vợ thích đi chơi bằng xe ngựa, đã tìm mua được một chiếc xe cũ. Đem về sơn phết lại và thay hai cái đèn mới, chiếc xe trông cũng có vẻ quí phái lắm.