CÂU CHUYỆN VỀ NHỮNG CON SỐ
Những gái mại dâm Nhật Bản là những người phụ nữ đầu tiên tạo ra mối liên hệ giữa chất silicon và những bộ ngực được độn. Đó là vào những năm 1950, những người Mỹ ở Nhật Bản thích những bộ ngực giống như những gì họ biết về chúng khi còn ở nhà, vì thế, những gái bán dâm đã tự tiêm silicon hoặc chất lỏng paraffin vào người.
Công nghệ chế tạo những bộ ngực silicon trở nên phổ biến vào đầu những năm 1960. Năm 1976, Ủy ban Quản lý Lương thực và Dược phẩm Mỹ (FDA(1)) đã được trao quyền liên quan tới các dịch vụ y tế, điều này có nghĩa rằng FDA có thể yêu cầu những người sản xuất cung cấp bằng chứng cho thấy một sản phẩm, sáng chế nào đó là an toàn thì mới cấp phép để mua bán. Việc độn ngực được xem là một phương pháp về y học nhưng do đã được bán và sử dụng trong rất nhiều năm mà không gặp phải phàn nàn nào, nên FDA đã đồng ý để nó tiếp tục được kinh doanh mà không tiến hành thêm bất cứ nghiên cứu nào. Dường như đó là một điều có thể chấp nhận được.
Những lời xì xào về trục trặc đầu tiên tới từ những tờ báo chuyên san về y tế của Nhật Bản. Một số phụ nữ Nhật được chẩn đoán là bị nhiễm bệnh liên quan tới mô liên kết, những cảm giác đau giống như bệnh viêm khớp, đau cơ, và bệnh lupus. Trước đó nhiều năm, các phụ nữ này đều độn ngực silicon, vì thế các bác sĩ nghi rằng, những điều này có liên quan với nhau.
Năm 1982, một bản báo cáo của Australia đã dẫn ra trường hợp ba phụ nữ độn ngực silicon và bệnh liên quan tới mô liên kết. Tuy nhiên, những điều được nói tới ở đây không rõ ràng. Người ta đã quá biết rằng việc độn ngực có thể xuất hiện những kẽ hở, lỗ rò, bị vỡ, hay chứng thoát vị, nhưng liệu silicon có thể thấm vào cơ thể và gây bệnh? Một số người chắc chắn rằng đó là điều đã xảy ra. Trong cùng năm với bản báo cáo từ Australia, một phụ nữ tại San Francisco đã kiện những người cấy ghép ngực, yêu cầu bồi thường hàng triệu USD vì đã khiến bà bị mắc bệnh. Các phương tiện truyền thông đã công bố rộng rãi cả hai câu chuyện này khiến những lo ngại giữa các phụ nữ và cả các bác sĩ tăng lên. Càng ngày càng có nhiều trường hợp được nhắc tới trong các tài liệu y học. Số căn bệnh liên quan tới việc cấy ghép ngực cũng tăng lên. Số lượng các câu chuyện được phổ biến trên các phương tiện thông tin cũng vậy. Và nỗi sợ hãi lan dần.
Vào năm 1990, một phần trong đoạn băng đối diện với Connie Chung(2) được chiếu trên đài CBS. Những phụ nữ kể những câu chuyện về nỗi đau, sự chịu đựng và mất mát trong nước mắt. Họ đổ lỗi cho những ca cấy ghép ngực. Và Chung cũng đồng ý như vậy. Chuyện cấy ghép xảy đến, sau đó là những căn bệnh cũng ập đến. Còn phải nói gì thêm nữa? Đoạn băng được theo dõi rộng rãi đã tạo nên một làn sóng tức giận và kết tội, tố cáo. Rất nhiều lời đổ tội đã nhằm vào FDA.
Những gái mại dâm Nhật Bản là những người phụ nữ đầu tiên tạo ra mối liên hệ giữa chất silicon và những bộ ngực được độn. Đó là vào những năm 1950, những người Mỹ ở Nhật Bản thích những bộ ngực giống như những gì họ biết về chúng khi còn ở nhà, vì thế, những gái bán dâm đã tự tiêm silicon hoặc chất lỏng paraffin vào người.
Công nghệ chế tạo những bộ ngực silicon trở nên phổ biến vào đầu những năm 1960. Năm 1976, Ủy ban Quản lý Lương thực và Dược phẩm Mỹ (FDA2) đã được trao quyền liên quan tới các dịch vụ y tế, điều này có nghĩa rằng FDA có thể yêu cầu những người sản xuất cung cấp bằng chứng cho thấy một sản phẩm, sáng chế nào đó là an toàn thì mới cấp phép để mua bán. Việc độn ngực được xem là một phương pháp về y học nhưng do đã được bán và sử dụng trong
Đó dường như là một kiểu “tức nước vỡ bờ”. Những câu chuyện liên quan giữa những vụ cấy ghép và bệnh tật, với những tiêu đề kiểu như “Những bộ ngực độc hại” hay “Những quả bom hẹn giờ” tràn ngập trên báo đài. Thậm chí quốc hội cũng phải tổ chức họp. Những nhóm biện hộ (bao gồm cả những công dân Cộng hòa ủng hộ Ralph Nader(3)) hướng tới mục tiêu chỉ trích cao nhất là công nghệ độn ngực. Trong khi đó, những người bênh vực bình quyền cho phụ nữ coi những bộ ngực độn là “sự tổn thương về giới tính” - theo lời văn của nhà văn nổi tiếng, Naomi Wolf, công nghệ cấy ghép bị tấn công giống như một sự việc tiêu biểu cho thấy tất cả những điều đó là sai trong xã hội hiện đại này.
Dưới sức ép mạnh mẽ, đầu năm 1992, FDA đã thông báo tới các nhà sản xuất rằng họ có 90 ngày để cung cấp bằng chứng cho thấy việc độn ngực là an toàn. Những nhà sản xuất đã thu thập tất cả những gì có thể, nhưng FDA cảm thấy chừng đó là không thỏa đáng. Trong khi đó, một ban giám khảo tại San Francisco đã trao thưởng 7,34 triệu USD cho một phụ nữ, người đã tuyên bố rằng bộ ngực của mình, do Dow Corning cấy ghép đã khiến cho cô phải chịu đựng căn bệnh quái ác về mô liên kết.
Tháng 04 năm 1992, FDA đã ban hành lệnh cấm việc độn ngực bằng silicon, mặc dù vậy cơ quan này nhấn mạnh rằng việc cấy ghép bị cấm chỉ bởi vì chưa chứng minh được tính an toàn (như các nhà sản xuất phải làm được như vậy) chứ không phải bởi nó đã được chứng minh là không an toàn. Người đứng đầu FDA còn khẳng định, khoảng một triệu phụ nữ Mỹ đã độn ngực không nên lo lắng.
Nhưng thực sự là họ đã lo lắng. Theo sau vụ kiện thành công, lệnh cấm của FDA được xem như là bằng chứng cho thấy độn ngực là nguy hiểm. Các phương tiện truyền thông lại đăng tải dồn dập các câu chuyện về những người phụ nữ phải chịu đựng và tức giận, vào lúc đó “sự hé lộ nhỏ giọt của những vụ kiện đã trở thành một trận lũ” - như lời Marcia Angell, biên tập viên tờ New England Journal of Medicine và là tác giả của cuốn sách nổi tiếng về cuộc khủng hoảng này: Science on Trial The Clash Between Medical Science and the Law in the Breast Inonplant Case (Sự thử nghiệm của khoa học: Va chạm giữa Y học và Luật pháp trong vụ án cấy độn ngực.)
Năm 1994, những nhà sản xuất đã đồng ý với sự dàn xếp hành động mang tính giai cấp lớn nhất trong lịch sử. Một quỹ tài chính đã được thành lập với 4,25 tỉ USD, bao gồm 1 tỉ USD dành cho các luật sư, những người đã khiến những vụ kiện độn ngực thực sự trở thành một ngành công nghiệp. Như một phần của sự dàn xếp, những phụ nữ sẽ phải đưa ra những xét nghiệm y tế cho thấy rằng họ đã độn ngực và dấu hiệu của một trong rất nhiều căn bệnh được cho là hậu quả của hành động này. Nhưng họ không phải đưa ra các bằng chứng cho thấy căn bệnh đó thực sự có nguyên nhân do việc cấy ghép, kể cả trong vụ kiện nói riêng, cũng như trong trường hợp của các phụ nữ nói chung. Angell đã viết: “Những người đại diện cho nguyên đơn đôi khi còn nhờ tới sự can thiệp của các thầy thuốc lâm sàng và những chi phí này do những nguyên đơn chi trả. Gần một nửa trong số tất cả những phụ nữ độn ngực đã chấp thuận sự dàn xếp này, và một nửa trong số đó tuyên bố là đang phải chịu đựng những căn bệnh liên quan tới việc cấy ghép.” Thậm chí cả một quỹ tài chính khổng lồ cũng không đủ để có thể chu cấp cho khoản chi này. Dow Corning đệ trình tuyên bố phá sản, và sự dàn xếp sụp đổ.
Sự biến đổi của công nghệ silicon đã hoàn tất. Đã từng được coi như những vật thể vô hại, chẳng hề nguy hiểm hơn so với kính áp tròng, cấy ghép silicon giờ đã trở thành một mối nguy hiểm đe dọa tính mạng. Theo các cuộc khảo sát mà Paul Slovic đã tiến hành trong thời gian này, hầu hết mọi người đều đánh giá công nghệ cấy ghép là “có nguy cơ cao”. Chỉ có mục hút thuốc lá được coi như có tính nguy hiểm cao hơn.
Tuy nhiên, ở điểm này, vẫn không có bằng chứng khoa học cho thấy những bộ ngực được cấy ghép silicon thực sự gây ra bệnh về mô liên kết hay bất cứ căn bệnh nào khác. Thậm chí tới tận cuối năm 1994, vẫn chưa có một cuộc điều tra đơn lẻ nào mang tính chất dịch tễ học có liên quan. Theo Angell, “Những gì chúng ta đã nhìn thấy trong phòng xử án và rất nhiều điều trên các phương tiện thông tin chỉ là đánh giá dựa trên những chuyện vụn vặt và sự suy đoán.”
Theo một cách tự nhiên, chuỗi kịch tính của sự kiện được định hướng bởi rất nhiều yếu tố tác động. Nhưng tác động quyết định nhất không phải đến từ tính chất hóa học của silicon, không phải tính tự nhiên của những bộ ngực, cũng không phải là sự bền bỉ của các nhà hoạt động chính trị, hay sự tham lam của giới luật sư, sự nhẫn tâm của các tập đoàn hay sự vô trách nhiệm của các phương tiện truyền thông… Hoàn toàn không! Nhân tố quyết định nhất chỉ đơn giản là sự thật rằng loài người rất nhạy bén với những câu chuyện và thường ngờ nghệch với những con số.
Tất cả các nhà báo đều biết rằng con người ta phản ứng rất khác nhau trước các con số và những câu chuyện. Một câu chuyện mới về một sự kiện đã cướp đi mạng sống của rất nhiều người có thể chiếm được sự chú ý của người đọc trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng nó cần có nhiều hơn thế để giữ được sự quan tâm, chú ý lâu hơn nữa. Hãy thử nghĩ về những bản tin kiểu như: “Ngày hôm nay, tại Andes, Peru, một chiếc xe buýt đã bị lật nhào, 35 người đã thiệt mạng.” Hay: “Lũ lụt vẫn tiếp tục hoành hành tại Bangladesh, các nhóm cứu trợ cho rằng đã có hàng nghìn người thiệt mạng.” Những tin tức như vậy chỉ có thể khiến ly cà phê bạn chuẩn bị uống dừng lại chốc lát trên môi. Chúng trống rỗng, và vô nghĩa. Sự thật là những tin như vậy thường về những người ở rất xa, điều này khiến chúng ta ít chú ý, nhưng điều quan trọng hơn là nội dung của chúng: Chúng là những sự thực và những con số. Nếu như tôi bổ sung vào đó vài chi tiết miêu tả sinh động (chiếc xe buýt đã lật nhào qua khe núi) hay những hình ảnh ấn tượng (những người sống sót bám chặt lấy những mảnh vụn như những tử thi bị trôi theo dòng nước lũ), chắc chắn những thông tin đó sẽ được khắc sâu hơn nhiều trong tâm trí của người đọc hay người xem.
Nhưng thậm chí cả sự liên hệ đó cũng sẽ chỉ là thoáng qua. Để thực sự choán lấy sự chú ý của mọi người, khiến họ phải nghĩ và cảm nhận, các nhà báo phải biến những câu chuyện mang tính chất cá nhân. Có lần, tôi ngồi trong phòng một khách sạn ở Mexico và lơ đễnh theo dõi một phóng sự trên đài CNN về nạn lụt khủng khiếp ở thủ đô Indonesia, rất nhiều người chết, hàng trăm nghìn người bị mất nhà cửa, tôi chuyển kênh, và nhìn thấy, ở phía dưới màn hình của một kênh tiếng Tây Ban Nha có một tin vắn giờ chót: “Anna Nicole Smith muere”. Tôi chỉ biết một vài từ tiếng Tây Ban Nha, nhưng từ muere thì tôi biết. Và tôi đã thực sự choáng váng: “Anna Nicole Smith(4) đã chết.” Tôi gọi vợ tôi đang ở trong phòng tắm. Không hề có ý định thông báo cho vợ tôi về những trận lụt ở Indonesia, chẳng cần thiết phải nói, mặc dù với bất cứ phép tính toán hợp lý nào cũng có thể thấy câu chuyện đó có quy mô quan trọng và lớn hơn nhiều so với cái chết yểu của một nhân vật nổi tiếng. Nhưng Anna Nicole Smith là một người không thể lẫn vào ai khác, một con người có thể nhận biết được, trong khi những mất mát ở Indonesia chỉ là những con số thống kê. Và cái chết của một con người có thể nhận biết được có thể khiến chúng ta phản ứng theo những cách mà những số liệu trừu tượng không thể làm được. Đó là do bản chất tự nhiên của con người.
Gần 3.000 người đã chết trong buổi sáng đầy nắng đó của tháng 09 năm 2001, nhưng con số ấy đem lại cho chúng ta cảm giác gì? Đó là một con số lớn, chắc chắn rồi. Nhưng nó cũng là một con số lạnh lùng và trống rỗng, chỉ làm chúng ta cảm thấy rất ít, hoặc chẳng có cảm giác gì. Điều tốt nhất mà nó có thể làm là nhắc cho chúng ta nhớ về những hình ảnh của ngày hôm đó - vụ nổ, những tòa tháp đổ sập, những người sống sót lê bước qua những mảnh giấy bay tứ tung và đống tro tàn, những thứ có khả năng truyền được cảm xúc - điều mà những con số không có được. Những hình ảnh của một cá nhân con người còn có nhiều hiệu lực hơn thế, ví như bức ảnh kinh hoàng của một người đàn ông bị ngã cắm đầu xuống đất và thiệt mạng hay hình ảnh một doanh nhân bước đi với chiếc cặp tài liệu và đôi mắt vô hồn.
Đó còn là những câu chuyện mang tính chất cá nhân, giống như trường hợp của Diana O’Connor, 37 tuổi, người con thứ 15 trong số 16 người con của một gia đình ở Brooklyn. Diana đã từng làm 3 công việc khác nhau để tự kiếm sống trong những năm học đại học. Chính những kinh nghiệm đó đã giúp cô có được vào làm việc trong một văn phòng tại tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới. Diana O’Connor có thể chỉ là một trong số hàng nghìn người đã thiệt mạng trong cái ngày khủng khiếp ấy. Nhưng câu chuyện về cuộc đời cô đã được kể theo một cách cho phép chúng ta tưởng tượng ra con người này, có thể dẫn dắt chúng ta theo một cách mà cụm từ “gần 3.000 người chết” không bao giờ có thể làm được. Đó là một nguyên nhân khiến cho các số liệu đã được cho rằng “không thể làm người ta rơi nước mắt.”
Sức mạnh của những câu chuyện cá nhân đã lý giải cho cái khung chuẩn của hầu hết những mẩu chuyện về các nhân vật trên báo đài: Giới thiệu một con người với một câu chuyện thương tâm, liên hệ câu chuyện đó tới chủ đề lớn hơn, bàn luận về chủ đề đó qua những con số và phân tích để rồi kết lại bằng cách trở về với nhân vật trong câu chuyện thương tâm của mình. Kiểu đề cập này giống như một viên đạn bọc đường và tỏ ra rất hiệu quả trong nghiệp vụ báo chí. Nó kết nối những cảm xúc của người đọc, người xem nhưng cũng đưa ra những căn cứ về mặt trí tuệ cần thiết để thực sự hiểu về một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, sẽ dễ dàng hơn nhiều khi kể một câu chuyện cảm động về một ai đó và bỏ qua những chi tiết trung gian, khách quan. Điều thú vị đối với những phóng viên, nhà báo lười biếng là câu chuyện cảm động không có sự phân tích khách quan đó vẫn có rất nhiều khả năng sẽ choán lấy và giữ được sự chú ý của người tiếp nhận, với tư cách là một câu chuyện cảm động cùng với những phân tích tuyệt vời.
Mọi người thích nghe những câu chuyện về người khác. Chúng ta thích kể về chúng và cũng thích nghe chuyện của người khác. Đó là một đặc điểm phổ biến của con người. Điều đó đã gợi ý cho các nhà tâm lý học tới nhận định rằng việc kể chuyện - bao gồm cả việc kể và nghe những câu chuyện, thực sự mang tính di truyền theo loài.
Nếu điều này là sự thật thì việc kể chuyện chắc chắn phải có những ưu điểm mang tính tiến hóa nào đó. Và đây chính là những ưu điểm: Thứ nhất, kể chuyện là một cách tốt để trao đổi thông tin, cho phép người ta thừa hưởng kinh nghiệm của người khác. Việc kể chuyện còn mang tính xã hội sâu sắc. Robin Dunbar, trường Đại học Liverpool tính toán rằng, trong khi những con tinh tinh không kể những câu chuyện thì chúng dành chừng 20% thời gian mỗi ngày để bắt rận trên lông những con khác. Chẳng phải chúng đang tỉa tót gì, chúng cũng đang thực hiện những giao tiếp mang tính xã hội. Việc làm sạch lông là hành động mà tinh tinh cũng như những động vật linh trưởng có tính xã hội khác thực hiện để hình thành và duy trì những mối quan hệ cá nhân. Cũng giống như những con tinh tinh, loài người là những động vật linh trưởng có tính xã hội. Nhưng những tổ tiên sống bằng nghề săn bắt và hái lượm của chúng ta quy tụ thành từng nhóm có quy mô lớn hơn và chắc là sẽ phải dành tới 50% thời gian trong một ngày để bắt chấy cho nhau nếu như họ muối duy trì quan hệ cá nhân như cách mà những con tinh tinh vẫn làm. Việc nói chuyện, xét theo khía cạnh khác, là một điều gì đó chúng ta có thể làm với nhiều người trong cùng một thời điểm. Chúng ta thậm chí còn có thể nói chuyện trong khi đang làm việc khác. Những điểm này khiến cho những cuộc tán gẫu trở thành một giải pháp thay thế lý tưởng cho hành động bắt rận cho nhau. Theo Dunbar, những nghiên cứu về những cuộc hội thoại hàng ngày của loài người hiện đại ít có tính chất chỉ thị, hướng dẫn, hay truyền kiến thức hơn. Hầu hết là những cuộc buôn chuyện cá nhân, những người này kể chuyện về những người khác.
Việc kể chuyện còn có thể là một hình thức nhắc lại có giá trị. Nhà triết học Denis Dutton: “Nếu sự sống sót và tồn tại trong cuộc sống là vấn đề của việc giải quyết trước thái độ “không mến khách” của vạn vật vật chất xung quanh và vấn đề về dàn xếp với các thành viên đồng loại của chúng ta, theo cả những cách thân thiện và không thân thiện, thì sẽ rất có lợi khi xuất phát từ sự rèn luyện mang tính chất tưởng tượng nhằm chuẩn bị cho những thử thách tiếp theo. Về điểm này, kể chuyện là một cách để thực hiện những thí nghiệm phức tạp và gần như không mất chi phí đối với cuộc sống nhằm nhìn thấy qua trí tưởng tượng xem tiến trình của những hành động sẽ có thể dẫn tới đâu. Aristotle cũng cho rằng mặc dù kể chuyện có thể giúp tìm ra hướng giải quyết cho những thách thức của thế giới tự nhiên nhưng nơi bắt nguồn thông thường của nó lại là từ địa hạt của những mối quan hệ giữa con người với nhau.” Shakespeare có nhiều điều để kể với chúng ta về tâm lý giống như những nhà tâm lý học vẫn thường làm, đó là lý do tại sao chúng ta lại có phản ứng với những vở kịch của ông như trong thực tế. Khi những lời thì thầm được rót vào tai Othello(5) và tình yêu của Othello dành cho Desdemona chuyển thành sự căm ghét và phải giết người, chúng ta cảm nhận được rằng, đúng, điều này có thể xảy ra. Đó là những gì mà lòng ghen tỵ và thiếu tin tưởng có thể gây ra. Đó là sự thực.
Nhưng đôi khi những câu chuyện lại không phải là sự thực, hay ít nhất, nó hoàn toàn không dẫn tới cái được coi là sự thực. Những câu chuyện dẫn tới việc cấm cấy ghép ngực bằng silicon mang tính chất cá nhân sâu sắc, và gây cảm giác đau xót. Đã có rất nhiều những câu chuyện như vậy. Dường như việc cấy ghép gây ra bệnh tật là một điều hiển nhiên là sự thật. Người ta có cảm giác là như vậy. Cái Bụng nói như vậy. Cokie Robert, trên một bản tin tối của ABC News vào năm 1995 có nói: “Có hàng nghìn, hàng nghìn phụ nữ đã độn ngực và than phiền về những cơn đau khủng khiếp. Liệu tất cả bọn họ có thể sai được không?”
Câu trả lời cho câu hỏi đó là: Rất có thể là như vậy! Tại thời điểm việc cấy ghép ngực bị cấm, tại nước Mỹ có khoảng 100 triệu phụ nữ trưởng thành. Tất nhiên, khoảng 1% trong số đó đã độn ngực và 1% mắc bệnh về mô liên kết. Vì thế, Marcia Angell cho rằng “Chúng ta có thể trông đợi, chỉ bằng sự trùng hợp ngẫu nhiên, rằng 10.000 người phụ nữ sẽ nằm trong cả hai con số 1% ấy”. Những câu chuyện bi kịch của những phụ nữ đã độn ngực và những người bị mắc bệnh mô liên kết đã không (hoặc đã không thể) chứng minh rằng việc cấy ghép có thể gây ra chứng bệnh này. Điều kiện cần ở đây là những nghiên cứu dịch tễ học để xác định xem liệu tỉ lệ mắc bệnh trong các phụ nữ đã thực hiện cấy ghép ngực có cao hơn so với các phụ nữ không độn ngực hay không. Nếu kết quả cho thấy điều đó, nó sẽ là bằng chứng rõ ràng cho thấy việc độn ngực chính là tác nhân gây bệnh. Đó sẽ là yếu tố thứ hai kết nối hai yếu tố trên (những phụ nữ độn ngực và những phụ nữ bị bệnh). Đó sẽ là những cơ sở vững chắc cho những nghi vấn và điều tra sâu rộng hơn. Nhưng, đã không có bất kì một nghiên cứu dịch tễ học nào. Các nhà khoa học chủ trương phản đối lệnh cấm đã nhiều lần nhắc tới điều này. FDA cũng vậy, họ luôn khăng khăng rằng sẽ chỉ có lệnh cấm độn ngực khi có câu trả lời từ các nhà dịch tễ học, và nhấn mạnh rằng, mối nguy cơ vẫn chưa được chứng minh. Không hề có bằng chứng nào. Những tổ chức phụ nữ là nạn nhân thì trưng lên khẩu hiệu: “Chúng tôi chính là bằng chứng!” Không ai có thể nghi ngờ sự thành thật của họ nhưng sự giận giữ và nỗi đau không thể là những thứ thay thế được cho nguyên nhân. Mà nguyên nhân thì nói rằng: Chẳng có bằng chứng nào cả.
Những giai thoại không phải là dữ liệu, đó là một sự diễn tả được các nhà khoa học ưa thích. Những giai thoại - câu chuyện có thể làm sáng tỏ theo như cách của Shakespeare. Chúng cũng có thể cảnh báo với chúng ta về một điều gì đó cần được điều tra khoa học. Sự nở rộ của những câu chuyện về việc độn ngực gây bệnh là nền tảng chắc chắn để tạo ra những quan ngại và những nghiên cứu dứt khoát nhằm vào vấn đề này. Nhưng những giai thoại không chứng minh bất cứ điều gì. Chỉ có những dữ liệu được phân tích và thu thập một cách cẩn thận mới có thể làm được điều đó.
Điều này luôn luôn là sự thật nhưng tiến bộ về khoa học và công nghệ đã biến tất cả trở nên quan trọng hóa. Bây giờ chúng ta có thể đo đạc, tính toán trên từng micromet, những năm ánh sáng và phân tách thành từng 1 phần triệu. Thông tin và những con số dần được chất đống. Để thực sự hiểu những thông tin đang dồn lại này, chúng ta phải làm nhiều điều hơn rất nhiều chứ không phải là chỉ kể những câu chuyện.
Thật không may, có một điều không được tăng lên, đó là kĩ năng xử lý những con số của Cái Bụng. Được định hình trong một thế giới của những đống lửa và những ngọn giáo được mài từ đá, trực giác của chúng ta sinh ra đã rất tồi với những con số và nhạy bén với những câu chuyện. Stanislas Dehaene, một nhà thần kinh học tại Collège de France nhận xét rằng các loài động vật khác nhau, từ cá heo tới chuột đã rất nhạy cảm với những con số. Chúng có thể dễ dàng cảm nhận và diễn tả lại được sự khác nhau giữa 2 và 4. Và chúng “đã có những khả năng đầu tiên có thể thực hiện được các phép cộng trừ sơ đẳng.” Nhưng khi con số tăng lên, khả năng tính toán của chúng sẽ giảm xuống nhanh chóng. Thậm chí những con số nhỏ như 6 và 7 cũng đòi hỏi thêm nhiều thời gian và cố gắng để xử lý hơn so với số 1 và 2.
Hóa ra là kĩ năng bẩm sinh của con người đối với những con số cũng chẳng khá hơn chuột và cá heo là bao. Dehaene đã viết: “Về mặt tính toán hệ thống, chúng ta sẽ chậm hơn khi tính 4 + 5 so với khi tính 2 + 3.” Và chúng ta cũng chỉ giống như các loài động vật khi phải chậm lại và suy nghĩ mới có thể phân biệt được sự khác nhau giữa những số lượng gần nhau như 7 và 8. “Chúng ta sẽ mất nhiều thời gian hơn để xác định rằng 9 lớn hơn 8 so với khi so sánh giữa 9 và 2.” Tất nhiên con người cũng còn có khả năng vượt ra ngoài ranh giới này, nhưng thực tế là bọn trẻ thường phải vật lộn với bảng cửu chương là một lời nhắc nhở về những giới hạn trong khả năng bẩm sinh của chúng ta với những con số. “Thật đáng buồn, tình trạng không biết làm toán có lẽ là đặc điểm hoàn toàn bình thường của loài người chúng ta, và để giỏi toán thì phải có những nỗ lực đáng kể.”
Không rõ là có bao nhiều người trong số chúng ta thực hiện những nỗ lực ấy. Một công ty điều tra thăm dò của Canada đã từng đưa ra câu hỏi: trong một tỉ thì có bao nhiêu triệu? Có tới 45% người tham gia không biết câu trả lời. Vậy thì họ sẽ phản ứng như thế nào khi được kể rằng mức thạch tín trong nước uống của họ là ba phần tỉ? Thậm chí một người bình thường có hiểu biết cũng sẽ phải thu thập thêm thông tin và suy nghĩ rất nhiên mới có thể hiểu được thông tin đó. Nhưng họ, những người không biết một tỉ là thế nào chỉ có thể trông cậy vào Cái Bụng để đưa ra câu trả lời. Nhưng Cái Bụng cũng không có manh mối nào để biết một tỉ là cái gì. Tuy nhiên, Cái Bụng lại biết rằng thạch tín là Một điều Xấu, vì thế: Hãy nhấn nút báo động!
Ảnh hưởng của môi trường mà tổ tiên chúng ta đã sống không chỉ giới hạn trong sự không biết làm toán. Nhà vật lý học Herbert York đã từng giải thích rằng nguyên nhân khiến ông chế tạo đầu đạn hạt nhân của quả tên lửa Atlas lên tới 1 megaton chỉ vì 1 megaton là một con số chẵn đặc biệt: “Vì thế kích thước thật của đầu đạn Atlas đầu tiên và số người có thể bị nó giết hại đã được quyết định bởi sự thật rằng loài người có hai bàn tay với mỗi bàn năm ngón tay, cộng lại thành 10.”
Sự giỏi toán cũng không thể đem lại cho những con số nguồn sức mạnh để ảnh hưởng tới cảm giác của chúng ta. Việc làm từ thiện từ lâu đã cho thấy để có thể giúp đỡ một ai đó, thì trường hợp một con người cụ thể, có thể nhận biết rõ được sẽ có sức thuyết phục khiến chúng ta thấy cần phải giúp đỡ họ nhiều hơn so với những gì liên quan tới một nhóm người cần giúp đỡ. Mẹ Teresa(6) đã từng viết: “Nếu tôi nhìn vào đám đông, tôi sẽ không bao giờ hành động gì. Còn nếu tôi nhìn thấy một người, tôi sẽ hành động.” Sự bất lực của những con số càng được thể hiện rõ hơn trong cách phản ứng của chúng ta trước cái chết. Nếu cái chết của một ai đó là một bi kịch, thì cái chết của một ngàn người đáng lẽ sẽ là một ngàn lần tồi tệ hơn. Nhưng những cảm giác của chúng ta đơn giản là không làm việc theo cách ấy. Trong những năm đầu thập kỉ 1980, những bản báo cáo về AIDS rất thưa thớt bất chấp số nạn nhân đang tăng dần một cách nhanh chóng. Điều đó đã thay đổi vào tháng 07 năm 1985 khi số lượng các bài báo về AIDS được xuất bản tại nước Mỹ lên tới... 500%. Sự kiện đã làm thay đổi mọi thứ là tuyên bố của Rock Hudson(7) rằng mình đã bị AIDS, gương mặt quen thuộc ấy đã làm được những điều mà những con số thống kê không thể làm được. Chuyên gia nghiên cứu về cái chết Joseph Stalin nhận xét: “Cái chết của một người đàn ông là một bi kịch, còn cái chết của hàng triệu người chỉ là một con số.”
Những con số thậm chí còn có thể gây trở ngại cho những cảm xúc do sự xuất hiện của một ai đó, một bệnh nhân nào đó. Paul Slovic, Deborah Small và George Leowenstein đã tiến hành một thí nghiệm, trong đó những người tham gia được hỏi ý kến về việc ủng hộ tài chính cho hoạt động cứu trợ châu Phi. Một lời yêu cầu giúp đỡ gợi ra một cái nhìn mang tính số liệu thống kê về cuộc khủng hoảng, lời thỉnh cầu khác nhắc tới trường hợp cụ thể của một bé gái 7 tuổi, và lựa chọn thứ ba cung cấp cả những số liệu thống kê và trường hợp của cô bé kia. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trường hợp cụ thể của cô bé tạo ra hiệu quả lớn hơn nhiều so với những số liệu đơn thuần. Nhưng thậm chí nó còn cho kết quả tốt hơn cả trường hợp có sự kết hợp giữa số liệu, như thể những con số, bằng một cách nào đó, đã gây cản trở cho sự đồng cảm để dẫn tới những hành động ủng hộ do câu chuyện về bé gái kia tạo ra.
Tất nhiên, những con số lớn có thể gây ấn tượng, đó là lý do tại sao các nhà hoạt động và các chính trị gia rất thích sử dụng chúng. Nhưng những con số lớn chỉ có thể gây ấn tượng bằng cái sự “lớn” của mình, chứ không phải bằng những mối liên hệ giữa người với người. Hãy thử tượng tượng bạn đang đứng giữa thảm cỏ của một sân vận động chật cứng 30.000 khán giả. Có ấn tượng không? Chắc chắn rồi. Có rất nhiều người. Bây giờ hãy thử tượng tượng cùng một ngữ cảnh như vậy, nhưng có 90.000 người. Lại cũng rất ấn tượng, nhưng sẽ không phải là ấn tượng gấp ba lần so với cảm giác với 30.000 người bởi vì những cảm xúc của bạn không được xác định mức độ theo cách đó. Con số đầu tiên là lớn. Con số thứ hai cũng lớn. Cái Bụng chỉ có thể biết được đến thế.
Mặt tác động kì lạ của sự không nhận biết được những con số lớn (đã được khẳng định qua rất nhiều thí nghiệm) là những tỉ lệ có thể ảnh hưởng tới suy nghĩ của chúng ta nhiều hơn so với những con số đơn giản. Khi Paul Slovic yêu cầu các nhóm sinh viên xác định rõ, trong một mức từ 0 tới 20, con số nào họ sẽ đồng ý khi chi trả cho các trang thiết bị bảo hiểm an toàn trên máy bay, ông đã nhận ra rằng họ sẽ chấp nhận chi nhiều hơn nhiều khi được nói rằng những trang thiết bị này có thể sẽ cứu được 98% của 150 hành khách, hơn là khi nói với họ rằng nó sẽ cứu được 150 mạng người. Thậm chí kể cả khi tỉ lệ an toàn là “85% của 150 nhân mạng” thì sự ủng hộ vẫn lớn hơn so với con số 150 đơn thuần. Lời giải thích nằm ở sự thiếu cảm giác của chúng ta đối với con số 150. Nó có vẻ là một con số tốt, vì nó thể hiện được số mạng sống được cứu thoát. Nhưng nó rất trừu tượng. Chúng ta không thể vẽ ra 150 sinh mạng, cũng chẳng thể cảm nhận được. Tuy nhiên, chúng ta lại có thể cảm nhận được những tỉ lệ. 98% có nghĩa là gần như tất cả. Giống như một chiếc cốc được rót sắp đầy tràn. Và vì thế, chúng ta sẽ cảm nhận rằng việc cứu thoát 98% của 150 mạng người có sức thuyết phục hơn nhiều so với cứu được 150 mạng người.
Daniel Kahneman và Amos Tversky đã nhấn mạnh sự bất lực của những con số thống kê trong những phiên bản khác nhau của câu chuyện thí nghiệm nổi tiếng “Linda”. Trước hết, người ta được yêu cầu đọc một bản lý lịch của một người đàn ông, nêu chi tiết về tính cách và các thói quen. Sau đó, họ được cho biết rằng người đàn ông này được chọn ra từ một nhóm gồm 70 kĩ sư và 30 luật sư. Các nhà nghiên cứu đặt tình huống: dựa trên những gì bạn biết, liệu người đàn ông đó có nhiều khả năng là luật sư, hay là kĩ sư? Kahneman và Tversky đã tiến hành rất nhiều thay đổi trong thí nghiệm này, và đối với tất cả mọi người, con số 70 kĩ sư và 30 luật sư có sức tác động kém hơn nhiều so với bản lý lịch.
Thậm chí những ý niệm nếu được trình bày bằng thống kê cũng có sức ảnh hưởng kém hơn so với những con số. Kahneman đã từng phát hiện ra rằng một người hướng dẫn bay người Israel đã kết luận dựa trên kinh nghiệm cá nhân rằng những chỉ trích sẽ giúp cải thiện trình độ bay, trong khi những lời khen sẽ khiến học viên bay tồi hơn. Làm sao mà anh ta lại đi tới kết luận kì lạ như vậy? Khi những học viên phi công thực hiện một màn hạ cánh đặc biệt xuất sắc, anh ta sẽ khen ngợi họ, và những màn hạ cánh về sau luôn luôn không được tốt như lần đó. Nhưng khi họ thực hiện một pha tiếp đất rất tồi, anh ta phê bình họ, thì lần sau họ lại làm tốt hơn. Vì thế, anh ta kết luận rằng, những lời phê bình có tác dụng, còn lời khen thì không. Kahneman nhận ra rằng sự hiểu biết này - mà những người được đào tạo lại không thể tính đến, là “sự đi ngược lại giá trị trung bình”: Nếu một kết quả bất thường xảy ra, kết quả tiếp sau đó sẽ tiến lại gần hơn so với mức trung bình được tính toán. Vì thế, tiếp sau một màn hạ cánh đặc biệt xuất sắc sẽ là một pha thực hiện không được tốt bằng, và theo sau một pha tiếp đất rất tồi sẽ là một cú tiếp đất được cải thiện chút ít. Những lời phê bình hay khen ngợi chẳng liên quan gì tới sự thay đổi này. Đó chỉ là những con số. Nhưng đó là bởi vì chúng ta không có trực giác nào về sự đi ngược lại giá trị trung bình, sẽ phải có những nỗ lực thực sự về mặt tinh thần mới có thể nhận ra được loại nhầm lẫn này.
Đó cũng là sự thật trong khái niệm thống kê về những thành kiến tiêu biểu. Hãy nói rằng bạn muốn biết người Mỹ nghĩ gì về những công việc mà Tổng thống của họ đang làm. Thật đơn giản. Nhưng mọi thứ lại khác hoàn toàn tùy vào người Mỹ mà bạn hỏi là ai. Nếu bạn tới một cuộc họp của đảng Cộng hòa và hỏi mọi người ở đó khi họ ra về, gần như chắc chắn rằng thử nghiệm của họ sẽ bị ảnh hưởng bởi thành kiến (liệu Tổng thống đương nhiệm là người của đảng Cộng hòa hay đảng Dân chủ) và thành kiến ấy sẽ tạo ra những kết luận sai lạc về những gì mà “người Mỹ” nghĩ. Bạn cũng sẽ rút ra được điều tương tự nếu chỉ điều tra đối với những người Texans, người theo nhà thờ Tân giáo hay những người huấn luyện yoga. Những thành kiến trong mỗi trường hợp sẽ rất khác nhau và đôi khi cái cách nó bóp méo, xuyên tạc những con số thật không dễ nhận ra chút nào. Nhưng với cách điều tra lấy mẫu trong dân số không chuẩn khi mục tiêu là suy nghĩ của tất cả người Mỹ, thì kết quả bạn có được sẽ bị bóp méo và không đáng tin cậy. Những người đi thăm dò ý kiến thường tránh nguy cơ này bằng cách lướt mắt và chọn ngẫu nhiên những số điện thoại trong cả nước để tạo ra những mẫu phù hợp và kết quả có ý nghĩa (Còn nếu mẫu bị làm chệch đi khi tỉ lệ người từ chối trả lời điều tra tăng lên thì lại là chuyện khác).
Trong trường hợp về nỗi hoang mang liên quan tới việc độn ngực, hiệu quả mà giới truyền thông mang lại là đưa ra một vật mẫu bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thành kiến. Những câu chuyện tiếp nối nhau đã vẽ nên hình ảnh những phụ nữ ốm yếu, bệnh tật, và đổ lỗi cho việc cấy ghép ngực. Sau cùng, số lượng những phụ nữ được “khắc họa chân dung” kiểu như vậy là hàng trăm người. Các nhà báo cũng ghi lại những quan điểm của các tổ chức đại diện cho hàng nghìn phụ nữ khác. Dần dần, mọi thứ trở nên rất ấn tượng. Đó là những con số lớn và những câu chuyện - tôi độn ngực, và rồi tôi bị bệnh - là sự hoảng sợ… Làm sao bạn có thể không nghĩ về điều gì liên quan? Nhưng toàn bộ “bài tập” này lại là một sự sai lầm bởi những phụ nữ hoàn toàn chung sống khỏe mạnh với bộ ngực độn của mình chẳng có mấy lý do để tham gia vào các nhóm vận động hành lang hay chủ động liên lạc với cánh phóng viên. Và giới báo chí cũng chẳng mấy cố gắng để tìm ra những phụ nữ này và “khắc họa chân dung” của họ bởi “Những người phụ nữ không bị ốm” chẳng giống tiêu đề của một bài báo chút nào. Và vì vậy, bất chấp quy mô rộng rãi của những bài báo về việc cấy ghép ngực, chúng chẳng hề phản ánh tình trạng sức khỏe của tất cả những phụ nữ đã độn ngực và chẳng khác gì một cuộc thăm dò ý kiến lại tìm hỏi vào đúng một cuộc họp của đảng Cộng hòa nhưng lại cho nó là phản ánh quan niệm của tất cả người dân Mỹ.
Thất bại của chúng ta khi không thể phát hiện ra những mẫu bị ảnh hưởng bởi thành kiến là hệ quả của một thất bại thậm chí còn cơ bản hơn: Chúng ta không có trực giác cảm nhận về khái niệm ngẫu nhiên.
Thử yêu cầu mọi người đánh 50 dấu chấm trên một tờ giấy theo một cách thường dùng để định chỗ ngẫu nhiên thì nhiều khả năng họ sẽ phân tán đều những điểm chấm ấy, không tới mức thành những hàng ngang và dọc nhưng độ phân tán đủ mức đều để trang giấy sẽ trông có vẻ cân bằng. Đưa cho mọi người hai cụm số: 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 10, 13, 19, 25, 30, 32 thì họ sẽ nói rằng nhóm số thứ hai chắc là lấy từ một trò xổ số nào đó. Hãy cùng họ chơi trò búng đồng xu, và nếu năm lần liền mặt đồng xu đều ngửa thì họ sẽ có một cảm giác mạnh mẽ rằng lần búng tiếp theo, đồng xu rơi xuống sẽ nhiều khả năng là mặt sấp hơn mặt ngửa.
Tất cả các kết luận này là sai vì tất cả chúng đều dựa trên những trực giác mà không hề nắm được những đặc điểm của sự ngẫu nhiên. Tất cả những lần tung đồng xu đều chỉ là một sự ngẫu nhiên, cũng giống như tất cả những vòng quay của bánh xe may rủi Rulet, và như vậy, bất cứ lần tung đồng xu nào cũng đều có khả năng cho những kết quả khác nhau: sấp và ngửa. Niềm tin rằng một chuỗi dài cùng một kết quả sẽ tăng khả năng hiện ra kết quả khác đi còn lại của lần kế tiếp là một sai lầm, được gọi là ảo tưởng của những người đánh bạc. Cũng giống như trong trò xổ số, một con số được chọn ra ngẫy nhiên, và vì vậy, một cái gì đó giống như cấu trúc 1, 2, 3, 4, 5, 6 dường như sẽ xảy ra cũng giống như bất kì kết quả nào khác. Và, thay vào đó, không lẽ rằng 50 dấu chấm được phân bố ngẫu nhiên trên tờ giấy sẽ được phân tán đều nhau, sẽ có những vị trí tập trung rất nhiều dấu chấm, trong khi những vị trí khác sẽ trắng tinh.
Nhận thức sai về tính ngẫu nhiên có thể rất dai dẳng. Amos Tversky, Tom Gilovich và Robert Vallone đã cũng nhau phân tích trường hợp nổi tiếng được gọi là “bàn tay vàng” trong môn bóng rổ. Khi người ta tin rằng một vận động viên đã ném bóng ghi điểm liên tiếp trong hai, ba, hay bốn cú dứt điểm gần nhất đang sở hữu “bàn tay vàng” và vì thế sẽ rất có khả năng lại ghi điểm trong cú ném tiếp theo chứ khó có khả năng ném bóng trượt ra ngoài rổ. Các nhà khoa học, bằng những số liệu thống kê, phân tích chi tiết và rạch ròi, đã chứng minh rằng, “bàn tay vàng” chỉ là cái mà người ta tự tưởng tượng ra. Vì vụ rắc rối này mà các nhà tâm lý học đã bị các huấn luyện viên bóng rổ và các fan hâm mộ trên khắp nước Mỹ chế nhạo.
Trực giác sai lầm của chúng ta đối với sự ngẫu nhiên, về cơ bản, cũng chỉ tạo nên những nhầm lẫn vô hại như niềm tin đặt vào những “bàn tay vàng”, hay sự khăng khăng của Aunt Betty rằng cô sẽ phải tiếp tục đặt hi vọng vào những con số xổ số của mình trong tuần sau vì những con số cô đã kì vọng 17 năm qua vẫn chưa xuất hiện, vì vậy, tới giờ, chúng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, có đôi khi, sự nhầm lẫn ấy đã thành những hậu quả nghiêm trọng.
Một lý do là con người ta thường có những phản ứng rất không hợp lý trước nạn lũ lụt, tại sao lại tái thiết ở chính những nơi đã vừa bị cơn lũ quét sạch? Đó chính là sai lầm về tính ngẫu nhiên. Trong thực tế, hầu hết các trận lụt đều là những sự kiện ngẫu nhiên. Một trận lụt đã xảy ra vào năm nay chẳng hề nói lên rằng liệu năm sau nó có lại xảy đến hay không. Nhưng đó không phải là những gì Cái Bụng cảm nhận. Năm nay đã có một trận lụt có nghĩa là sang năm sẽ ít có khả năng bị lụt lội hơn. Và khi các chuyên gia nói rằng trận lụt năm nay là “trận lụt thế kỉ”, có lẽ là lớn nhất trong vòng 100 năm trở lại đây. Cái Bụng sẽ tiếp nhận thông tin này và suy ra rằng một trận lụt khủng khiếp tương tự sẽ không xảy ra trong nhiều chục năm nữa. Sự thật rằng trực giác không thể nhận thức được “trận lụt thế kỉ” có thể tái diễn trong ba năm. Với một chút cố gắng, Cái Đầu có thể hiểu được điều đó, nhưng Cái Bụng thì không.
Một vụ án mạng rõ ràng là một sự kiện không phải ngẫu nhiên nhưng trong những thành phố hàng triệu dân, sự phân bố của những vụ án mạng theo thời gian thực sự là ngẫu nhiên (nếu như chúng ta gạt sang một bên tác động khiêm tốn nhất là những sự thay đổi theo mùa của thời tiết có thể có tại một số thành phố). Và bởi vì đó là một sự ngẫu nhiên, nên những vụ án mạng có thể xảy ra dồn dập, hơn nhiều so với mức thời gian trung bình. Những nhà thống kê gọi đây là những cụm Poisson, sau khi nhà toán học người Pháp Simeon-Denis Poisson, phát minh ra phép tính toán giúp phân biệt giữa việc bó cụm lại do sự tình cờ với sự bó cụm được gây ra bởi một điều gì khác. Trong cuốn sách Struck by Lightening (Bị sét đánh), Jeffrey Rosenthal, nhà toán học Đại học Toronto đã thuật lại chi tiết làm thế nào mà năm vụ án mạng ở Toronto xảy ra trong cùng một tuần lại tạo ra một làn sóng những câu chuyện mới và rất nhiều những buổi nói chuyện về thực trạng tội ác đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Cảnh sát trưởng của thành phố thậm chí còn nói rằng điều này cho thấy hệ thống luật pháp đã quá thiếu cương quyết khi ngăn chặn tội ác. Nhưng Rosenthal đã tính toán ra rằng Toronton, với mức trung bình xảy ra 1,5 vụ án mạng trong một tuần, có “1,4% khả năng phải chứng kiến 5 vụ giết người cùng xảy ra trong bất kì tuần nào, hoàn toàn một cách ngẫu nhiên. Vì thế, chúng ta cũng nên chuẩn bị trước tinh thần phải chứng kiến 5 vụ án mạng trong một tuần của bất cứ tuần nào trong số 71 tuần, tương đương với một lần trong một năm xảy ra sự ngẫu nhiên đó!” Rosethal còn lưu ý rằng những tính toán tương tự cũng chỉ ra rằng có 22% khả năng chúng ta sẽ không phải nghe tin về một vụ giết người nào trong một tuần nào đó, và điều này cũng hoàn toàn là một sự ngẫu nhiên. Và Toronto cũng thường trải qua những tuần thanh bình như vậy. “Nhưng tôi chưa từng nhìn thấy tiêu đề của bất cứ một bài báo nào có dòng chữ “Không có vụ án mạng nào xảy ra trong tuần!”
Những cụm ung thư là một hiệu ứng đáng sợ khác cũng có thể cho chúng ta thấy rõ sự bất lực của mình trong nhận thức về tính ngẫu nhiên. Hàng năm ở các nước phát triển đều có những lời kêu gọi gửi tới giới chức trách trong lĩnh vực sức khỏe cộng đồng từ những người tin rằng 8 trường hợp mắc bệnh máu trắng hay 5 ca ung thư não không thể chỉ là kết quả của những sự ngẫu nhiên thuần túy. Và người ta luôn luôn biết được nguyên nhân thực sự. Đó là do những loại thuốc trừ sâu trên cánh đồng, đó là do nhiễm xạ từ các nhà máy hạt nhân hay nhiễm các độc tố bị rò rỉ từ khu vực gần đó. Trong hầu hết các trường hợp, họ không có bất kì bằng chứng thực sự nào kết nối giữa mối nguy cơ đó tới các căn bệnh ung thư quái ác. Sự thật đơn thuần chỉ là một tỉ lệ ung thư mơ hồ tồn tại bên cạnh một điều gì đó bị ngờ là đủ để kết luận đó là nguyên nhân - theo hầu hết nhận thức của mọi người.
Trong phần lớn những mối lo sợ này, những nhà chức trách thực hiện một số phép tính toán nào đó và phát hiện ra rằng tỉ lệ bệnh tật có thể chính là kết quả thuần túy của sự ngẫu nhiên. Điều này đã được giải thích và đó là tất cả. Nhưng đôi khi, thậm chí là luôn luôn, khi những người dân không tin vào lời giải thích của các cơ quan liên quan bày tỏ sự lo lắng của mình với giới truyền thông và lôi kéo cả các chính trị gia vào, những cuộc điều tra trên quy mô toàn diện sẽ được tiến hành. Và hầu như lúc nào cũng vậy, người ta chẳng phát hiện ra cái gì cả. Kể cả khi như vậy thì người dân và các nhà hoạt động vẫn bác bỏ những kết quả đó, sự nghi ngờ của họ đã nói lên nhiều điều về sức mạnh của những đánh giá dựa trên Cái Bụng, nhiều hơn rất nhiều so với những gì họ đã làm liên quan tới bệnh ung thư.
Tôi không hề muốn cường điệu hóa những hạn chế của Cái Bụng. Kể cả trong thế giới của vệ tinh và vi mạch điện tử thì trực giác vẫn nhận thức được rất nhiều điều đúng. Chúng ta cũng cần phải nhớ rằng khoa học và những phép thống kê có những giới hạn của chúng. Chẳng hạn như, chúng không bao giờ loại trừ được hoàn toàn những điều không chắc chắn. Những con số thống kê có thể nói với chúng ta rằng một cụm ung thư có thể là sản phẩm của sự ngẫu nhiên nhưng chúng không thể bảo chúng ta rằng đó là sản phẩm của sự ngẫu nhiên. Và thậm chí những nghiên cứu dịch tễ học triệt để nhất cũng không thể hoàn toàn chứng minh rằng thuốc trừ sâu của những người nông dân chính là - hay không phải là nguyên nhân gây ung thư. Chúng chỉ có thể gợi ý về điều đó, đôi khi là những gợi ý mơ hồ, đôi khi rõ ràng hơn, nhưng luôn luôn đi kèm với một mức độ không chắc chắn nào đó. Trong tất cả các dạng yêu cầu khoa học, những sự thật rõ ràng và những lời giải thích mạnh mẽ được xây dựng đòi hỏi phải có thời gian, và chỉ có thể xây dựng được với những nỗ lực lớn. Paul Slovic nhận xét: “Đôi khi Cái Bụng có thể tìm ra câu trả lời chính xác thậm chí còn trước cả khoa học. Trong những trường hợp khác, những trực giác của Cái Bụng khiến cho khoa học phải đối mặt với một vấn đề nào đó cần kiểm chứng. Thường thường, những câu trả lời tốt nhất của khoa học bao giờ cũng ẩn chứa nhiều sự không chắc chắn. Trong những hoàn cảnh như vậy, nếu những lợi ích không lớn còn nguy cơ thì đáng sợ, tốt hơn hết là nên nghe theo Cái Bụng.” Ít nhất là cho tới khi khoa học có thể cho chúng ta biết thêm về điều đó.
Cũng thật đáng mừng khi biết rằng có bằng chứng cho thấy rằng chúng ta có thể, hạn chế đi nhiều những thiệt hại, tổn thương gây ra bởi những hạn chế của Cái Bụng. Trong một chuỗi bốn nghiên cứu khoa học, nhóm các nhà tâm lý học, đứng đầu là Ellen Peters, một đồng sự của Slovic trong Nghiên cứu Quyết định đã phân tích xem liệu giỏi toán có tạo ra khác biệt nào để hạn chế những lỗi mà Cái Bụng có xu hướng mắc phải hay không. Và kết quả đã cho thấy là có khác biệt, thậm chí là khá lớn. Các nghiên cứu đã lặp lại một số thí nghiệm nổi tiếng, bao gồm cả một số thí nghiệm đã được nhắc tới ở phần trước của cuốn sách này. Nhưng lần này, những người tham gia còn được kiểm tra xem họ có những kĩ năng như thế nào với những con số và toán học. Kết quả rất rõ ràng: Những người càng giỏi toán thì càng ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi những sai lầm của Cái Bụng. Không rõ liệu điều này có phải là kết quả của việc Cái Đầu của một người giỏi toán sẽ có khả năng tốt hơn khi can thiệp và sửa lại cho đúng đánh giá của Cái Bụng hay không, hoặc liệu sự giỏi toán, có giống như trong môn golf, là một kĩ năng có thể học được bằng trí óc có ý thức, và sau đó biến đổi, trải qua rất nhiều sự luyện tập, để trở thành nhận thức vô thức được hay không. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì giỏi toán cũng có những tác động rất tích cực.
Lại có một điều chẳng lấy gì làm vui vẻ, là kết luận mà Peters tìm thấy khi cô kiểm tra mức độ giỏi toán của những người tham gia những thí nghiệm của mình. Chỉ có 74% trong số họ có thể trả lời đúng câu hỏi này: “Nếu khả năng người A bị mắc một căn bệnh nào đó là 1/100 trong 10 năm, và nguy cơ của người B lớn gấp đôi người A, vậy thì nguy cơ của người B có tỉ lệ là bao nhiêu?” Và chỉ có 61% người có được đáp án đúng cho tình huống: “Hãy tưởng tượng rằng chúng ta lăn một con xúc xắc có 6 mặt bằng nhau 1000 lần. Vậy thì cứ trong 1000 vòng lăn, bạn nghĩ rằng có bao nhiêu lần con xúc xắc sẽ cho ra các số chẵn (2, 4 hoặc 6)?” Lại chỉ có 46% đúng trong trường hợp: “Trò chơi Được ăn cả, cơ hội để giành được phần thưởng là một chiếc ô tô là 1/1000. Vậy thì có bao nhiêu phần trăm khả năng của những tấm vé sẽ giành được chiếc ô tô?” Đối tượng của cuộc kiểm tra của Peter là những sinh viên đại học. Khi ngay cả một nhân tài được đào tạo ở bậc đại học của một quốc gia cũng còn có hiểu biết yếu kém tới mức như vậy về những con số xác định những nguy cơ thì khả năng quốc gia đó đang nằm trong vùng nguy hiểm là hoàn toàn sai lầm.
Nỗi sợ hãi liên quan tới việc độn ngực đã lên tới đỉnh điểm vào tháng 06 năm 1994, khi cuối cùng, nghiên cứu khoa học cũng được công bố. Một cuộc điều tra thăm dò dịch tễ học của bệnh viên chuyên khoa Mayo xuất bản trên New England Journal of Medicine (Chuyên san Y khoa của Anh quốc) kết luận rằng không hề có sự liên hệ giữa việc độn ngực bằng silicon và bệnh mô liên kết. Thêm nhiều những nghiên cứu sau đó cũng đều cho những kết quả tương tự. Sau cùng, Quốc hội đã yêu cầu Viện Y học, bộ phận chuyên về y học của Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia xem xét kĩ những nghiên cứu này. Năm 1999, IOM đã công bố bản báo cáo của mình. Bản báo cáo kết luận: “Một số phụ nữ phẫu thuật độn ngực thực sự đã gặp những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe và ủy ban IOM rất thông cảm với những nỗi đau của họ. Tuy nhiên, có thể nói rằng không có bằng chứng nào cho thấy những phụ nữ này bị bệnh vì đã độn ngực.”
Tháng 06 năm 2004, Dow Corning đã trở lại sau 9 năm lâm vào tình trạng phá sản. Như một phần của kế hoạch tái tổ chức, công ty đã tạo ra một quỹ với hơn 2 triệu USD nhằm hối lộ cho hơn 360.000 tuyên bố. Bất chấp những bằng chứng, điều này giống như một món quà không công bằng từ trên trời rơi xuống dành cho những phụ nữ đã độn ngực. Chắc chắn là không hề công bằng đối với Dow Coring, nhưng không hề có một món quà từ trên trời rơi xuống. Đã có không biết bao nhiêu phụ nữ chịu đau khổ, hoang mang trong nhiều năm vì tin rằng cơ thể họ đang, hay rất có thể sẽ bị nhiễm một loại bệnh tật nào đó, và họ sẽ mau chóng bị ốm, rồi bị chết. Trong tấn bi kịch này, chỉ có những luật sư là người chiến thắng.
Tháng 11 năm 2006, Ban Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã dỡ bỏ lệnh cấm đối với việc độn ngực. FDA lưu ý, dịch vụ này có thể gây ra chứng thoát vị, gây đau và viêm, nhưng những bằng chứng rõ ràng cho tới nay không hề cho thấy rằng nó có thể tạo ra nguy cơ gây bệnh. Những nhà hoạt động chống độn ngực đã vô cùng tức giận. Họ vẫn chắc chắn rằng độn ngực bằng silicon là một mối nguy hiểm chết người và đối với họ, không điều gì có thể lay chuyển nổi quan niệm đó.