CHỈ LÀ NHỮNG CẢM GIÁC
Rõ ràng là chúng ta có thể bị chết theo rất nhiều cách khủng khiếp khác nhau. Hãy thử lập ra một danh sách. Hãy thử bắt đầu với những tiêu chuẩn, mức độ như những tai nạn tại nhà và những căn bệnh chết người. Sau đó, hãy chuyển sang những “hình thức” khác biệt hơn, chẳng hạn như bị xe buýt đâm, xe lửa bị trật bánh hay bị trúng đạn lạc của những kẻ nát rượu say mèm. Đây là cách nhìn theo khía cạnh tâm lý tiêu cực, nhưng chúng ta cũng có thể thực hiện việc lập danh sách theo một cách “dí dỏm” hơn. Chúng ta có thể bị đâm sầm vào một cái cây trong khi trượt tuyết, bị chết ngạt trong một buổi vui chơi tập thể chật ních người, hay bị ngã xuống một lỗ cống. Những mảnh vụn từ một chiếc máy bay đang bị rơi có thể giết chết chúng ta. Những cái vỏ chuối cũng vậy. Danh sách sẽ rất khác đi phụ thuộc vào sự tưởng tượng của tác giả và sức chịu đựng cảm giác tiêu cực. Nhưng tôi có thể chắc chắn rằng gần cuối của tất cả các bản danh sách này sẽ đều có mục: “Bị thiên thạch đâm phải.”
Tất cả mọi người đều biết rằng những tảng đá chết chóc có thể rơi xuống từ trên trời nhưng bên ngoài lĩnh vực không gian và khoa học, người ta vẫn sử dụng mối đe dọa bị chết vì thiên thạch như một kiểu nói phóng đại, có tính chất tu từ để bác bỏ những mối lo lắng về những nguy cơ có thật, bởi nguy cơ đó quá nhỏ, không đáng để lo lắng. Chính tôi cũng đã một hai lần sử dụng cách nói này. Tuy nhiên, có lẽ tôi sẽ không làm như vậy nữa, bởi, trong một dịp cuối năm 2004, tôi đã tham dự một cuộc hội thảo gồm những nhà thiên văn học và địa lý học hàng đầu thế giới thảo luận về những tác động của thiên thạch.
Địa điểm diễn ra hội thảo là Tenerife, một hòn đảo nằm trong quần đảo Canary của Tây Ban Nha ngoài khơi bờ biển Bắc Phi thuộc Đại Tây Dương. Dù cố ý hay không, thì đó cũng là một sự sắp xếp lý tưởng. Sau cùng, hội thảo không chỉ đơn giản nói về những tảng đá trong không gian. Nó còn đề cập tới nhận thức về một nguy cơ tiềm tàng thảm khốc nhưng lại rất khó có thể xảy ra. Và quần đảo Canary cũng là nơi người ta có thể nhắc đến hai mối nguy hiểm khác cũng tiềm tàng thảm khốc nhưng rất khó xảy ra.
Trước hết, đó là hoạt động của núi lửa. Cả quần đảo này đều được hình thành do hoạt động của núi lửa và Tenerife bị khống chế bởi “một người khổng lồ” có tên Teide, ngọn núi lửa lớn thứ ba trên thế giới. Teide vẫn đang ngủ yên, nó mới chỉ phun trào ba lần trong vòng 300 năm trở lại đây.
Chương cuối cùng đã nói tới một vết nứt ở La Palma. Một nhóm các nhà khoa học tin rằng nó sẽ khiến một phần lớn hòn đảo chìm xuống đáy Đại Tây Dương và vài giờ sau, những người dân ở bờ biển phía Đông của Bắc Mỹ và Nam Mỹ sẽ trở thành những vai phụ trong một bộ phim thảm họa lớn nhất từ trước đến nay. Các nhà khoa học khác không đồng tình với điều này. Họ cho rằng sẽ chỉ có một phần nhỏ của La Palma bị nhấn chìm và khi chìm xuống nó sẽ vỡ vụn ra, do đó những đợt sóng được tạo ra thậm chí sẽ chẳng đáng chú ý như những đoạn video tại nhà. Tuy nhiên, họ cũng nhất trí rằng khả năng xảy ra lở đất là có thể, và rằng trên cơ sở địa chất học thì điều này dường như sẽ sớm xảy ra, tức là sẽ khoảng 10 nghìn năm sau kể từ bây giờ hay kể từ sáng ngày mai.
Giờ thì ai đó có thể nghĩ rằng những người dân sống trên quần đảo Canary sẽ cảm thấy có điều gì đó bất an giống như bất cứ sáng nào thức dậy, họ cũng có thể phải gánh chịu một trận đại hồng thủy. Nhưng những người đó dường như đã lầm. Bao quanh các sườn núi Teide là những thị trấn rộng rãi, dễ chịu với những người dân hạnh phúc với những giấc ngủ ngon lành. Và tương tự như vậy, không hề có thông tin cho thấy hoang mang lan rộng trong 85.000 dân tại La Palma. Sự thật là quần đảo thanh bình và tươi đẹp Canary sẽ phải làm một điều gì đó trước sự bàng quan của cư dân ở đây khi đối mặt với một trận chiến sống còn. Quy luật Điển hình cũng hoạt động. Tuy nhiên, lần cuối cùng núi lửa Teide phun trào là năm 1909, và không ai nhìn thấy một mảng lớn của hòn đảo có người ở đã biến mất như thế nào.
Nhưng đó không phải là tất cả. Bọn khủng bố chưa bao giờ sử dụng vũ khí hạt nhân ở một thành phố lớn, nhưng chỉ suy nghĩ về khả năng đó thôi cũng khiến hầu hết chúng ta phải rùng mình, và các chính phủ trên toàn thế giới đang làm việc tích cực để những điều tồi tệ chưa xảy ra sẽ không bao giờ xảy ra.
Những nhà phân tích về các mối nguy hiểm gọi đó là những sự kiện có khả năng xảy ra nhỏ nhưng hậu quả vô cùng to lớn. Tại sao mọi người lại sợ những sự kiện này chứ không phải là những nguy cơ khác? Việc phân tích tác động của các thiên thạch, một sự kiện tiêu biểu cho nhóm sự kiện khả năng xảy ra nhỏ nhưng hậu quả vô cùng lớn, là một cách lý tưởng để tìm ra câu trả lời.
Trái đất liên tục phải gánh chịu những trận oanh tạc của các mảnh vụn từ vũ trụ. Hầu hết các mảnh vụn đó đều không nhỉnh hơn kích thước một hạt bụi. Nhưng bởi các hạt bụi đó xâm nhập bầu khí quyển trái đất với vận tốc lên tới 72km/s, chúng sẽ tập hợp lực vào khối lượng của mình. Thậm chí khi hạt bụi nhỏ nhất biến mất trong một tia sáng lóe lên, chúng ta cũng có thể gọi là những ngôi sao băng.
Nguy cơ từ những quả pháo sáng vũ trụ này đối với con người là bằng không. Nhưng những mảnh vụn trút xuống trái đất có kích cỡ rất khác nhau. Có những mảnh chỉ bằng hạt gạo, rồi bằng viên đá cuội, hay những viên đá bay. Tất cả chúng bay vào bầu khí quyển với vận tốc kinh hoàng do đó bất cứ sự to lên về kích cỡ các mảnh vụn, dù là khiêm tốn nhất cũng đồng nghĩa với sự gia tăng khủng khiếp về năng lượng giải phóng khi nó bị đốt cháy.
Một viên đá có đường kính 1/3m sẽ phát nổ với lực nổ bằng 2 tấn dynamite khi nó trúng vào bầu khí quyển. Mỗi năm, trái đất phải chịu khoảng 1000 vụ nổ với kích cỡ như thế này. Với viên đá có đường kính 1m, kích cỡ đá thường được dùng để xây dựng vườn hoa, công viên khi nổ sẽ tạo ra lực 100 tấn dynamite. Những vụ nổ như thế này xảy ra trung bình 40 lần mỗi năm.
Với kích thước đường kính 3m, một viên đá sẽ va chạm với một lực 2.000 tấn dynamite. Sức nổ đó bằng 2/3 lực nổ đã hủy diệt thành phố Halifax vào năm 1917 khi một con tàu chở đầy đạn phát nổ tại cảng. Những đòn trời giáng này đánh vào trái đất hai lần mỗi năm.
Và cứ như vậy cho đến khi kích thước các viên đá tăng lên, tới 30m đường kính, khi đó người ta sẽ gọi đó là một tảng thiên thạch. Một tảng thiên thạch ở kích cỡ này khi phát nổ trong bầu khí quyển sẽ giống như 2 triệu tấn dynamite, đủ để san bằng mọi thứ trên mặt đất trong phạm vi 10 cây số. Khi đường kính lên tới 100m, những thiên thạch sẽ tích lũy lực nổ tương đương với 80 triệu tấn dynamite. Loài người chúng ta đã từng nếm trải một vụ nổ với sức công phá loại này. Ngày 30-6-1908, một tảng thiên thạch ước chừng có đường kính 60m đã phát nổ ở độ cao 8km phía trên Tunguska, một vùng xa xôi tại Siberia, san phẳng khoảng 2000km2 rừng.
Những tảng thiên thạch lớn hơn sẽ gây ra những thảm họa thực sự. Ở kích thước 1km đường kính, một thiên thạch có thể xới tung và tạo ra một cái hố rộng 15km, đốt cháy một quả cầu lửa lớn gấp 25 lần mặt trời, làm rung chuyển vùng xung quanh với một trận động đất 7,8 độ ricte, và có thể bốc lên một lượng bụi vào khí quyển đủ để tạo thành một “mùa đông hạt nhân”. Nền văn minh của chúng ta có thể, hoặc không thể sống sót sau một vụ va chạm như vậy, nhưng ít nhất thì các loài sinh vật vẫn còn sống sót. Chuyện may mắn này sẽ không thể có với một thiên thạch lớn hơn. Một thiên thạch đường kính 10km sẽ khiến loài người và hầu hết các sinh vật sống trên mặt đất được ghi vào danh sách các loài “đã từng tồn tại”. Đây là điều đã xảy ra đối với loài khủng long.
May thay, không có nhiều những thiên thạch khổng lồ như vậy lượn lờ trong không gian. Trong một tài liệu chuẩn bị cho Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, nhà thiên văn học Clark Chapman tính toán rằng nguy cơ loài người phải chứng kiến ngày tận thế với vụ va chạm của một thiên thạch khổng lồ trong thế kỉ tới là một phần một triệu. Tuy nhiên, những thiên thạch càng nhỏ thì chúng ta càng thường xuyên phải đương đầu với nó, có nghĩa là thiên thạch càng nhỏ thì khả năng nó va trúng trái đất càng tăng. Nguy cơ trái đất bị tấn công bởi một thiên thạch 300m là 1/50.000 một năm. Tỉ lệ này trong một thế kỉ sẽ trở thành 1/500. Nếu một thiên thạch như vậy lao xuống đại dương, nó sẽ tạo nên một cơn sóng thần kinh hoàng. Còn nếu “hạ cánh” xuống mặt đất, nó sẽ hủy diệt một vùng bằng với kích thước của một quốc gia nhỏ. Với một thiên thạch đường kính 100m, tỉ lệ sẽ là 1/10.000 trong một năm và 1/100 trong 100 năm. Thiên thạch đường kính 30m có xác suất nguy cơ là 1/250 một năm và 1/2,5 trong một thế kỉ.
Vạch ra một cách ứng phó hợp lý đối với những nguy cơ xác suất xảy ra thấp nhưng hậu quả cực cao kiểu như vậy không phải là một việc làm dễ dàng. Chúng ta thường lờ đi những mối nguy hiểm có xác suất 1/1.000.000 bởi nguy cơ đó là quá nhỏ, trong khi cuộc sống của chúng ta lại quá ngắn. Thậm chí những nguy cơ 1/10.000 hay 1/1.000 cũng thường bị gạt đi. Do đó, khi nhìn vào khả năng xảy ra một vụ tấn công của thiên thạch, mối nguy hiểm dường như là rất thấp. Nhưng nó không phải là con số không. Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu như nó ập đến? Không phải là có một người sẽ chết, cũng chẳng phải 1.000, hay 10.000 người. Đó có thể là hàng triệu, thậm chí, hàng tỉ người. Vậy thì mức độ mất mát như thế nào mới đáng để chúng ta bỏ thời gian tìm cách đối phó với một mối nguy hiểm gần như chắc chắn sẽ không xảy ra trong vòng đời của chúng ta, hay có thể là con chúng ta, và cả cháu chúng ta?
Nguyên nhân đã đưa ra một câu trả lời lạnh lùng đặc trưng: nó phụ thuộc vào cái giá phải trả. Nếu chỉ phải tốn kém không nhiều để có thể tự bảo vệ chống lại một nguy cơ có xác suất xảy ra rất nhỏ nhưng hậu quả vô cùng lớn, thì khoản tốn kém đó là chấp nhận được. Nhưng nếu cái giá bỏ ra là quá nhiều, chúng ta sẽ có thể cho rằng tốt hơn là chúng ta nên bỏ tiền vào những ưu tiên khác, ví dụ như hạn chế những mối nguy cơ khác, và tận dụng các cơ hội của chúng ta.
Nhìn chung, đó là thái độ của các chính phủ trong việc giải quyết, đối phó với những mối nguy ít khả năng xảy ra nhưng hậu quả vô cùng lớn. Khả năng xảy ra rủi ro, những hậu quả của nó, và chi phí, tất cả đều được lên bàn và cân nhắc trong mối tương quan lẫn nhau. Đó sẽ là những vấn đề gây nhiều tranh cãi. Các chuyên gia sẽ không ngừng nhấn mạnh vai trò, tác động của ba yếu tố này và chúng ta phải tính toán những điều đó như thế nào. Nhưng sẽ không ai nghi ngờ rằng cả ba yếu tố này đều cần phải được xem xét nếu chúng ta muốn có một cách hợp lý để giải quyết những mối nguy hiểm này.
Liên quan tới những thiên thạch, chi phí để đối phó cũng tỉ lệ thuận với các kích cỡ khác nhau và tác động hủy diệt của chúng. Bước đầu tiên để giảm nhẹ nguy cơ là phát hiện ra thiên thạch và tính toán xem liệu nó có va chạm với trái đất hay không. Nếu nguy cơ là đáng báo động, chúng ta sẽ thảo luận xem liệu nó có đáng để đặt ra một kế hoạch xem liệu chỉ cần đánh cùi chỏ hay phải sử dụng vũ khí hạt nhân để vô hiệu hóa mối nguy hiểm này. Nhưng để phát hiện ra các thiên thạch là điều không hề đơn giản bởi chúng không phát ra mà chỉ phản chiếu ánh sáng. Tảng đá càng nhỏ thì việc phát hiện ra chúng càng khó và càng đòi hỏi nhiều chi phí. Ngược lại, thiên thạch càng lớn thì càng dễ phát hiện, chi phí cũng rẻ hơn.
Điều này dẫn tới hai kết luận hiển nhiên: Trước hết, các thiên thạch ở đầu nhỏ của chuỗi các kích cỡ khác nhau có thể bị bỏ qua. Thứ hai, chắc chắn chúng ta nên đầu tư để phát hiện ra những thiên thạch ở đầu ngược lại của chuỗi kích cỡ. Và trong thực tế, điều đó đã được thực hiện. Bắt đầu từ đầu những năm 1990, các nhà thiên văn học đã thành lập một tổ chức quốc tế có tên gọi Spaceguard (Tổ chức Canh gác Không gian), tập trung những nỗ lực tập thể nhằm phát hiện và phân loại danh sách các thiên thạch. Phần nhiều công việc này là những hoạt động tình nguyện, tuy nhiên các trường đại học và các viện nghiên cứu chỉ có những đóng góp khiêm tốn, chủ yếu là dành thời gian quan sát kính thiên văn. Cuối những năm 1990, NASA đã cung cấp cho Spaceguard khoản ngân sách 4 triệu USD/năm từ khoản ngân sách hàng năm 10 tỉ USD của tổ chức này. Kết quả là, các nhà thiên văn học tin rằng tới năm 2008, Spaceguard sẽ phát hiện được 90% số thiên thạch có đường kính lớn hơn 1km. Kết quả này đã tiến rất gần tới việc loại trừ nguy cơ từ tất cả các thiên thạch có kích cỡ đủ lớn để quét sạch tất cả các động vật có vú trên trái đất, tuy nhiên, với những thiên thạch nhỏ hơn thì những kết quả này lại chẳng có ý nghĩa gì cả. Chẳng hạn như những thiên thạch có khả năng phá huỷ cả đất nước Ấn Độ. Có phải là chúng ta không nên chi thêm tiền để phát hiện ra chúng? Các nhà thiên văn học nghĩ vậy. Do đó họ đã đề nghị NASA và Cơ quan Vũ trụ châu Âu (European Space Agency) cung cấp khoản ngân sách từ 30 tới 40 triệu USD một năm trong vòng 10 năm. Khoản kinh phí ấy sẽ cho phép họ phát hiện và ghi lại 90% các thiên thạch 140m trở lên. Vẫn còn một nguy cơ có xác suất nhỏ để một thiên thạch lớn có thể vượt qua lưới kiểm soát này nhưng như vậy cũng là đủ để mang lại cho hành tinh chúng ta một sự bảo đảm khá chắc chắn chống lại những vụ va chạm từ vũ trụ, một sự bảo đảm không hề tồi khi phải bỏ ra một khoản phí tổn trong một lần là 300 tới 400 triệu USD. Chi phí này rẻ hơn đáng kể so với lượng ngân sách ban đầu để xây dựng một Đại sứ quán mới của Mỹ tại Baghdad và cũng không đắt hơn nhiều lắm so với khoản tiền 195 triệu USD mà các quan chức ngoại giao nước ngoài chưa thanh toán tiền vé đỗ xe.
Nhưng bất chấp những nỗ lực trong suốt nhiều năm, các nhà thiên văn học vẫn không thể gom đủ số tiền để hoàn thành công việc của mình. Clark Chapman, một trong những nhà khoa học đã nản chí cũng có mặt tại hội nghị ở Tenerife. Đã gần 25 năm kể từ khi mối nguy hiểm này được chính thức thừa nhận, khoa học không còn nghi ngờ, nhận thức của công chúng đã tăng lên, các chính phủ đã được cảnh báo. Tuy nhiên những tiến bộ vẫn còn rất khiêm tốn. Và Clark Chapman muốn biết tại sao lại như vậy.
Để giúp trả lời câu hỏi này, những nhà tổ chức hội thảo đã mời Paul Slovic tới Tenerife. Bắt đầu sự nghiệp từ đầu những năm 1960, Slovic là một trong những cánh chim đầu đàn trong lĩnh vực nghiên cứu về nhận thức các mối nguy hiểm. Lĩnh vực nghiên cứu này thực sự được bắt đầu vào những năm 1970 như một kết quả của những cuộc xung đột ngày càng tăng giữa những ý kiến chuyên môn của các chuyên gia và ý kiến của những người không có chuyên môn. Trong một số trường hợp, các chuyên gia khăng khăng rằng các mối nguy hiểm từ thuốc lá, dây đai an toàn, lái xe khi say rượu… thực ra có tác hại lớn hơn so với nhận thức của công chúng về nó. Nhưng trong nhiều trường hợp hơn, công chúng lại tỏ ra quá lo sợ bởi những thứ mà hầu hết các chuyên gia đều khẳng định rằng nó không nguy hiểm tới mức như vậy, năng lượng hạt nhân là một ví dụ tiêu biểu. Slovic, Giáo sư tâm lý học tại trường Đại học Oregon chính là người đồng sáng lập ra Decision Research, một tổ chức nghiên cứu tư nhân được thành lập để tìm hiểu xem tại sao người ta lại có những cách phản ứng với các mối nguy hiểm như trong thực tế.
Trong các nghiên cứu được bắt đầu từ cuối những năm 1970, Slovic và các đồng nghiệp của mình đã yêu cầu những người bình thường thử dự đoán tỉ lệ nguy cơ rủi ro của các hoạt động và công nghệ cụ thể nào đó, và thử xếp hạng chúng theo mức độ nguy hiểm mà họ nhận thức đồng thời cung cấp thêm các chi tiết về cảm giác của họ. Liệu bạn có thấy hoạt động này, hay công nghệ này là có lợi ích? Bạn có hào hứng tình nguyện tham gia? Nó có nguy hiểm cho các thế hệ sau? Hiểu biết về nó còn quá ít?... Đồng thời, họ cũng phỏng vấn các chuyên gia, những nhà phân tích về các mối nguy hiểm theo quan điểm của họ.
Không có gì lạ khi các chuyên gia và những người bình thường bất đồng với nhau về mức độ nghiêm trọng của rất nhiều vấn đề. Các chuyên gia có xu hướng suy nghĩ, điều này chỉ đơn giản phản ánh sự thật rằng họ biết họ đang nói về cái gì, và những người bình thường thì không biết điều đó. Nhưng khi Slovic đưa ra những tài liệu của mình để phân tích bằng số liệu thì một điều rõ ràng rằng còn rất nhiều điều cần phải giải thích hơn là chỉ đơn thuần như vậy.
Các chuyên gia dựa trên định nghĩa kinh điển về nguy hiểm thường được những người làm nghề thiết kế sử dụng cũng như những người phải lo lắng về những điều có thể sai sót: Nguy cơ tương ứng với khả năng nhân lên của hậu quả. “Hậu quả” trong trường hợp này được hiểu là số người thiệt mạng. Sẽ không ngạc nhiên khi ước đoán của các chuyên gia về những rủi ro bị chi phối mạnh mẽ bởi một hoạt động hay công nghệ phù hợp chặt chẽ với xếp hạng của họ về tính nguy cơ của từng vấn đề.
Khi những người bình thường đánh giá về tính nguy hiểm của các mối nguy cơ, chúng ta thu được những kết quả không đồng nhất. Nói chung, họ biết những vấn đề nào có thể lấy đi nhiều nhất hay ít nhất số mạng sống của con người. Tuy nhiên, ngoài điều đó ra, những nhận định của họ rất khác nhau, từ mức chưa chính xác tới mức sai nghiêm trọng. Không phải họ không có những bằng chứng cho thấy linh cảm của họ có thể không hoàn toàn chính xác. Khi Slovic yêu cầu mọi người đánh giá tỉ lệ rằng có bao nhiêu phần trăm khả năng một câu trả lời nào đó là sai, họ thường tỏ ra coi thường những nguy cơ rất có khả năng xảy ra. Một phần tư trong số họ thực sự đặt tỉ lệ xảy ra sai sót trong câu trả lời là 1/100 mặc dù thực ra, cứ một câu trong tám câu trả lời được tự tin là sẽ đúng, thì lại sai. Đó là một bằng chứng quan trọng nữa cho thấy tại sao chúng ta nên cảnh giác với trực giác. Nhưng đồng thời cũng có những ví dụ khác cho thấy không cần thiết phải như vậy.
Tuy vậy, hầu hết những kết quả rõ ràng đều chẳng liên quan gì tới xếp hạng về tính nguy hiểm. Đôi khi, dự đoán của những người bình thường về số người thiệt mạng của mỗi mục nguy cơ phù hợp chặt chẽ với mức độ nguy hiểm mà họ cảm nhận được về mục nguy cơ đó, điều này cũng giống với các dự đoán của những chuyên gia. Tuy nhiên, đôi khi, chỉ có rất ít, hoặc không có mối liên hệ nào giữa “nguy cơ” và “những tai họa hàng năm”. Một ví dụ sâu sắc nhất là sức mạnh hạt nhân. Những người bình thường, cũng giống các chuyên gia khi họ phán đoán chính xác rằng hạt nhân sẽ gây ra ít rủi ro nhất trong số các mục nguy cơ được đưa ra để thực hiện điều tra. Nhưng các chuyên gia xếp năng lực hạt nhân đứng thứ 20 trong danh sách 30 mục nguy cơ nguy hiểm nhất trong khi hầu hết những người bình thường cho rằng nguy cơ đó đáng được đứng đầu tiên. Những nghiên cứu sau này có 90 mục nhưng năng lực hạt nhân lại một lần nữa được coi là số một. Rõ ràng là người ta đang làm một điều gì đó chứ không phải là nhân lên khả năng và đếm số người thiệt mạng để tìm ra được một đánh giá về nguy hiểm.
Những phân tích của Slovic đã chỉ ra rằng nếu một hoạt động hay một công nghệ đã được xem là có một số đặc trưng nào đó, người ta sẽ tăng lên ước đoán của mình về tính nguy hiểm bất chấp liệu lĩnh vực đó có được tin rằng sẽ giết chết rất nhiều người hay không. Còn nếu lĩnh vực đó có những đặc trưng khác, người ta sẽ hạ thấp những dự đoán của mình. Do đó có thể nói việc năng lượng hạt nhân không có một chỉ số về số người thiệt mạng cao chẳng có tác động gì. Nó có tất cả các đặc trưng để có thể nhấn nút báo nhận thức nguy hiểm của chúng ta, và đặt nó lên đầu danh sách về các mối nguy hiểm:
Thảm họa tiềm tàng: Nếu những mối nguy hiểm có thể xảy ra với một số lượng lớn chỉ trong một sự kiện đơn lẻ, thay vì số lượng nhỏ phân tán theo thời gian, khi ấy nhận thức của chúng ta về mối nguy hiểm sẽ tăng.
Sự hiểu biết: Những nguy cơ lạ lùng, chưa từng được biết tới sẽ khiến chúng ta lo lắng nhiều hơn.
Nhận thức: Nếu chúng ta tin rằng cơ chế hoạt động hay diễn biến của một hoạt động hoặc công nghệ nào đó chưa được nhận thức một cách đầy đủ, trực giác của chúng ta về mối nguy hiểm sẽ tăng lên.
Kiểm soát cá nhân: Khi chúng ta có cảm giác rằng những mối nguy hiểm tiềm tàng đó có thể gây hại vượt xa sự kiểm soát của chúng ta - giống như một hành khách trên một chuyến bay, chúng ta sẽ lo lắng nhiều hơn so với khi chúng ta có thể cảm nhận được trong sự kiểm soát - như khi lái xe ô tô.
Tính tự giác: Nếu bạn không tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, cảm giác đó sẽ thêm phần đáng sợ.
Những đứa trẻ: Sẽ có nhiều nguy cơ hơn nếu có sự có mặt của những đứa trẻ.
Những thế hệ tương lai: Nếu những mối nguy hiểm đe dọa các thế hệ tương lai, chúng ta sẽ càng thêm lo lắng.
Xác định nạn nhân: Những nạn nhân có thể nhận dạng được, hơn là những số liệu thống kê trừu tượng làm cảm giác về mối nguy hiểm tăng thêm.
Sự kinh hãi: Nếu hiệu ứng của mối nguy cơ tạo ra sự kinh hãi, nhận thức về nguy hiểm cũng sẽ được đẩy cao.
Sự tin tưởng: Nếu những trực giác tham gia vào nhận thức là không đáng tin cậy, chúng ta sẽ có cảm giác bất an hơn.
Sự tham gia của truyền thông: Càng có tác động của giới truyền thông, chúng ta càng lo lắng về mối nguy hiểm đó.
Tiền lệ tai nạn: Những sự kiện tồi tệ trong quá khứ sẽ đẩy cao mức độ cảm nhận nguy hiểm.
Tính cân bằng: Nếu lợi ích là đối với một số người, còn tai họa lại dành cho những người khác, chúng ta sẽ xếp những mối nguy hiểm như vậy có thứ hạng cao hơn.
Những lợi ích: Nếu những lợi ích của hoạt động hay công nghệ nào đó là không rõ ràng, nó sẽ được cho là có nhiều nguy cơ hơn.
Tính thuận nghịch: Nếu những tác động của một điều gì đó khi đã là tiêu cực không thể đảo ngược thì nguy cơ sẽ tăng lên.
Nguy hiểm cá nhân: Nếu nó làm hại cho tôi, nó sẽ nguy hiểm hơn.
Nguồn gốc: Những mối hiểm nguy do con người gây ra sẽ có tính đe dọa lớn hơn những hiểm nguy do thiên nhiên mang lại.
Thời gian: Những hiểm nguy càng cận kề càng đáng lo sợ, ngược lại, những đe dọa trong tương lai có xu hướng bị xem thường hơn.
Rất nhiều mục trong danh sách của Slovic giống như những nhận thức phổ biến. Tất nhiên, một điều gì đó có thể gây nguy hại cho trẻ em sẽ nhấn nút cảnh báo của chúng ta. Tất nhiên, một điều gì đó chỉ gây nguy hại cho những người đã lựa chọn dính dáng vào đó sẽ không khiến chúng ta phải cảnh giác. Và một người không cần thiết phải từng nghe nói về Quy luật Điển hình mới có thể biết được rằng một mối nguy cơ thu hút được nhiều sự chú ý của giới truyền thông sẽ khiến chúng ta lo lắng nhiều hơn những mối nguy cơ âm thầm.
Nhưng với các nhà tâm lý học, có một mục trong danh sách: sự hiểu biết về nguy cơ là điều có thể đoán trước được, và đặc biệt quan trọng. Trong mọi thời khắc, chúng ta luôn luôn bị tấn công bởi dữ liệu đầu vào là những cảm giác. Một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất của bộ não là nhanh chóng phân loại những dữ liệu đầu vào đó thành hai dạng: những vật liệu thông tin quan trọng cần phải có được sự chú ý của nhận thức có ý thức, và tất cả những thứ khác còn lại. Vậy thì phẩm chất nào mới được gọi là quan trọng? Trong hầu hết trường hợp, đó là một cái gì đó mới. Mới lạ, chưa từng được biết tới - sự ngạc nhiên - điều này sẽ đánh động sự chú ý của bạn hơn bất cứ điều gì khác. Khi lái xe trên cùng một con đường mà bạn đã lái xe đi làm mỗi ngày trong suốt 12 năm qua và bạn sẽ hầu như rất ít sử dụng nhận thức có ý thức, và có lẽ bạn sẽ không thể nhớ được rằng bạn đã nhìn thấy cái gì khi lùi xe vào chỗ gửi. Điều đó sẽ xảy ra nếu như việc lái xe luôn luôn là như vậy. Nhưng nếu, trên đường đến nơi làm việc, bạn tình cờ nhìn thấy một người đàn ông trần như nhộng, bụng phệ đang tập thể dục nhịp điệu ở bãi cỏ trước nhà, nhận thức có ý thức của bạn sẽ được khuấy động, đánh thức khỏi giấc ngủ của nó và bạn sẽ tới văn phòng với một chút kí ức đặc sắc trong đầu.
Đây là một cơ chế tâm lý, người ta có thể gọi một cách nôm na là sự huấn luyện. Đó là quá trình gây ra một tác nhân kích thích mà chúng ta trải nghiệm lặp đi lặp lại, quá trình trải nghiệm ấy không có những hệ quả tích cực cũng chẳng có hậu quả tiêu cực để rồi nó mờ dần khỏi sự chú ý của chúng ta. Bất kì ai xức nước hoa cũng đều trải qua sự huấn luyện này. Khi bạn mua một loại hương mới và sử dụng mùi hương này, bạn sẽ cảm nhận được mùi của nó trong suốt cả ngày. Ngày tiếp theo cũng như vậy. Nhưng nếu bạn vẫn xức loại nước hoa này đều đặn, liên tục, dần dần bạn sẽ càng ngày càng ít để ý tới mùi hương của nó. Cuối cùng, có thể bạn sẽ chỉ ngửi thấy mùi của nó lúc xịt lên người, và sau đó bạn rất chú ý tới mùi hương quen thuộc này. Nếu bạn đã từng thắc mắc rằng làm thế nào mà anh chàng ở phòng làm việc bên cạnh lại có thể chịu được cái mùi nước hoa sực nức của anh ta suốt cả ngày, thì khi hiểu ra được điều này, thắc mắc của bạn đã được giải đáp.
Sự huấn luyện đặc biệt quan trọng khi chúng ta đương đầu với nguy hiểm bởi các nguy cơ có ở khắp mọi nơi. Thậm chí cả khi tắm dưới vòi hoa sen vào buổi sáng bạn cũng có thể bị trượt ngã và gãy cổ. Khi ăn một quả trứng chần qua nước sôi, rất có thể bạn sẽ bị ngộ độc. Lái xe đi làm, bạn có thể bị đâm, bị đè nát hoặc bị cháy như một ngọn đuốc sống. Đi bộ đi làm, các tia gây ung thư phát ra từ mặt trời sẽ chiếu xuống bạn, hay xe buýt có thể cán phải bạn, hoặc bạn đột nhiên bị đau tim hay bị... thiên thạch rơi trúng đầu. Tất nhiên, nguy cơ để bất cứ điều gì trong những thứ kinh khủng trên xảy ra là rất nhỏ, dĩ nhiên là ngoại trừ việc bị nhiễm bức xạ từ mặt trời. Và sẽ thật là phí chất xám để lúc nào cũng phải nghĩ về chúng. Chúng ta cần bấm một “nút tắt”. Và “nút tắt” đó chính là sự huấn luyện.
Để thực hiện thí nghiệm quan sát nổi tiếng của mình về những con tinh tinh, chuyên gia nghiên cứu động vật linh trưởng Jane Goodal đã phải ngồi rất yên lặng giữa chúng và lặng lẽ quan sát chúng đi lo những công việc hàng ngày, hết giờ này qua giờ khác. Jane có thể làm như vậy chủ yếu là vì những con tinh tinh đã phớt lờ sự có mặt của cô. Để bọn tinh tinh có thể có thái độ như thế, Goodal đã phải liên tục xuất hiện rồi lại ngồi xuống, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, cho tới khi hệ thống cảnh báo và tính tò mò của những con tinh tinh đối với sự xuất hiện của cô mờ dần đi, và chúng không còn chú ý tới cô nữa. Chúng ta cũng có thể quan sát thấy một quá trình như vậy đối với các loài khác. Khi tôi viết những dòng này, con sóc đen trên cửa sổ vẫn vô tư nhai mấy đồ ăn dành cho chim mà chẳng hề thèm để ý tới “một con động vật” to đùng đang ngồi trên cái ghế chỉ cách chỗ nó đúng 1m. Những con chim chia sẻ mấy hạt thức ăn cho con sóc này cũng có thái độ thờ ơ như vậy khi tôi đang ở sân sau nhà mình trong khi để có thể nhìn thấy chúng trong rừng, có lẽ tôi phải cầm ống nhòm. Đối với con người, chỉ cần đơn giản nhớ lại bạn đã ghì chặt lấy vô-lăng như thế nào khi lần đầu tiên lái xe, và sau đó nghĩ về lần cuối cùng sự buồn tẻ khi ngồi trước vô-lăng đã khiến bạn gần như ngủ gật. Nếu bạn đã từng được hỏi về cảm giác nguy hiểm như thế nào khi lần đầu tiên lái xe, câu trả lời của bạn sẽ khác đi ít nhiều bởi tác động của sự huấn luyện này.
Nói chung, sự huấn luyện làm việc khá thông minh. Vấn đề đối với nó, cũng như với tất cả những gì thuộc về vô thức, nó không thể cân nhắc tới khoa học và những con số. Nếu bạn đã từng đốt thuốc liên tục mỗi giờ, ngày nào cũng vậy, trong nhiều năm mà không phải chịu tác hại nào, điếu thuốc trong tay bạn sẽ không còn có cảm giác đe dọa nữa. Kể cả khi ý thức của bạn hiểu được những lời cảnh báo của bác sĩ thì nó cũng không thể kiểm soát được những cảm giác của bạn. Quá trình huấn luyện tương tự cũng có thể giải thích tại sao một ai đó có thể bị thuyết phục rằng việc lái xe khi sau rượu chẳng mấy nguy hiểm, hoặc không thắt dây an toàn, hay đi xe máy mà không có mũ bảo hiểm. Và nếu bạn sống thanh bình bao năm nay trong một thị trấn dễ chịu ở Tây Ban Nha, bạn sẽ chẳng thể suy nghĩ, lo lắng nhiều tới sự thật rằng thị trấn của bạn được xây dựng trên những sườn ngọn núi lửa lớn thứ ba trên thế giới vẫn đang âm thầm hoạt động.
Với tất cả tính hợp lý rõ ràng, tuy vậy, giá trị của danh sách các nhân tố nguy hiểm của Slovic vẫn có những hạn chế. Vấn đề cũng giống như chính những gì đã ám ảnh các nhóm trọng tâm. Người ta biết rằng họ thích gì, họ sợ gì… Nhưng cái gì là nguồn của những cảm giác, đánh giá đó? Theo một cách đặc trưng, đó chính là vô thức - Cái Bụng. Đánh giá có thể hoàn toàn tới từ Cái Bụng, hoặc nó có thể đã được điều chỉnh bởi ý thức - Cái Đầu. Nhưng trong trường hợp khác, câu trả lời cho câu hỏi tại sao người ta lại cảm thấy họ đang nói dối, ít nhất là một phần bên trong Cái Bụng. Cái Bụng là một chiếc hộp đen, Cái Đầu không thể săm soi vào trong. Và khi một nhà nghiên cứu hỏi một ai đó nói cho ông ta biết tại sao cô lại cảm thấy như những gì cô đã cảm nhận về một mối nguy cơ nào đó, thì không phải cô đang nói chuyện với Cái Bụng mà đó là Cái Đầu.
Bây giờ, nếu Cái Đầu chỉ đơn giản trả lời câu hỏi của nhà nghiên cứu bằng một câu ngắn gọn: “Tôi không biết” thì đó là một chuyện. Nhưng Cái Đầu lại thích hợp lý hóa theo kiểu bắt buộc. Nếu nó không có câu trả lời thì nó sẽ làm ra một câu trả lời.
Có rất nhiều dẫn chứng về sự hợp lý hóa này nhưng ví dụ đáng nhớ nhất, và chắc chắn cũng là ví dụ kì quái nhất là một chuỗi những thí nghiệm đối với các bệnh nhân bị chứng thần kinh phân liệt do nhà nghiên cứu thần kinh Michael Gazzaniga thực hiện. Thông thường, bán cầu não trái và bán cầu não phải được kết nối với nhau và chúng giao tiếp theo cả hai chiều nhưng có một liệu pháp điều trị bệnh động kinh là tách rời mối liên lạc này. Những bệnh nhân thần kinh phân liệt vẫn hoạt động tốt tới mức đáng ngạc nhiên nhưng các nhà khoa học đã nhận ra rằng đó là bởi hai bán cầu não quản lý những loại thông tin khác nhau, mỗi bên bán cầu não có thể tiếp nhận, nhận thức những điều mà bên bán cầu còn lại không thể nhận biết. Chúng ta có thể dần kết luận về điều này thông qua các thí nghiệm bằng cách chỉ sử dụng một mắt để thực hiện theo một văn bản viết hướng dẫn. Trong một phiên bản của nghiên cứu này, Gazzaniga đã sử dụng cách này để hướng dẫn bán cầu phải của một bệnh nhân bị thần kinh phân liệt thực hiện hành động đứng dậy và bước đi. Người đó đã đứng dậy và bước đi được thật. Sau đó Gazzaniga dùng lời nói hỏi người đó là tại sao anh ta lại bước đi. Bán cầu não trái chịu trách nhiệm về những câu hỏi về “nguyên nhân” kiểu như vậy và mặc dù nó không hề nhận thức được câu trả lời thực sự là gì, thì người đàn ông vẫn lập tức trả lời rằng ông ta đứng lên để đi tìm một chai soda. Những thay đổi trong cách thực hiện thí nghiệm này cũng vẫn luôn đem lại cũng một kết quả: Bán cầu não trái rất nhanh chóng và tài tình bịa ra những lời giải thích chứ không chịu thừa nhận rằng nó chẳng hề nhận biết được điều gì đang xảy ra. Và người ta tin vào từng chữ trong một câu trả lời như vậy.
Khi một người phụ nữ nói cho một nhà nghiên cứu biết cảm giác của bà về mức độ nguy hiểm của sức mạnh hạt nhân, những gì được nói ra có thể là một sự phản ánh đáng tin cậy về cảm giác của người đó. Nhưng khi các nhà nghiên cứu hỏi người phụ nữ này tại sao bà lại có cảm giác như vậy, câu trả lời của bà có lẽ sẽ có phần không chính xác, hay thậm chí là sai hoàn toàn. Đó không phải là sự lừa lọc. Ở một mức độ nào đó, câu trả lời đó rất giống với một lời bịa đặt - một sự hợp lý hóa cố tình, có ý thức của một đánh giá vô thức. Do đó, rất có thể những gì thực sự tác động tới những cảm giác của con người về năng lực hạt nhân chính là những nét đặc điểm được nói tới trong danh sách liệt kê của Slovic. Hoặc có thể câu trả lời đó chỉ là do Cái Đầu đã hợp lý hóa đánh giá của Cái Bụng. Cũng có thể cả hai khả năng đều có phần tác động của mình. Sự thật là chúng ta không biết… đâu là sự thật.
Danh sách của Slovic đã và vẫn đang rất có ảnh hưởng trong những mối quan tâm ngày càng tăng đối với việc nhận thức các mối nguy hiểm bởi nó đã cung cấp một danh sách liệt kê để đối chiếu rất hữu ích cho phép các nhà phân tích có thể nhanh chóng và dễ dàng dựng lên một “bản lý lịch trích ngang” cho bất cứ mối nguy hiểm nào. Đó là do con người? Đó là sự vô tình? Sự đơn giản, dễ hiểu của nó cũng tạo nên sức lôi cuốn đối với cả giới truyền thông. Các bài báo và tạp chí về những mối nguy cơ vẫn trích dẫn lại các mục trong danh sách này như thể chúng giải thích tất cả mọi điều chúng ta cần biết về lý do tại sao con người lại phải ứng với một số mối nguy hiểm, còn với những mối nguy hiểm khác thì lại không. Nhưng chính bản thân Slovic lại thừa nhận rằng bản danh sách của mình có những hạn chế: “Đó là giữa những năm 1970 khi đó chúng tôi đang thực hiện những nghiên cứu đầu tiên, chúng tôi đã không có được sự đánh giá đúng về hệ thống tư duy vô thức của con người. Những cách tiếp cận của chúng tôi đã khiến chúng tôi cho rằng con người phân tích các mối nguy hiểm một cách rất chín chắn và thận trọng.”
Sau cùng, Slovic và các đồng nghiệp của ông đã tìm ra cách thoát ra khỏi hạn chế này, đó là hai manh mối đã bị che lấp trong những dữ liệu của họ. Manh mối đầu tiền nằm trong từ sự kinh hãi. Slovic đã phát hiện ra rằng chính sự kinh hãi - nỗi lo sợ những điều xưa cũ - liên quan rất chặt chẽ tới một số mục khác trong danh sách, bao gồm sự thảm khốc, vô ý, và thiên lệch. Không giống như một số mục khác, chúng tích tụ những nội dung mang tính cảm xúc. Và Slovic nhận ra rằng nhóm những đặc trưng này (mà ông gọi là “nhân tố kinh hãi”) chính là yếu tố dự đoán chuẩn xác nhất phản ứng của con người trước một hoạt động hay công nghệ nào đó. Đó là một manh mối tuyệt vời cho thấy có những điều gì đó đang diễn ra bên trong những bộ não con người chứ không chỉ là những phân tích lạnh lùng và hợp lý.
Manh mối thứ hai nằm trong một điều mà nhìn bên ngoài có vẻ như chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên vô nghĩa. Hóa ra những phân loại, sắp xếp, đặt tỉ lệ của mọi người đối với những mối nguy hiểm và lợi ích của 90 hoạt động và công nghệ trong danh sách có liên quan tới nhau. Nếu một người cho rằng nguy cơ gây ra bởi cái gì đó là cao, họ sẽ đánh giá lợi ích là thấp. Điều ngược lại cũng đúng. Nếu họ nghĩ là điều đó có nhiều lợi ích thì nguy cơ từ nó cũng được hạ thấp. Theo thuật ngữ chuyên môn, đó gọi là “mối tương quan đảo ngược”. Mối tương quan ấy chẳng có giá trị gì ở đây, bởi không có nguyên nhân logic nào cho thấy một điều gì đó (như một loại thuốc thần kinh mới chẳng hạn) lại không thể vừa có nguy cơ cao, lại cũng đem lại nhiều tác dụng. Một điều cũng là sự thật, rằng một điều gì đó có thể chẳng có mấy nguy cơ, nhưng cũng không có lợi ích gì, như việc nằm dài trên giường xem đá bóng vào chiều Chủ nhật vậy. Vậy thì tại sao trên trái đất này, người ta lại cứ đặt các mối nguy cơ và lợi ích ở những cực đối lập của một mối tương quan nhìn nhận? Đó là một điều lạ, những dường như không mấy quan trọng. Trong tài liệu đầu tiên của mình về nghiên cứu các mối nguy hiểm, Slovic chỉ dành một hai câu để nhắc tới phát hiện này.
Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, mô hình nhận thức theo hai hướng - Cái Bụng và Cái Đầu cùng hoạt động đồng thời đã phát triển nhanh chóng. Có ảnh hưởng chính trong sự phát triển này là nghiên cứu của Robert Zajonc, nhà tâm lý học của trường Stanford, người đã khám phá về cái mà các nhà tâm lý học gọi là tác động, ảnh hưởng, còn chúng ta thì đơn giản coi đó là cảm giác hay cảm xúc. Zajonc khẳng định chúng ta đã tự lừa dối mình khi nghĩ rằng chúng ta đánh giá các bằng chứng và đưa ra các quyết định trên cơ sở tính toán một cách hợp lý. Trong tài liệu của mình năm 1980, ông đã viết: “Chúng ta mua chiếc ô tô mà chúng ta “thích”, chọn những công việc và những ngôi nhà mà chúng ta cảm thấy “hấp dẫn” và sau đó bào chữa cho những sự lựa chọn này bằng rất nhiều lý do khác nhau.”
Với mô hình mới này, Slovic đã nhận ra được những hạn chế trong nghiên cứu trước đây của mình. Làm việc với Ali Alhakami, Tiến sĩ trường Đại học Oregon, Slovic còn bắt đầu nhận ra rằng những mối liên kết được nhận biết giữa nguy cơ và lợi ích mà ông khám phá ra trước kia có thể có ý nghĩa hơn nhiều chứ không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta phản ánh một cách vô thức và theo cảm tính khi nhắc tới những hoạt động hay công nghệ có nhiều nguy cơ? Họ nghe “sức mạnh hạt nhân” và… kêu “Eo ơi”! Họ có một phản ứng tức thời và vô thức. Cảm giác tiêu cực này thực sự đã xảy ra trước bất cứ dòng suy nghĩ có ý thức nào. Và bởi vì nó đến trước, nên nó sẽ định hình những suy nghĩ theo sau đó, bao gồm cả những câu trả lời cho những câu hỏi của các nhà nghiên cứu về nguy cơ của sức mạnh hạt nhân.
Điều này có thể giải thích tại sao người ta lại xem nguy cơ và lợi ích như thể chúng là những đối cực của một mối tương quan nhìn nhận. Năng lượng hạt nhân có mức độ nguy hiểm như thế nào? Năng lực hạt nhân là một Điều Xấu. Nguy cơ cũng là điều xấu. Vì thế năng lực hạt nhân chắc chắn phải đầy nguy hiểm. Và năng lực hạt nhân có lợi ích như thế nào? Năng lực hạt nhân là xấu, vì thế chắc chắn nó chẳng có lợi ích gì nhiều lắm. Khi Cái Bụng phản ứng tích cực với một hoạt động hay công nghệ nào đó (việc bơi lội, hay thuốc kháng sinh chẳng hạn) nó sẽ tác động vào quan điểm theo cách khác: Thuốc kháng sinh là một Điều Tốt, vì thế chắc chắn nó phải có ít nguy cơ và nhiều lợi ích.
Để kiểm tra giả thuyết này, Slovic và Alhakami, cùng với các đồng nghiệp Melissa Finucane và Stephen Johnson đã tiến hành một thí nghiệm đơn giản. Các sinh viên tại trường Đại học Tây Australia được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên được đưa ra nhiều nguy cơ tiềm tàng khác nhau trên màn hình máy vi tính: các nhà máy hóa chất, điện thoại di động, di chuyển bằng máy bay. Họ được yêu cầu chấm điểm mức độ nguy hiểm bằng thang điểm từ 1 tới 7. Sau đó đánh giá lợi ích của từng thứ. Nhóm thứ hai cũng được yêu cầu làm như vậy, nhưng họ chỉ được cho vài giây để đưa ra quyết định của mình.
Một nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng sức ép thời gian đã giảm khả năng can thiệp và điều chỉnh của Cái Đầu đối với đánh giá của Cái Bụng. Nếu giả thuyết của Slovic là đúng thì tác động của mối tương quan ngược giữa nguy hiểm và lợi ích ở nhóm thứ hai sẽ mạnh hơn so với nhóm thứ nhất. Và kết quả đã cho thấy sự thực đúng là như vậy.
Trong một thí nghiệm thứ hai, Slovic và Alhakami đã yêu cầu các sinh viên của trường Đại học Oregon đánh giá mức độ nguy hiểm và lợi ích của một công nghệ (lại những phép thử khác sử dụng các thuật ngữ sức mạnh hạt nhân, khí gas và chất bảo quản thực phẩm). Sau đó, họ được yêu cầu đọc một vài đoạn văn nói về những lợi ích của các công nghệ này. Cuối cùng, họ lại được yêu cầu đánh giá một lần nữa mức độ nguy hiểm và lợi ích. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những thông tin tích cực mà các sinh viên tham gia thí nghiệm đọc được đã khiến tỉ lệ đánh giá về lợi ích tăng lên khoảng 50%. Đồng thời hầu hết những người tăng tỉ lệ lợi ích cũng hạ thấp mức độ nguy hiểm mặc dù họ chẳng hề được đọc một từ nào nói về sự nguy hiểm. Những thí nghiệm sau đó, tới lượt chỉ những nguy cơ được đem ra thảo luận, tác động vẫn tương tự như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Những người tăng mức độ dự đoán về những nguy cơ của công nghệ sau khi được tiếp cận những thông tin về nguy cơ cũng đồng thời hạ thấp đánh giá của họ về những lợi ích của công nghệ đó.
Những cái tên khác nhau đã được đặt ra để gọi tên những gì đang diễn ra ở đây. Slovic gọi đó là “tác động để khám phá”. Tôi thì thích nghĩ về nó như là một Quy luật Tốt-Xấu. Khi đối mặt với một điều gì đó, Cái Bụng có thể lập tức cảm thấy một cảm giác “thô” nào đó rằng đó là điều Tốt, hay Xấu. Cảm giác này sau đó sẽ định hướng những đánh giá theo sau: “Liệu điều này có thể giết chết tôi? Tôi có cảm giác đó là một điều tốt. Những điều tốt thì sẽ không giết chết tôi. Vì thế, không, đừng lo lắng về nó.”
Quy luật Tốt-Xấu có thể giúp giải quyết rất nhiều điều khó hiểu. Chẳng hạn như, trong những nghiên cứu ban đầu của Slovic, ông nhận ra rằng người ta xưa nay vẫn thường đánh giá quá thấp nguy cơ giết người của tất cả các loại bệnh tật, chỉ trừ có một: Nguy hiểm từ bệnh ung thư lại được đánh giá quá cao. Một trong những nguyên nhân có thể là do Quy luật Điển hình. Giới truyền thông tập trung sự chú ý vào ung thư lớn hơn nhiều so với bệnh tiểu đường hay hen suyễn. Do đó người ta có thể dễ dàng nhớ lại các trường hợp chết vì ung thư thậm chí cả khi họ chẳng hề có trải nghiệm cá nhân đối với căn bệnh này. Nhưng hãy thử xem xét xem bạn cảm thấy như thế nào khi đọc được các từ tiểu đường hay hen suyễn? Nếu không phải là bạn hay một ai đó mà bạn quan tâm mắc phải những căn bệnh này thì nhiều khả năng những từ đó sẽ không làm lóe lên bất cứ một xúc cảm nào. Nhưng còn từ ung thư thì sao? Nó giống như một cái bóng lướt nhanh qua tâm thức. Cái bóng đó chính là tác động, như Slovic gọi là “một lời thì thầm của cảm xúc.” Chúng ta dùng từ ung thư như một phép ẩn dụ trong ngôn ngữ thông thường, để chỉ một cái gì đó đen tối và bí hiểm, ăn dần ăn mòn cho tới cạn kiệt một cái gì đó, hoàn toàn bởi từ đó đã khuấy động cảm giác của chúng ta. Và những cảm giác như vậy sẽ định hình những suy nghĩ có ý thức của chúng ta về căn bệnh.
Quy luật Tốt-Xấu còn giúp giải thích mối liên hệ khó hiểu của chúng ta với các tia phóng xạ. Chúng ta sợ các loại vũ khí hạt nhân, thế là đủ, nhưng cả năng lực hạt nhân và chất thải hạt nhân cũng mang thêm nỗi sợ hãi đến cho chúng ta. Hầu hết các chuyên gia đều khẳng định rằng năng lực hạt nhân và chất thải hạt nhân không thực sự nguy hiểm như những lo sợ của công chúng, nhưng suy nghĩ của mọi người vẫn không bị lay chuyển. Mặt khác, chúng ta lại chi ra một lượng tiền đáng kể để “ngâm mình” trong những tia phóng xạ mặt trời trên một bãi biển nhiệt đới nào đó, và có rất ít người lo lắng, dù chỉ là ở mức ít nhất, về khả năng mình sẽ bị nhiễm phóng xạ khi bác sĩ nói họ cần phải chụp X quang. Trong thực tế, những cuộc điều tra thăm dò của Slovic đã khẳng định rằng hầu hết những người bình thường đều đã đánh giá quá thấp những nguy hiểm (ở mức độ thấp nhất) của tia X.
Tại sao chúng ta lại không sợ phơi nắng? Sự huấn luyện có thể đóng một vai trò nào đó, nhưng tác động của Quy luật Tốt-Xấu thì không phải bàn cãi. Hãy tưởng tượng một bức ảnh bạn đang nằm dài trên một bãi biển ở Mexico. Bạn cảm thấy thế nào? Rất tốt. Và nếu đó là một Điều Tốt, thì những cảm giác của chúng ta sẽ mách bảo chúng ta rằng, nó không thể có nhiều nguy hiểm được. Điều tương tự cũng đúng đối với những tia X. Đó là một công nghệ y học giúp cứu lại những mạng sống. Nó là một Điều Tốt, và cảm giác đó sẽ tẩy sạch bất cứ lo lắng nào những nguy cơ nó có thể đem lại.
Ở thái cực còn lại là vũ khí hạt nhân. Chúng là những thứ Rất Tồi Tệ, đó là một kết luận quá logic khi chúng được thiết kế để hủy diệt tất cả những thành phố chỉ sau một ánh chớp. Nhưng Slovic còn phát hiện ra những cảm giác về vũ khí hạt nhân và chất thải hạt nhân cũng hầu hết là tiêu cực. Và khi ông cùng một số đồng nghiệp phân tích xem những người dân Nevada đã cảm thấy như thế nào về đề xuất xây dựng một bãi rác thải hạt nhân tại bang này, nhóm các nhà khoa học nhận ra rằng người dân đã đánh giá mối nguy hiểm từ bãi chứa chất thải hạt nhân ít nhất cũng không hề kém so với việc xây dựng một nhà máy hạt nhân, hay thậm chí là một khu thử vũ khí hạt nhân. Thậm chí cả một nhà hoạt động chống hạt nhân tích cực nhất cũng không có sự so sánh ngang bằng như vậy. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì, nếu như những đánh giá của người dân không phải là kết quả của một cảm giác cực kì tiêu cực với tất cả những gì có dính dáng tới “hạt nhân”.
Tất nhiên, Quy luật Điển hình cũng đóng một vai trò nhất định trong nỗi lo sợ của công chúng đối với năng lực hạt nhân khi chúng ta hình dung ra hình ảnh của thảm họa Chernobyl như là một thời khắc khi năng lực hạt nhân được nhắc tới. Nhưng những nỗi lo sợ phổ biến còn xảy ra trước những hình ảnh đó từ rất lâu, gợi ý cho thấy có một cơ chế nhận thức vô thức khác hoạt động. Điều này tình cờ cho thấy một hạn chế cơ bản trong nhận thức của chúng ta về cách thức hoạt động của trực giác. Bằng những thí nghiệm được dàn dựng cẩn thận, các nhà tâm lý học đã có thể nhận ra các cơ chế như Quy luật Điển hình và Quy luật Tốt-Xấu. Chúng ta có thể nhìn vào các trường hợp trong thế giới thực tế và phỏng đoán rằng cơ chế này hay cơ chế kia là có liên quan tác động tới trường hợp đó. Nhưng điều chúng ta không thể làm, hay ít nhất là chưa thể làm, là phân biệt một cách chính xác xem những cơ chế nào đang làm gì. Chúng ta chỉ có thể nói rằng những trực giác của con người về năng lực hạt nhân có thể được tạo ra bởi Quy luật Điển hình hay Quy luật Tốt-Xấu, hoặc cả hai quy luật này.
Chúng ta không quen với việc nghĩ rằng những cảm giác của chúng ta là nguồn gốc của những quyết định có ý thức nhưng các nghiên cứu đã khẳng định đó là điều không phải nghi ngờ. Chẳng hạn như những nghiên cứu về bảo hiểm đã cho thấy rằng người ta sẵn sàng trả nhiều tiền hơn để bảo hiểm cho một chiếc ô tô khi họ cảm thấy chiếc đó hấp dẫn hơn chiếc khác kể cả khi giá trị tiền giữa hai chiếc xe là như nhau. Một nghiên cứu năm 1993 thậm chí còn cho kết quả rằng người ta sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho bảo hiểm máy bay chống “các hành động khủng bố” hơn là có thể bị chết bởi “tất cả các nguy cơ có thể” khác còn lại. Điều này thật ngớ ngẩn nếu suy luận một cách logic, nhưng cụm từ “các hành động khủng bố” có ấn tượng đặc biệt với những cảm giác tiêu cực, trong khi cụm từ “tất cả các nguy cơ có thể” rất nhạt nhòa và trống rỗng. Nó chẳng gây tác động gì tới Cái Bụng.
Amos Tversky và nhà tâm lý học Eric Johnson cũng chỉ ra rằng ảnh hưởng của những cảm giác tiêu cực có thể mở rộng vượt ra ngoài những điều tạo ra cảm giác. Họ đã yêu cầu các sinh viên Đại học Stanford đọc một trong ba phiên bản của một câu chuyện về một cái chết bi thảm (nguyên nhân gây ra cái chết là bệnh bạch cầu, hoặc lửa cháy, hoặc bị một tên sát nhân giết hại) nhưng trong đó không có thông tin nào về mức độ phổ biến của những bi kịch như vậy. Sau đó họ đưa cho các sinh viên một bản danh sách các mối nguy hiểm, bao gồm nguy hiểm được nhắc tới trong câu chuyện và 12 nguy cơ khác, và yêu cầu các sinh viên đánh giá về mức độ thường xuyên xảy ra của các mối nguy hiểm đó (mức độ thường xuyên giết người). Đúng như họ mong đợi, những người đọc câu chuyện về cái chết do bệnh bạch cầu đã đánh giá tính sát nhân của căn bệnh này cao hơn nhóm sinh viên không được đọc câu chuyện. Kết quả cũng tương tự với các nhóm đọc các câu chuyện về chết cháy hay bị giết hại. Điều ngạc nhiên nhất là việc đọc các câu chuyện đã dẫn tới sự tăng lên trong đánh giá tất cả các mối nguy cơ chứ không chỉ riêng nguy cơ được nhắc tới trong câu chuyện. Câu chuyện về chết cháy làm tăng mức nhận thức nguy hiểm lên 14%. Bi kịch về bệnh bạch cầu đẩy mức tăng dự đoán lên 73%. Con số này đối với trường hợp câu chuyện bị giết chết bởi một tên tội phạm lên tới 144%. Trong khi đó, một câu chuyện với những “thông tin tốt” sẽ có tác động hoàn toàn ngược lại, làm hạ thấp nhận thức về nguy hiểm.
Tôi vẫn nhắc tới những vụ án mạng, chủ nghĩa khủng bố, và bệnh ung thư như những tác nhân tạo ra những chấn động tâm lý không thể nhầm lẫn. Nhưng các nhà khoa học đã cho thấy những phản ứng mang tính xúc cảm còn có thể tinh vi, khó phát hiện hơn thế rất nhiều. Robert Zajonc cùng các nhà tâm lý học Piotr Winkielman và Norbert Schwarz đã tiến hành một chuỗi các thí nghiệm, những kí tự chữ viết Trung Quốc được chiếu lướt qua trên màn hình. Ngay sau khi nhìn thấy một kí tự chữ viết, những đối tượng kiểm tra, các sinh viên Đại học Michigan được yêu cầu sắp xếp các hình ảnh từ một đến sáu với mức sáu là rất thích, và mức một là không thích chút nào (bất cứ ai biết một chút gì về tiếng Trung Quốc, Hàn Quốc hay Nhật Bản đều bị loại khỏi nghiên cứu này để các hình ảnh không có chút ý nghĩa về mặt chữ nghĩa nào đối với những người nhìn thấy chúng).
Điều những sinh viên này không được nói cho biết là ngay trước khi kí tự đó xuất hiện, một hình ảnh khác lóe lên. Đó có thể là một cái mặt đang cười, cũng có thể là một cái mặt nhăn nhó hay một hình đa giác chẳng có ý nghĩa gì. Những hình ảnh này chỉ xuất hiện trong một phần nhỏ nhất của một giây, khoảng thời gian không đủ để được ghi nhận vào nhận thức có ý thức và không sinh viên nào nhận ra là họ đang nhìn thấy chúng. Nhưng thậm chí kể cả những khoảnh khắc lóe lên rất ngắn này, với những hình ảnh tốt hay xấu cũng vẫn có tác động sâu sắc tới đánh giá của các sinh viên. Kết quả là các kí tự được chiếu lên ngay sau bộ mặt cười được thích hơn những kí tự không được theo sau những hình ảnh tích cực như vậy. Bộ mặt nhăn nhó cũng có tác động tương tự theo chiều hướng ngược lại.
Rõ ràng l?