NỖI SỢ HÃI KHỦNG BỐ
“Những vụ tấn công khủng khiếp và đáng sợ được tiến hành ngày hôm qua chống lại đất nước chúng ta còn hơn cả hành động khủng bố. Đó là hành động của chiến tranh. Điều đó buộc chúng ta phải đoàn kết lại với một quyết tâm sắt đá. Tự do và dân chủ đang bị thách thức.”
Khi Tổng thống Mỹ phát biểu những lời này vào sáng 12 tháng 09 năm 2001, khói vẫn còn đang cuồn cuộn trên những đống đổ nát ở Trung tâm Thương mại thế giới (WTC), và cơn chấn động chỉ mới bắt đầu. Mọi hình ảnh của những người đang mất tích, mỗi câu chuyện về mất mát người thân, nỗi đau trào dâng như một dòng sông mùa lũ. Từng mẩu thông tin nhỏ nhất về những kẻ khủng bố đều được người ta bình luận. Và trong những giây phút im lặng hiếm hoi, khi các chương trình ti vi bị tắt đi, tâm trí chúng ta lại tràn ngập những câu hỏi về thế giới mới đáng kinh hãi này, đấu tranh để tưởng tượng còn điều gì tồi tệ hơn sẽ xảy ra và cảm thấy run sợ.
Thờ ơ với thế giới trong nhiều năm trôi qua, nỗi khiếp đảm đối với chủ nghĩa khủng bố giờ đây đang lan tràn trên toàn nước Mỹ và các nước phương Tây, là điều có thể hiểu được.
Những gì xảy ra hôm 11 tháng 09 năm 2001 - đối với phần lớn chúng ta- gây ngạc nhiên và không thể hiểu nổi giống như sự xuất hiện của mặt trăng thứ hai trên bầu trời đêm. Bin Laden như thế nào? Tại sao? Hầu như chúng ta chẳng biết gì cả. Điều này là hoàn toàn xa lạ với người Mỹ. Điều duy nhất chúng ta biết là mối hiểm họa đó lớn như chính tòa tháp đã đổ sập xuống. Các nhà nghiên cứ về nguy cơ thường dùng các dấu hiệu để nhận biết và mô tả một sự kiện nguy hiểm nào đó sẽ xảy ra trong tương lai – nhưng vụ 11 tháng 09 thì lại chẳng có dấu hiệu gì.
Vụ khủng bố cũng tạo ra sự khác biệt rất lớn bằng những gì chúng ta quan sát từ các chương trình ti vi rõ ràng và ngay lập tức. Rất nhiều người còn có thể quan sát thấy các thảm họa một cách trực tiếp, nó xảy ra ngay trước mắt họ. Thật sự là một cơn chấn động. Những gì đang xảy ra quả là ngoài sức tưởng tượng và đáng sợ đến nỗi, chúng ta chưa kịp hiểu điều gì thì hình ảnh đám cháy đã in đậm, khó phai mờ trong tâm trí chúng ta.
Đối với Cái Bụng, những kí ức này sẽ còn mãi như là một minh chứng sống động. Chỉ cần đề cập tới từ khủng bố là chúng ta sẽ liên tưởng ngay tới hình ảnh của vụ máy bay đâm vào tòa tháp đôi WTC. Cái Bụng sử dụng Quy luật Điển hình, sẽ đưa ra ngay một kết luận: Điều này rất có thể sẽ xảy ra lần nữa.
Và tất nhiên sau đó là những cảm giác: đau đớn, giận dữ và sợ hãi. Ngay cả đối với những người không hề mất mát gì từ vụ 11 tháng 09, thì cảm xúc của họ từ nay và về sau vẫn là một sự căng thẳng, sợ hãi giống như tất cả đã từng trải qua. Đối với ai quá nhạy cảm với những thay đổi dù là nhỏ nhất (có thể chỉ là nghe kể lại), thì những cảm xúc này chính là tiếng thét kinh hãi trước sự báo động về cuộc tấn công trên không.
Trước đó là nguy cơ về bệnh than. Một tuần trước cuộc không kích, năm lá thưa từ Trenton, New Jersey, dấu bưu điện cho thấy chúng được bỏ ở một thùng thư ngay bên ngoài trường Đại học Princeton – đã được gửi vào hệ thống bưu điện của Mỹ. bốn lá gửi tới các hãng truyền thông có trụ sở tại New York là ABC, NBA, CBS và tờ New York Post – trong khi lá còn lại gửi tới Boca Raton, Florida - trụ sở của tờ National Inquirer. Trong mỗi gói bưu phẩm đó đều chứa một gói bột màu nâu có vi khuẩn bacillus anthracis, loại vi khuẩn gây bệnh than chết người. 3 tuần sau, hai lá thư nữa được gửi tới hai Thượng nghị sĩ của đảng Dân chủ. Tất cả có 22 người bị nhiễm bệnh, và 11 người ở trong tình trạng rất nguy kịch. 5 người đã chết. Những lá thư ghi rõ “Mỹ chết chóc, Israel chết chóc. Thánh Alla vĩ đại.”
Chủ nghĩa khủng bố dường như là nỗi ám ảnh toàn cầu. Giống như người đi săn thời tiền sử không thấy con hổ đang từ từ xuất hiện trên những đám cỏ rậm rạp trong rừng, chúng ta chẳng hề nhìn thấy, nghe thấy hay biết gì về khủng bố.
Một cuộc điều tra của Gallup vào giữa tháng 10 cho thấy, 40% người Mỹ nói rằng “rất có thể” sẽ xảy ra khủng bố “trong vài tuần tiếp theo”; 45% cho rằng “có thể xảy ra”. Chỉ 10% nghĩ rằng “không dễ xảy ra” và 3% cho rằng “không thể xảy ra”.
Trong bản điều tra, Gallup còn đặt câu hỏi: “Bạn có lo lắng rằng bạn hay các thành viên trong gia đình sẽ trở thành nạn nhân của khủng bố hay không?” Vào tháng 10 có tới 1/3 người Mỹ trả lời “rất lo lắng”, khoảng 35% trả lời “lo lắng”.
Đó là những kết quả đáng chú ý. Một trong những thành kiến tâm lý mà chúng ta sỡ hữu được gọi là thành kiến lạc quan hay phản ứng thái quá - xu hướng nhìn thấy chúng ta ở phía tích cực hơn phần còn lại của thế giới. Thiên kiến này cũng xuất hiện trong nhận thức về khủng bố, nhưng là theo chiều hướng ngược lại. Hãy hỏi một phụ nữ trẻ khi đi dạo một mình trong công viên vào ban đêm, cô ấy sẽ đưa ra một câu trả lời, nhưng hỏi cô ấy nguy hiểm thế nào cho cô ấy khi cô đi dạo trong công viên vào ban đêm thì cô ấy sẽ cho một câu trả lời khác. Vì thế, khi Gallup tiến hành cuộc điều tra về nguy cơ “của bạn và gia đình bạn”, kết quả tất nhiên rất đáng chú ý do thiên kiến này. Hơn 1/2 dân số Mỹ cảm thấy bọn khủng bố có thể tấn công và giết chết họ cùng gia đình họ. Nếu mục đích của bọn khủng bố là làm cho người ta hoảng sợ, thì chúng đã thành công rồi.
Dù sao, con người có khả năng thích nghi. Tháng 11 đi qua mà không hề có thêm cuộc tấn công nào xảy ra trên đất Mỹ. Và Tháng 12 cũng vậy. Đến mùa xuân nỗi sợ giảm dần. Trong cuộc điều tra vào tháng Tư năm 2002, chỉ khoảng hơn 1/3 dân số Mỹ nói rằng họ lo sợ bọn khủng bố tấn công họ và gia đình. Trong khi cuộc điều tra tháng Ba cho biết, khoảng 52% nói rằng vài tuần nữa cuộc tấn công khủng bố “rất” hoặc “có thể xảy ra” - một sự suy giảm rõ rệt khi so với con số 85% trong cuộc điều tra cách đó năm tháng với cùng câu hỏi.
Trong thuật ngữ tâm lý học, sự suy giảm này cũng dễ hiểu như khi nó tăng lên cao. Tám tháng sau vụ tấn công, nỗi sợ hãi không chỉ giảm đi mà chúng ta còn biết nhiều hơn về Osama Bin Laden và khủng bố không còn là một câu chuyện gây hoang mang nữa. Những kí ức vẫn còn đây để thúc đẩy Quy luật Điển hình và những ý nghĩ về khủng bố vẫn gợi lên những đám mây đen, vì thế Cái Bụng vẫn cảm thấy rằng nguy cơ còn cao. Nhưng chắc chắn nó không còn là mùa thu khủng khiếp nữa.
Sau đó, kết quả các cuộc thăm dò dư luận rất đáng ngạc nhiên. Sự suy giảm biến mất.
Ngày kỉ niệm năm năm vụ 11 tháng 09 vào tháng 09 năm 2006, chẳng có một cuộc tấn nào nữa trên đất Mỹ. Năm năm trước cũng không có một ai dự đoán điều này sẽ xảy ra. Và khi Gallup điều tra liệu người Mỹ có nghĩ rằng hành động khủng bố sẽ xảy ra tại Mỹ “vài tuần tới’ không, thì 9% trả lời là “rất có thể” và 41% trả lời là “có thể", 50% so với 52% nói rằng khó có thể xảy ra giống như cuộc điều tra hơn 4 năm trước đây, vào tháng 3 năm 2002.
Câu hỏi của Gallup về mối nguy hiểm cá nhân thậm chí còn tiết lộ nhiều điều hơn. Vào tháng 8 năm 2006, 44% người Mỹ nói rằng họ rất lo ngại mình và gia đình có thể trở thành nạn nhân của bọn khủng bố. Con số này tăng so với 33% trong cuộc điều tra vào mùa xuân năm 2002.
Những con số thống kê cứ lên xuống thất thường từ giữa năm 2002 và năm 2006, nhưng xu hướng cơ bản là đáng tin cậy: Lo ngại về khủng bố không giảm theo thời gian và những cuộc công kích dữ dội không trở thành hiện thực. Nhưng có quá nhiều người nghĩ rằng đó là một khả năng có thật - đến nỗi mọi người có thể bị bọn khủng bố giết chết.
Gần 3.000 người đã chết trong vụ tấn công hôm 11 tháng 09 năm 2001. Vào thời gian đó, dân số của Hoa Kỳ là 281 triệu. Vì thế, xác suất cho bất kì người Mỹ nào bị chết do khủng bố là 0.000106%, tương đương với tỉ lệ 1/93000 (cứ 93.000 người thì có 1 người bị chết). So sánh con số này với tỉ lệ 1/48548 nguy cơ hằng năm cho một người đi bộ có thể bị xe tải hay một xe hơi đâm, hay là tỉ lệ 1/87976 nguy cơ bị chết đuối.
Tất nhiên, chẳng ai ngờ rằng, 11 tháng 09 năm 2001 sẽ trở thành một ngày tồi tệ khủng khiếp như vậy. Giả định rằng mỗi tháng có một cuộc tấn công lớn như vậy trong suốt một năm và gây ra số người chết như vụ 11 tháng 09 thì tổng số người chết sẽ là 36.000 người/năm. Thậm chí, điều này là vô cùng khủng khiếp thì nó cũng không phải nguy cơ lớn nhất gây chết người đối với một người Mỹ bình thường. Khả năng bị giết trong những cuộc tàn sát như vậy chỉ là 0.0127%. Tỉ lệ này có nghĩa là 1/7750 (tức là cứ 7750 người thì có 1 người). Hãy so sánh con số này với con số người chết vì tai nạn giao thông là 1/6498.
Lợi dụng những vụ gây chấn động dư luận do các thế lực thù địch ở bên ngoài gây ra để phục vụ cho các mục đích chính trị không phải là điều mới mẻ. Và điều này cũng không mới đối với New York. Ngày 16 tháng 9 năm 1920, một nhóm bạo động đã chở những thùng chứa khoảng 45kg thuốc nổ và 500 bao chứa đạn tới Phố Wall, bom đã nổ và 38 người chết. Hơn 400 người bị thương. Gần chín thập kỉ sau ngày khủng khiếp đó, cuộc tấn công đáng sợ nhất trên thế giới, trừ vụ 11 tháng 09, là vụ đánh bom chuyến bay 182 của hãng hàng không Ấn Độ vào năm 1985, làm chết 329 người.
Theo số liệu khủng bố của RAND-MIPT (cơ quan chuyên thống kê số liệu về các vụ khủng bố trên thế giới) có khoảng 10.119 các cuộc khủng bố trên toàn thế giới từ 1968 đến tháng Tư năm 2007. Những cuộc khủng bố này đã lấy đi sinh mạng của 14.790 người, trung bình mỗi năm có 379 người chết. Rõ ràng, những gì mà thế giới phải chứng kiến trong buổi sáng tháng 9 đó là hoàn toàn khác với những gì đã diễn ra trước đó. Khủng bố thật ghớm ghiếc, và mỗi cái chết lại gợi lên một thảm kịch và một tội ác. Nhưng 379 người chết hằng năm là một con số vô cùng bé nhỏ. Chỉ tính riêng ở Mỹ năm 2005 đã có 497 người vô tình bị chết ngạt trên giường; 396 người khác bị điện giật chết, 515 người bị chết đuối trong hồ bơi; và 347 người bị cảnh sát bắn chết. 16.503 người Mỹ bị bọn tội phạm khác nhau giết chết.
Con số 379 người chết cường điệu hóa tổng số người bị thiệt mạng là người Mỹ, người gốc Anh và những nước phương Tây khác, bởi vì phần lớn những người chết do các cuộc khủng bố khác đều xảy ra ở những vùng xa, hoang vu như Kasmir. Ở Bắc Mỹ, từ năm 1968 đến năm 2007, các cuộc khủng bố bao gồm cả vụ 11 tháng 09 đã làm 3.765 người chết. Con số này cao hơn một chút so với số người Mỹ bị chết do tai nạn xe máy của riêng năm 2003. Còn tại các nước phương Tây ở châu Âu, tổng số người chết trong các cuộc khủng bố quốc tế từ năm 1968 đến tháng Tư năm 2007 là 1.233 người. Con số này chiếm 6% số người chết do bị nhiễm độc khí Radon phát tiết trong tự nhiên tại châu Âu - hiện tượng mà rất ít người chú ý tới.
Năm 2005, K.T Bogen và E.D. Jones của Phòng thí nghiệm Quốc Gia Lawrence Livermore đã được chính phủ Mỹ yêu cầu tiến hành một cuộc phân tích các số liệu của RAND-MIPT. Các nhà nghiên cứu này đã đưa ra kết luận rằng, muốn hiểu mục đích của nguy cơ khủng bố, nên phân chia thế giới làm hai; Irael và những nơi khác. Tại Israel, khủng bố là một mối nguy hiểm thật sự. Xác suất để bị khủng bố trong cuộc đời của một người (khoảng 70 năm) là rất lớn, dao động từ 1/100 đến 1/1.000, tỉ lệ rất cao biểu hiện tất cả mọi người có thể phải chứng kiến cảnh người chết do khủng bố. Nhưng ngoài Israel ra thì nguy cơ bị chết hay bị thương do khủng bố sẽ chỉ vào khoảng từ 1/10.000 đến 1/1.000.000.
So sánh con số này với nguy cơ của dân chúng Mỹ thì chúng ta sẽ thấy rõ, tại Mỹ tỉ lệ bị chết do sét đánh là 1/79.746 người; do độc của cây hay động vật là 1/39.873; bị chết đuối trong phòng tắm là 1/11.289; tự tử là 1/119; tai nạn ôtô là 1/84. Bogen và Jones cho rằng, nếu nguy cơ do khủng bố có thể ảnh hướng tới an toàn và sức khỏe của cộng đồng, nhưng nó nằm trong khoảng mà các nhà chức trách gọi là "de minimis"; quá nhỏ để lo lắng.
Hành động tội ác ngày 11 tháng 09 khiến tâm trí chúng ta đi chệch ra khỏi xu hướng quan trọng. Từ thập niên 1960 đến đầu 1990, số vụ khủng bố trên toàn thế giới tăng dần. Đỉnh điểm của các vụ khủng bố là vào thời gian 1991 – theo số liệu của RAND-MIPT là 450 vụ và vào năm 2000 chỉ còn 100 vụ.
Vào năm 2000 xu hướng này đảo chiều. Năm 2004, số vụ khủng bố lên tới 400 vụ/năm. Nhưng Andrew Mack, Giám đốc Trung tâm An ninh Con người của trường Đại học British Columbia, cơ quan chuyên thu thập thông tin và tìm ra đầu mối về các vụ khủng bố quốc tế, ghi nhận rằng, nếu bạn đặt Trung Đông ra khỏi thế giới, xu hướng này gần như bằng không. Nếu Nam Á cũng bị loại ra, sự suy giảm về các vụ khủng bố quốc tế mới bắt đầu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc còn mạnh mẽ hơn. Mack kết luận: “Điều đó cho thấy rằng các vụ khủng bố có sự suy giảm trên tất cả các khu vực trên thế giới trừ Trung Đông và Nam Á từ những năm 1990.”
Tất nhiên, các vụ tấn công không phải chỉ biểu hiện nguy cơ khủng bố. Nhưng chúng ta phải nhìn vào những thực tế. Trong những nước phương Tây, Vương quốc Anh phải đấu tranh nhiều nhất với khủng bố kể từ sau vụ 11/09 nhưng ở Anh chỉ có năm âm mưu được phát hiện trong ba năm sau vụ đánh bom tự sát ngày 07 tháng 07 năm 2005. Vào tháng 11 năm 2006, lãnh đạo cơ quan MI5 – cơ quan tình báo Anh tuyên bố rằng, cơ quan này biết thông tin của hơn 30 âm mưu khủng bố. Nếu chúng ta cho rằng, tất cả các âm mưu này chính là những cuộc tấn công sẽ xảy ra – và những cơ quan an ninh gần như bị vô hiệu hóa - một giả định gần như chắc chắn – chúng vẫn sẽ không khiến cho khủng bố trở thành mối nguy hiểm và ngày càng tăng đối với một nước Anh tương đối an toàn.
Bức tranh còn sáng sủa hơn tại Mỹ, khi các cơ quan an ninh và mật thám làm việc rất tích cực cũng chẳng tìm thấy điều gì đáng nghi ngờ. Vào tháng 03 năm 2005, hãng ABC đưa tin rằng, hãng này đã tiếp cận với một tài liệu bí mật dầy 32 trang của FBI cho rằng, hoạt động của mạng lưới Osama Bin Laden không hề bị phát hiện. Có thể bởi vì nó chẳng có hoạt động nào cả. Hãng ABC còn cho biết thêm “ý định tấn công nước Mỹ là không cần bàn cãi” của bọn khủng bố. “Tuy nhiên, khả năng tiến hành điều đó của chúng không mấy rõ ràng, đặc biệt là những cuộc tấn công “hoành tráng”. Chúng ta tin rằng, khả năng của Al-Qaeda có thể tổ chức những cuộc tấn công trên đất nước Mỹ phụ thuộc vào khả năng của tổ chức này thâm nhập và duy trì hoạt động của nó tại Mỹ... Những thống kê từ tháng 03 cho thấy Al-Qaeda tiến hành tuyển dụng và huấn luyện các cuộc tấn công tại Mỹ, nhưng vẫn còn chưa rõ liệu họ có thành công trong việc đặt gián điệp trên đất Mỹ hay không?... Cho đến hôm nay, chưa có cơ quan nào của Mỹ có thể đưa ra bằng chứng về một tổ chức hay mạng lưới khủng bố nào đang hoạt động bí mật.”
Chúng ta tin tưởng rằng sự kiện kiểu 11 tháng 09 không thể xảy ra là rất quan trọng. Tất cả chúng ta đều hiểu một quy luật cũ của các vụ không tặc - giữ bình tĩnh và hợp tác- đã không còn tác dụng, và nếu thiếu một nhóm nhỏ những tên khủng bố có trang bị vũ khí nhẹ thì khó có thể ra lệnh cho những phi công bình thường nhất. Các chuyên gia thậm chí còn nghi ngờ khả năng của bọn khủng bố có thể thực hiện những cuộc tấn công kiểu này bằng bất cứ phương tiện nào. Trưởng nhóm nghiên cứu khủng bố Brian Micheal Jenkins, trong cuốn sách Inconquerable Nation cho rằng: “Trong khi khả năng một cuộc tấn công khác có tầm cỡ như vụ 11 tháng 09 không hề bị loại bỏ hoàn toàn, các nhà phân tích khủng bố thống nhất rằng, những cuộc tấn công như vậy trên đất Mỹ là rất khó xảy ra.”
Các số liệu chứng tỏ rằng, nguyên nhân chính làm nhiều người chết do khủng bố là không hợp lý. Người ta đã không thể dự đoán được nguy cơ của sự kiện 11/09 cho tới khi nó xảy ra và gần như không thể nếu nó lại xảy ra một lần nữa. Vấn đề ở chỗ, nếu bọn khủng bố có trong tay vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMDS – Weapons of Mass Destruction), chúng có thể sử dụng để tạo nên sự hủy diệt khủng khiếp. Điều mới mẻ này khiến cho chủ nghĩa khủng bố là một nguy cơ vượt xa những nguy cơ khác. Micheal Ignaieff, Giáo sư Đại học Harvard và hiện là Phó Chủ tịch Đảng Tự do Canada nói: “Khủng bố, tự nó như là một cuộc chiến tranh, đang tự chuyển mình từ một cuộc chiến tranh thông thường thành một cuộc Thánh chiến.”
Nếu chỉ nhìn vào Israel, điều này là đúng. Khủng bố quốc tế hiện đại chủ yếu phát triển từ cuối những năm 1960. Trong suốt thời gian đó, Israel phải hứng chịu nhiều nhất. Với những tên khủng bố tồi tệ nhất thế giới - sẵn sàng buộc cả đống thuốc nổ vào những em bé – Israel chính là đối tượng nhắm tới, bị ghét bỏ. Mong muốn lớn nhất của chúng là quét sạch dân tộc nhỏ bé này ra khỏi bản đồ thế giới. Những tên khủng bố thường được hưởng sự bảo trợ của các nước Trung Đông vì cùng chung ước mơ hủy diệt “dân tộc Do Thái” nhưng không dám tấn công trực diện. Tuy vậy, Israel vẫn chưa bao giờ phải chịu đựng một cuộc tấn công của những tên khủng bố được trang bị vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMDS). Điều này rõ ràng cho thấy rằng, việc sử dụng loại vũ khí đó không dễ dàng như vài người trong chúng ta vẫn nghĩ.
Về lý thuyết, những tên khủng bố có thể sử dụng virus, vũ khí hạt nhân hay những loại vũ khí tương tự có thể kiếm được trên thị trường chợ đen nhưng điều này thường chỉ xảy ra trên những bộ phim như James Bond(1) và các bài báo lá cải chuyên cung cấp các loại tin đồn và suy đoán. Chúng cũng có thể giành được những loại vũ khí hủy diệt hàng loạt và rất mong muốn Israel hay Mỹ phải hứng chịu, nhưng bất kì một nhà lãnh đạo nào phát động một hành động như vậy đều phải cân nhắc rằng nếu, vai trò của ông ta trong cuộc tấn công bị lộ ra ngoài thì đất nước của ông ta sẽ nhanh chóng bị biến thành tro bụi. Đây là một điểm khác biệt lớn: Osama Bin Laden và những kẻ theo sau hắn có thể tử vì đạo nhưng Kim Jung In và những người lãnh đạo độc tài khác thì không. Các quốc gia này cũng phải cân nhắc rằng, họ có thể kiểm soát thời gian và bằng cách nào những tên khủng bố sử dụng những loại vũ khí mà họ cung cấp. Và họ lo ngại rằng “kẻ đại diện cho bọn khủng bố có thể không đáng tin cậy, có thể sử dụng các vũ khí đó để chống lại người bảo trợ cho chúng,” ghi nhận báo cáo năm 1999 tại Hội Nghị Gilmore - một hội nghị tư vấn quốc hội được đặt theo tên Chủ tịch của hội nghị, ông Jim Gillmore, cựu thị trưởng Virginia, một người theo đảng Cộng hòa. Những suy xét này đã khiến các nước đó trong hàng thập kỉ không cung cấp những vũ khí hạt nhân, hóa học hay sinh học cho bọn khủng bố. Chẳng có lý do gì nghi ngờ những lập luận này trong tương lai lại không tiếp tục thuyết phục.
Điều này tùy bạn phán xét. Các cơ quan truyền thông lại khiến người ta nghĩ rằng, các loại vũ khí hủy diệt có thể được sản xuất một cách dễ dàng với công thức tìm được trên Internet và một vài cái ống thí nghiệm. Thật may mắn, ủy ban Gilmore cho biết: “Những kẻ khủng bố gặp rất nhiều khó khăn khi muốn phát triển một thế hệ vũ khí hủy diệt hàng loạt và sát thương. Báo cáo này không cho rằng bọn khủng bố không thể sản xuất hay phổ biến các tác nhân sinh học, hóa học có khả năng gây sát thương hay thậm chí là giết chết một số lượng người nhất định... hay có thể khởi động một cuộc tàn sát lên tới cả trăm người. Điều cần nhấn mạnh là tạo ra một loại vũ khí với khả năng giết hàng chục ngàn người, đòi hỏi việc đào tạo chuyên nghiệp tại đại học trong một môi trường khoa học và kĩ thuật cao, với một nguồn tài chính dồi dào, cùng với những thiết bị hiện đại, khả năng tiến hành những thử nghiệm ở yêu cầu kĩ thuật cao để đảm bảo tính hiệu quả của vũ khí cũng như khả năng triển khai của các phương tiện chuyên chở các loại vũ khí này.” Yêu cầu của tiến trình này quá cao đến nỗi chúng "dường như, vào thời điểm hiện tại, nằm ngoài khả năng của không chỉ đa số các tổ chức khủng bố, mà còn nằm ngoài khả năng của rất nhiều nước trên thế giới.” Một bản báo cáo của Thư viện Quốc hội Mỹ công bố năm 2005 cũng cho thấy điều tương tự "các vũ khí hủy diệt khó sản xuất và sở hữu hơn nhiều những gì báo chí vẫn hay nói và ngày nay nó vẫn nằm ngoài khả năng của hầu hết các nhóm khủng bố."
Điều quan trọng cần nhớ rằng, dù sự hùng mạnh của Osama Bin Laden, chủ yếu dựa vào các cơ sở tại Afganistan, nhưng hắn đã thất bại. Hiệu trưởng Viện nghiên cứu Radcliffe của trường Đại học Harvard và một nhóm các nhà nghiên cứu hàng đầu về khủng bố, Louis Richardson đã viết: “Trong khi có vài lo ngại rằng các thành viên của Al-Qaeda thể hiện sự quyết tâm có được vũ khí hóa học, thì lại không có bằng chứng nào cho thấy chúng đạt được điều đó cả.” Không phải lúc nào tham vọng cũng song hành với khả năng.
Bin Laden không phải là người đầu tiên hiểu được điều này. Quá tập trung vào thế giới Hồi giáo cực đoan chúng ta đã quên mất một giáo phái cuồng tín đầu tiên đã đạt được và sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt trong khủng bố thuộc một giáo phái của Nhật Bản mang tên Aum Shirikyo. Aum do Shoko Asahara cầm đầu theo đuổi ý tưởng khởi động những cuộc tấn công khủng bố sát hại nhiều người với hi vọng sẽ thổi bùng lên một cuộc thánh chiến. Nguồn lực của Aum tương đối mạnh. Ở thời điểm đỉnh cao, giáo phái này có tới 60.000 thành viên. Ngoài Nhật Bản, giáo phái này còn có văn phòng tại Úc, Đức, Nga và thậm chí cả New York. Với nguồn lực là nhiều triệu đô la tiền mặt và tổng số tài sản có thể lên tới 1 tỉ đô la, Aum sở hữu những thành viên rất giỏi. Các thành viên thường đến từ các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản và các sinh viên xuất sắc trong các ngành sinh học, hóa học, vật lý, cơ khí khiến tổ chức này có những thiết bị và máy móc tốt nhất. Một nhà khoa học của Aum sau này thừa nhận rằng, nguyên nhân chính khiến ông tham gia vào giáo phái, đơn giản vì các phòng thí nghiệm của Aum tuyệt vời hơn nhiều so với những phòng thí nghiệm tại trường đại học của ông. Có những thời điểm, Aum có tới 20 nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu về vũ khí sinh học, và khoảng 80 loại vũ khí hóa học khác. Aum cũng tìm kiếm vũ khí hạt nhân, tổ chức này đã mua một trang trại rộng 500.000 héc-ta ở một vùng hẻo lánh của Úc với kế hoạch khai thác uranium và chở về Nhật Bản - “nơi các nhà khoa học sẽ sử dụng công nghệ làm giàu urani bằng laze để biến nó thành nguyên liệu phục vụ cho chế tạo vũ khí hạt nhân.” (Theo Ủy ban Gilmore). Tại Nga, Aum cố gắng mua số lượng lớn vũ khí “vì Nga nổi tiếng là thị trường cung cấp những loại vũ khí hiện đại như xe tăng, máy bay chiến đấu, tên lửa đất đối đất và thậm chí là cả vũ khí hạt nhân.”
Không có một cơ hội nào bị bỏ qua. Khi bệnh Ebola bùng phát tại Trung Phi vào tháng 10 năm 1992, Shoke Asahara đã dẫn đầu một đoàn 40 thành viên của giáo phái tới khu vực này dưới danh nghĩa cứu trợ nhân đạo. Các quan chức tin rằng, Aum đã cố gắng thu thập các mẫu chủng virus để có thể sản xuất hàng loạt tại Nhật Bản. Nhưng họ đã thất bại.
Đó không phải là thất bại duy nhất của Aum. Vụ tấn công sinh học nổi tiếng đầu tiên của nhóm liên quan tới việc phun chất botulinum - một chất cực độc gây ra ngộ độc thức ăn - từ ba chiếc xe tải vào các địa điểm được chọn là các cơ sở hải quân Mỹ, một sân bay, Tòa nhà quốc hội Nhật Bản và hoàng cung. Không ai bị nhiễm độc. Thậm chí cũng không ai biết là mình bị tấn công - sự việc chỉ được phát hiện sau đó 3 năm. Một vụ tấn công bằng botulinum nữa cũng thất bại vào tháng 6 năm 1993. Cùng năm đó, vụ tấn công bằng virus bệnh than đầu tiên bị thất bại. Tổng cộng giáo phái Aum đã tiến hành 9 vụ tấn công bất thành với hai loại vũ khí hóa học đáng sợ nhất nhằm mục đích khủng bố. Họ chẳng giết được ai cả. Điều này chứng tỏ, thậm chí cả Aum với nguồn lực phong phú, không thể nào vượt qua được rất nhiều rào cản thực tế để tàng trữ những dạng bệnh dịch chết người và phổ biến chúng một cách rộng rãi. Vì thế, giáo phái này đã chuyển sự chú ý sang các loại vũ khí hóa học và các tác nhân gây ảnh hưởng tới não. Bằng cách này, Aum đã đạt được một số thành công nhất định, sản xuất được số lượng lớn các loại khí mù tạt, xyanua có chứa natri, VX và sarin – hai chất sau là những loại khí tác động tới não bộ cực độc. Khi cảnh sát lục soát những cơ sở của Aum vào năm 1995, giáo phái này có đủ số lượng sarin để giết khoảng 4,2 triệu người.
Vậy mà điều kinh khủng cũng đã không xảy ra. Cuối cùng, một giáo phái âm mưu giết hàng triệu người và đã vượt qua mọi trở ngại để nắm giữ được vũ khí trong tay. Nhưng lại một lần nữa, Aum thất bại khi muốn gây ra một vụ hủy diệt hàng loạt.
Vào ngày 27 tháng 6 năm 1994, một số thành viên Aum lái chiếc xe tải thùng tới một khu dân cư tại Matsumoto, Nhật Bản. Bên trong xe, bọn khủng bố đã kích hoạt hệ thống máy tính điều khiển làm nóng sarin dạng lỏng thành hơi và thổi nó vào không khí bằng quạt gió. Điều kiện gió thật lý tưởng, những đám mây chết chóc hướng về những ô cửa đang mở trong không khí buổi tối ấm áp. Hậu quả là bảy người đã chết và 140 người bị ngộ độc nặng.
Vào ngày 20 tháng 03 năm 1995, Aum lại thử cách khác. Năm thành viên ăn vận như những doanh nhân và mang ô bước vào năm tuyến tàu lửa khác nhau của hệ thống tàu điện ngầm rất đông đúc tại thủ đô Tokyo. Họ mang tất cả 11 túi nhựa chứa đầy sarin. Những kẻ khủng bố dùng ô chọc thủng những chiếc túi được đặt trên sàn tàu và tháo chạy ra khỏi tàu. ba trong số 11 túi không bị thủng, 8 chiếc khác làm tràn ra ngoài khoảng 4,5kg chất sarin. Khi chất lỏng này bị phát tán ra ngoài, nó sẽ bốc hơi: 12 người đã chết, 5 người khác bị ngộ độc nặng nề nhưng cuối cùng đã được cứu sống, 37 người khác bị thương nặng, trong khi 984 người nữa bị những biểu hiện nhẹ hơn.
Các quan chức Nhật Bản lập tức truy tìm và bố ráp các cơ sở của Aum trên khắp cả nước và rất ngạc nhiên trước những gì họ phát hiện ra. Bên cạnh quy mô của những hoạt động chết người, những nỗ lực của nhóm này để sở hữu những phương tiện giết người, những vụ tấn công khủng bố, cảnh sát chẳng biết gì hơn. Thật khó hình dung một kịch bản tồi tệ hơn: một giáo phái cuồng tín với một tham vọng chất chứa khởi động sự giết chóc tốn kém, một mạng lưới quốc tế, các phòng thí nghiệm và các thiết bị hiện đại, những nhà khoa học được đào tạo tại những trường đại học hàng đầu, và hàng chục năm trời gần như tự do theo đuổi các hoạt động của nó. Nhưng tổng số người chết trong 17 cuộc tấn công của Aum với các loại vũ khí hóa học và sinh học ít hơn nhiều so với 168 người đã chết tại thành phố Oklahoma khi Timothy McVeigh phát nổ một quả bom được làm từ thuốc phân bón và dầu chạy xe máy.
Ủy ban Gilmore đưa ra kết luận: “Các kinh nghiệm của Aum cho thấy – khác với sự tin tưởng của đa số - những tổ chức khủng bố đơn lẻ không có một quốc gia hỗ trợ sẽ vấp phải những rào cản công nghệ rất lớn trong việc tiếp cận và gieo rắc những vũ khí sinh học và hóa học hiệu quả.” Yếu tố cơ bản dẫn tới sự thất bại này, theo Ủy ban, là môi trường bên trong của các tổ chức thường được thống trị bằng những niềm tin tôn giáo mù quáng. “Các nhà khoa học của Aum, bị cô lập về mặt xã hội và thể chất, bị một người lãnh đạo cuồng tín, xa lánh hiện thực và không thể đưa ra những phán xét chính xác.”
Đối với những kẻ khủng bố "ôm mộng" về một cuộc Thánh chiến, điều đó thật đáng thất vọng. Al-Qaeda và những kẻ khủng bố Hồi giáo khác còn không có nhiều lợi thế như Aum. Chúng không hề có tiền, cơ sở vật chất hay các thiết bị, khả năng di chuyển tự do. Quan trọng nhất là, chúng không có những nhà khoa học dù Al-Qaeda đã cố gắng tuyển dụng thêm những nhà khoa học được đào tạo nhưng thất bại, đó chính là lý do vì sao chúng không bao giờ có thể thể hiện dù chỉ là một phần khả năng công nghệ mà Aum đã từng có. Một yếu tố mà chúng chia sẻ với giáo phái Nhật Bản này là không khí căng thẳng trong giáo phái đã khiến những nỗ lực của Aum thất bại.
Kinh nghiệm của Aum cho thấy, những cuộc tấn công khủng bố hủy diệt sử dụng các vũ khí hóa học, sinh học là hoàn toàn có thể, nhưng chúng cũng nhận ra rằng, có rất nhiều khó khăn. Đó là nguyên nhân bọn khủng bố thường thích dùng bom và súng đạn – hay trong những vụ khủng bố tồi tệ nhất trong lịch sử, đó là những chiếc hộp đựng bom và những chiếc vé máy bay.
Tất nhiên, con số này sẽ thay đổi nếu các vũ khí đó là hạt nhân. Ủy ban Gilmore cho biết rằng: “Có lẽ, cách duy nhất để bọn chúng có thể gây ra một vụ khủng bố có tính chất hủy diệt thực sự chính là sử dụng vũ khí hạt nhân.” Một vụ tấn công bằng hạt nhân sẽ là một nỗi khủng khiếp không thể nào tưởng tượng được và hậu quả khủng khiếp của nó chắc hẳn sẽ khơi gợi những cảm xúc mạnh mẽ đủ để người ta suy nghĩ tới bất kì khả năng nào có thể xảy ra. Đó là một sai lầm. Xác suất chính là yếu tố quan trọng được xem xét khi đối mặt với nguy cơ, những nguy cơ – đặc biệt là nguy cơ thảm khốc. Cuối cùng, đối với con người, nguy cơ khủng khiếp nhất không phải là khủng bố hạt nhân mà là sự va chạm với một thiên thạch hay một ngôi sao chổi với diện tích gần bằng trái đất. Nếu chúng ta xem xét khả năng gây hủy diệt của một sự kiện như vậy và bỏ qua việc tính toán xác suất xảy ra của nó, thì có lẽ chúng ta sẽ bỏ ra hàng tỉ tỉ đô la đầu tư vào việc xây dựng hệ thống phòng thủ toàn cầu rộng lớn và không thể xâm nhập. Nhưng có rất nhiều người – bao gồm cả những du hành vũ trụ, những người mong muốn chúng ta bỏ ra một chút ít tiền để khám phá ra các thiên thạch đó - sẽ nói rằng sự đầu tư đó là ngu ngốc, bởi vì khả năng xảy ra của một vụ va chạm như vậy là cực kì nhỏ và số tiền đó có thể làm được nhiều việc tốt cho trái đất. Chúng ta không nên lờ những nguy cơ đi – từ chối bỏ ra chút tiền để phát hiện, làm chệch hướng những thiên thạch và tính toán khả năng va chạm đó là không đúng đắn - nhưng chúng ta cũng không nên phát rồ lên vì điều đó. Hãy giữ thái độ bình tĩnh đó đối với khủng bố hạt nhân.
Tỉ lệ xác suất một thành phố Mỹ bị ném bom nguyên tử là bao nhiêu? Khi mà không có số liệu, tất cả những gì chúng ta có thể làm là quan sát sự phức tạp về xây dựng, sự khan hiếm vũ khí hạt nhân và đưa ra phán xét đúng đắn.
Ủy ban Gilmore đã làm thế. Ủy ban này bắt đầu nhận thấy rằng, sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết không phải là do vũ khí hạt nhân của Chính quyền Xô viết bất ngờ xuất hiện trên thị trường chợ đen, dù người ta luôn lo ngại điều này suốt những năm 1990. Đặc biệt báo cáo còn cho biết: “Những loại vũ khí hạt nhân có thể mang trong vali” của Nga đã tuồn ra ngoài mà không bị ngăn chặn, trong bất kì một sự vụ nào, các vũ khí này đều cần một chế độ bảo trì để có thể hoạt động tốt. Việc buôn lậu và sở hữu một trái bom không hề đơn giản vì các thiết bị bảo vệ cho một vũ khí hạt nhân thông thường cần có tem chống nước bảo vệ và những biện pháp an ninh khác được thiết kế nhằm ngăn chặn chính xác tình huống xấu có thể xảy ra.
Tùy bạn suy nghĩ, nhưng việc này không thể xảy ra trong một gara thông thường tại vùng ngoại ô nào đâu. Theo Ủy ban Gilmore: “Xây dựng cơ sở cất giữ và bảo quản một thiết bị vũ khí hạt nhân có khả năng hủy diệt hàng loạt cần rất nhiều công sức và phải vượt qua rất nhiều thử thách đối với bọn khủng bố, ngay cả với các quốc gia trên thế giới với một nguồn lực lớn cũng như các chương trình xây dựng rất lớn.” Vào những năm 1980 Saddam Hussein đổ biết bao nhiêu tiền kiếm từ dầu mỏ vào việc nghiên cứu vũ khí hạt nhân nhưng đã không thể nào chế tạo nổi, dù chỉ là một vũ khí trước khi chiến tranh vùng vịnh xảy ra, và điều đó làm tiêu tan tham vọng của ông ta.
Điều đó có thể xảy ra hay không? George Tennet, cựu Giám đốc cơ quan tình báo Mỹ CIA đã viết trong Hồi kí của ông: “Chúng ta cần biết rằng, sở hữu vũ khí hạt nhân không nằm quá khả năng của một nhóm khủng bố. Việc đó sẽ làm cho Al-Qaeda trở nên hùng mạnh và là cơ hội tốt để mối đe dọa từ Bin Laden phá hủy nền kinh tế của chúng ta và mang chết chóc đến từng ngôi nhà trên đất nước Mỹ trở thành hiện thực.” Cựu Tổng Thư kí Liên Hợp Quốc Kofi Anna đã nói: “Nếu một cuộc tấn công hạt nhân của bọn khủng bố xảy ra, nó sẽ không chỉ gieo rắc cái chết ở khắp mọi nơi mà còn kéo lùi nền kinh tế thế giới và đẩy hàng chục triệu người vào sự đói nghèo dai dẳng.”
Theo tính toán thì một cuộc khủng bố bằng hạt nhân thành công ở khu vực trung tâm thành phố có thể giết chết khoảng 100.000 người. Với tổng số người chết là 100.000 người thì xác suất đối với một người Mỹ bị chết trong một cuộc tấn công như vậy là 0.033% hay là 1/3.000 (cứ 3.000 người có một người bị chết). Tổng số 100.000 người chết không nhiều hơn là mấy so với số người Mỹ chết vì tiểu đường mỗi năm – 75.000 người – và gần xấp xỉ con số người Mỹ bị chết vì tai nạn giao thông hằng năm. Vì thế, nếu xét về số thương vong thì một cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân khó có thể trở thành một cuộc thánh chiến đẫm máu được.
Tuy nhiên, người ta thường hay suy luận rằng, một cuộc tấn công như thế còn có thể gây ra sự hoảng sợ cực độ và thậm chí là dẫn tới sự sụp đổ của một trật tự xã hội. Sự suy luận này dựa trên thói quen thiếu tin tưởng lâu dài. Hàng thập kỉ người ta nghiên cứu về cách con người xử sự trong những tình huống khẩn cấp cho thấy rằng, sự hoảng loạn là khá hiếm. “Ngay cả khi con người đối mặt với những gì được coi là tình huống xấu nhất, họ vẫn cố gắng tìm sự giúp đỡ và bảo vệ cho bản thân và cho bạn bè mình, thậm chí với cả những người hoàn toàn xa lạ.” Lee Clarke, một nhà xã hội học tại trường Đại học Rutger đã viết như vậy. Ngay cả khi con người bị kẹt trong đám đổ nát đang bốc cháy của một chiếc máy bay gặp nạn thì họ cũng luôn nhìn nhận nhu cầu của người khác hơn là gào thét và cố gắng tìm sự an toàn cho riêng bản thân. Chúng ta cần thiết phải học được điều này từ vụ 11 tháng 09 năm 2001, khi mà những người Mỹ đã phản ứng lại cuộc khủng bố bằng sự tự trọng, tình yêu thương, sự hợp tác và lòng khoan dung, hào hiệp.
Một cuộc tấn công khủng bố bằng hạt nhân có thể gây ra thiệt hại nặng nề về kinh tế nhưng tuyên bố của George Tennet rằng nó sẽ “hủy diệt” nền kinh tế Mỹ là cường điệu. Một lần nữa, theo những bằng chứng từ sự kiện 11 tháng 09, cuộc không kích tất nhiên không phải là cuộc tấn công bằng hạt nhân, nhưng chúng đã thực sự hủy hoại hai tòa nhà được coi là trung tâm tài chính quan trọng của chủ nghĩa tư bản Mỹ, đánh vào thành phố quan trọng nhất nước Mỹ, làm ngành Hàng không Mỹ lao đao, và khiến ngành thương mại cũng như xã hội Mỹ "rùng mình kinh hãi". Như dự đoán, thị trường chứng khoán thế giới đã chao đảo, nhưng nó cũng chỉ mất 40 ngày để chỉ số công nghiệp Dow Jones trở lại điểm số của phiên đóng cửa ngày 10 tháng 09 năm 2001. William Dobson đã viết trong tạp chí Foreign Policy nhân kỉ niệm 5 năm vụ khủng bố 11 tháng 09: “Điều đáng ghi nhận là thế giới thay đổi rất ít” sau sự kiện đó. Giá trị xuất khẩu của Mỹ tiếp tục tăng đều đặn, và trong khi giá trị thương mại toàn cầu giảm nhẹ trong năm 2001 từ 8 ngàn tỉ đô la xuống còn 7,8 ngàn tỉ - nó là một năm tồi tệ trước khi vụ khủng bố xảy ra - “dường như là cuộc đua đã trở lại và thương mại toàn cầu tăng 12 ngàn tỉ đô la vào năm 2005.” Nền kinh tế Mỹ không bị tàn phá, thay vào đó, nước Mỹ lại bước vào thời kì phát triển mới, thậm chí thành phố New York còn cho thấy nó sẽ bước vào một thời kì hoàng kim.
Một sự kiện nữa chứng tỏ sức mạnh nội tại của xã hội Mỹ là trận bão Katrina hồi tháng 8 năm 2005 xảy ra tại New Orleans. Hơn 1.500 người chết, trong khi những người khác đều phải đi sơ tán. Nếu so sánh trận bão với một cuộc tấn công hạt nhân thì sẽ không chính xác lắm song những gì chúng ta chứng kiến ở đây là một thành phố lớn của Mỹ đột nhiên bị tàn phá và bị bỏ hoang. Kinh nghiệm này quả là tồi tệ và thiệt hại về vật chất lên tới 80 tỉ đô la là quá lớn. Nhưng nước Mỹ không hề bị suy yếu đi. Nền kinh tế đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng, và sự thiệt hại của một trong những thành phố lớn nhất của Mỹ đã không thể ảnh hưởng tới sức mạnh quân sự, chính trị và văn hóa của Mỹ.
Vì thế, chúng ta hãy xem xét lại tất cả. Đầu tiên, vụ 11 tháng 09 là một tai họa khủng khiếp do chủ nghĩa khủng bố gây ra. Thứ hai, bao gồm cả số người chết trong vụ 11 tháng 09, chủ nghĩa khủng bố đã đặt một nguy cơ rất nhỏ vào cuộc sống của bất kì một công dân Mỹ hay phương Tây nào. Thứ ba, ngay cả khi nếu có một loạt các cuộc khủng bố nhằm vào Mỹ, mỗi vụ tương đương với vụ 11 tháng 09, nguy cơ đối với người Mỹ cũng vẫn nhỏ hơn những nguy cơ khác mà mọi người thường bỏ qua. Thứ tư, ngoài khu vực Trung Đông và Nam Á, tỉ lệ những vụ khủng bố quốc tế giảm trong vòng một thập kỉ rưỡi vừa qua. Thứ năm, rất khó để cho bọn khủng bố trên thế giới sở hữu những vũ khí sinh học, hóa học và đặc biệt là vũ khí hạt nhân, ngay cả khi nếu chúng có thể vượt qua được rất nhiều rào cản và nếu một vụ tấn công thành công cũng sẽ làm tổn hại rất ít – chứ không giống như những gì chúng ta hay tưởng tượng về một vụ khủng bố khủng khiếp chỉ có trong những cơ ác mộng. Thứ sáu, ngay cả nếu bọn khủng bố có thực hiện thành công một vụ tấn công với số người chết lớn hơn nhiều lần so với vụ 11 tháng 09, nguy cơ đối với một người Mỹ vẫn nhỏ và nước Mỹ vẫn là một đất nước hùng mạnh và giàu có nhất trong lịch sử loài người.
Cuối cùng, điều thứ bảy, gần nửa người Mỹ đang lo lắng rằng họ hoặc gia đình họ có thể bị bọn khủng bố giết chết – sự lo lắng ngày càng cao qua các cuộc khảo sát, dù không hề có cuộc tấn công khủng bố nào sau vụ 11 tháng 09 năm 2001.
Mọi người lo lắng sau vụ 11 tháng 09 là rất có lý. Tâm lý học có thể giải thích điều này. Ở một mức độ nào đó, chuyện tương tự cũng xảy ra với vụ đánh bom tại Oklahoma năm 1995. Sau một thời gian, điều đáng nói ở đây là sự lo lắng giảm dần và những điều kinh khủng đã không trở thành hiện thực. Nhưng các nhà tâm lý học không thể giải thích tại sao sự suy giảm lo ngại lại dừng lại, hay tại sao mà nó lại tăng lên khi mà nước Mỹ tiếp tục không bị khủng bố tấn công sau mỗi năm.
Để hiểu được điều này, chúng ta phải quay trở lại ngày 12 tháng 09 năm 2001, và tuyên bố của Tổng thống Mỹ George W. Bush rằng, đó “còn hơn cả những hành động khủng bố. Đó chính là hành động chiến tranh… Tự do và dân chủ đang bị thử thách.” Thủ tướng Anh Tony Blair sau đó 4 ngày cũng có bài thuyết trình về vụ việc này khi ông cảnh báo: “Chúng ta biết rằng, chúng sẽ, nếu có thể, đi xa hơn và sử dụng vũ khí sinh học hay hóa học, thậm chí là cả vũ khí hạt nhân gây hủy diệt hàng loạt.” Những phát biểu này như tái hiện lại sự tàn phá của cuộc tấn công 11 tháng 09. Thay vì đó là kết quả của 19 kẻ cuồng tín được trang bị vũ khí hiện đại, tối tân và nhờ may mắn, bọn khủng bố đã thể hiện một bằng chứng rõ ràng về sức mạnh, khả năng công phá mạnh mẽ. Thay vì nhìn nhận sự việc như là một biến thái khủng khiếp của chủ nghĩa khủng bố, người ra lại thấy đó là một sự Bình Thường mới – tiên đoán những vụ khủng bố tương tự sẽ xảy ra - và dấu hiệu cho thấy những điều tồi tệ nhất sẽ tới.
Giới truyền thông chộp ngay lấy những phát biểu này và “mọi thứ đã thay đổi” trở thành câu cửa miệng của mọi người. Chúng ta đã bước vào “thời kì của khủng bố”. Một số kẻ bảo thủ còn dự đoán một cuộc “chiến tranh thế giới thứ ba” hay bốn, cho những ai tin rằng Chiến tranh Lạnh là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Tổng thống Mỹ đã thể hiện sự ủng hộ quan điểm này bằng việc nhắc tới vụ khủng bố hành khách trên chuyến bay 93 như là “cuộc tấn công đầu tiên của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ ba”. Một cụm từ hay được dùng nữa đó là “cuộc chiến sinh tồn”, điều này liên hệ với việc sự sống còn của nước Mỹ đang trong tình trạng nguy hiểm. Những người khác còn đi xa hơn. Tổng thống Bush tuyên bố vào tháng 10 năm 2001 rằng “Cuộc xung đột này là cuộc chiến cứu cả thế giới văn minh”. Sự kết thúc đầy logic của bài hùng biện còn liên hệ tới cả Irwin Cotler, Bộ trưởng Tư pháp, Đảng viên đảng Tự do Canada và là một nhà hoạt động nhân quyền xuất sắc, người luôn gán Chủ nghĩa khủng bố là “mối đe dọa hiện hữu đối với nhân loại.”
Sự kiện 11 tháng 09 và những gì xảy ra sau đó có thể trở thành nổi tiếng bằng nhiều cách, nhưng việc Tổng thống Mỹ lựa chọn cách gọi “chiến tranh vào chủ nghĩa khủng bố” – để chỉ một xung đột toàn cầu giữa các lực lượng đầy sức mạnh mà chỉ có thể kết thúc trong chiến thắng hay hủy diệt – khiến cả bộ máy chính quyền của ông bị mắc kẹt trong đó. Thông điệp Liên bang được phát biểu vào tháng 01 năm 2002, ông tuyên bố: “Thế giới văn minh đang đối mặt với những mối hiểm nguy không thể lường trước được.” Trong bản Kế hoạch chiến lược quốc gia công bố năm 2002, ông cảnh báo: “Trừ khi chúng ta có những hành động ngăn chặn, nếu không một làn sóng khủng bố mới, có tiềm năng sở hữu những loại vũ khí có sức hủy diệt mạnh nhất thế giới, sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng cả tương lai của nước Mỹ. Đó là một thử thách khó khăn nhất mà đất nước chúng ta đã từng đối mặt… Ngày nay, bọn khủng bố có thể tấn công bất kì nơi đâu, vào thời gian nào và với bất cứ loại phương tiện gì.”
Năm 2005 trong bài phát biểu toàn liên bang, Tổng thống một lần nữa lại nói về cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố như là chủ nghĩa mới nhất trong danh sách những chủ nghĩa mà nước Mỹ phải đấu tranh chống lại và rằng: “Một lần nữa, đất nước và những người bạn của chúng ta lại phải đứng giữa một thế giới hòa bình và một thế giới của xung đột với những cảnh báo không ngừng.”
Năm 2006, Trưởng cơ quan An ninh Quốc gia Micheal Chertoff có bài diễn văn kỉ niệm 5 năm sự kiện 11 tháng 09 rằng, nước Mỹ đã nổi lên “từ cuộc Chiến tranh Lạnh và cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai” chỉ để "đối mặt với một thử thách mới mà mỗi giây phút trôi qua lại nguy hiểm hơn rất nhiều những thử thách mà chúng ta đã phải đối mặt trong những thập niên trước.”
Năm 2007, trang web của Nhà Trắng gọi cuộc tấn công khủng bố 11 tháng 09 “hành động của chiến tranh chống lại nước Mỹ, chống lại những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới và chống lại mọi nguyên tắc tự do và giá trị con người.”
Nhưng chính quyền Bush nhắc đi nhắc lại đề tài này không ngớt. Hàng chục triệu người Mỹ cuối cùng đã tin tưởng rất mạnh mẽ rằng, chủ nghĩa khủng bố là một mối nguy hiểm ghê gớm với cá nhân họ. Đó là những mà Cái Bụng nói với họ. Cái Đầu có thể đã bị can thiệp, nhưng nó đã không làm điều đó. Vì sao? Chính quyền nói Cái Bụng đã đúng. Cả nước Mỹ, thậm chí cả nền văn minh này đang ở trong tình trạng nguy hiểm.
Tổng thống không bao giờ nói rằng, nghiêm trọng như khủng bố nhưng nó không đặt một nguy cơ vào bất kì ai cụ thể. Ông ấy không bao giờ nói: “Hãy bình tĩnh”. Ông ấy cũng không nói rằng: “ Bạn rất có thể bị chết vì sét đánh”. Đã vậy, các chính trị gia khác, cả đảng Dân chủ và Cộng hòa đều làm giống Tổng thống. Tháng 06 năm 2007, Thị trưởng New York Micheal Bloomberg phát biểu trên tờ New York Times: “Có rất nhiều mối nguy hiểm rình rập khắp nơi trên thế giới.” Ông ta cũng đã nhắc tới một vài nguy cơ khác, trong đó có cả những cơn đau tim và những vụ sét đánh. “Bạn không thể ngồi đây và lo lắng về mọi thứ. Hãy tận hưởng cuộc sống!” Cảm giác này thật tuyệt nhưng Bloomberg cơ bản là đã lờ đi khả năng gây chết người của các cơn đột quỵ - một nguy cơ đáng kể đối với hầu hết mọi người khi đem nó ra so sánh với các vụ tấn công khủng bố. Chỉ có John Mc Cain là hướng người Mỹ tới sự không thể: “Hãy đi vào thang máy chết tiệt đi. Hãy bay với những máy bay chết tiệt đi! Hãy tính toán rủi ro gặp phải khủng bố! Xác suất của những việc này cũng giống như bạn bị quét ra biển khi có một con sóng thủy triều vậy. Rất nhỏ.” Không may, Mc Cain chỉ đưa ra cảnh báo này trong một cuốn sách năm 2004. Những tuyên bố ra công chúng, trước và sau, đều giống với những gì mà chính giới Mỹ đang tin tưởng rằng: Chúng ta đang ở trong cuộc chiến với một kẻ thù nguy hiểm.
Nước Mỹ thực sự đã phát động một cuộc chiến tranh trong vòng một năm rưỡi sau vụ 11 tháng 09 nhưng kẻ thù trong cuộc chiến tranh này không phải là Bin Laden mà là Saddam Hussein. Không có bằng chứng nào chứng tỏ nhân vật độc tài người Iraq này có dính líu gì tới vụ 11 tháng 09, nhưng rõ ràng là những nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ đang tìm kiếm cơ hội để phế bỏ nhân vật độc tài người Iraq khi họ bước vào Nhà Trắng tháng 01 năm 2001. Và điều đó được tính toán rất cẩn thận – không chỉ bởi Richard Clarke, Trưởng cơ quan chống khủng bố của Nhà Trắng – rằng chính quyền thực hiện những nỗ lực để trói chặt Hussein có liên quan tới vụ 11/09. Chìa khóa để hoàn thành cả hai mục tiêu này là mối đe dọa của bọn khủng bố đang nắm giữ vũ khí giết người hàng loạt.
Câu chuyện đã được làm rõ vào thời gian mà Tổng thống truyền đi Thông điệp Liên bang đầu tiên trong thời gian đương nhiệm của mình, vào ngày 29 tháng 01 năm 2002. “Khi chúng ta có mặt tại đây đêm nay, đất nước của chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh. Kinh tế của chúng ta đang suy thoái, và thế giới văn minh đối mặt với những hiểm nguy không lường trước được. Iraq tiếp tục tỏ ra đối đầu với Mỹ và ủng hộ cho khủng bố. Chính quyền tại Iraq đã âm mưu phát triển bệnh than và các loại khí độc và vũ khí hạt nhân từ hàng thập kỉ trước. Bush cũng chỉ rõ Iraq và Bắc Triều Tiên: “Những nước như vậy, và các nước đồng minh khủng bố, tạo thành một trục ma quỷ, đã chế tạo nhiều loại vũ khí đe dọa hòa bình thế giới. Bằng cách tìm kiếm các loại vũ khí hủy diệt, những thể chế này làm gia tăng sự hiểm nguy. Chúng có thể cung cấp những trợ giúp cho bọn khủng bố, tạo điều kiện để chúng thể hiện sự tức giận. Chúng có thể tấn công các đồng minh của chúng ta hoặc gửi những thư nặc danh cho nước Mỹ. Trong bất cứ trường hợp nào, cái giá của sự thờ ơ chính là một thảm họa.”
Chủ đề tương tự cũng xuất hiện trên một tài liệu bí mật gây tai tiếng có tên là “Downing Street Memo” được soạn thảo vào tháng 7 năm 2002, bị tiết lộ ra ngoài sau cuộc chiến. Trong tài liệu này, người đứng đầu cơ quan tình báo Anh MI6, tường thuật lại cuộc trao đổi của ông tại Washington: “Có một sự thay đổi về nhận thức. Hành động quân sự giờ đây được coi là không thể tránh khỏi. Bush muốn loại bỏ Saddam, thông qua một hành động quân sự, được hợp lý hóa là có mối liên hệ với khủng bố và WMD. Các tin tức tình báo và số liệu đã được kết hợp với nhau để phục vụ cho chính sách này.”
Vào thời gian Thông điệp Liên bang tiếp theo được phát đi trên truyền hình Mỹ vào tháng 01 năm 2003, chính quyền Bush đã chuẩn bị sẵn sàng để tấn công Iraq. Giọng điệu của Tổng thống Bush mạnh mẽ, cứng rắn chẳng khác nào cuốn tiểu thuyết của Tom Clancy: “Saddam Hussein đã bảo trợ và ủng hộ chủ nghĩa khủng bố, bao gồm cả các thành viên thuộc mạng lưới Al-Qaeda. Một cách bí mật và không hề để lại dấu vết gì, ông ta đã cung cấp một trong những vũ khí bí mật của mình cho bọn khủng bố, và giúp chúng phát triển vũ khí. Trước vụ 11 tháng 09, rất nhiều người trên thế giới tin rằng, Saddam cần được ngăn chặn. Nhưng các hóa chất, các virus gây chết người và mạng lưới khủng bố bí mật không phải dễ dàng chặn đứng. Hãy tưởng tượng 19 tên không tặc với các lại vũ khí khác nhau và các kế hoạch khác nhau – lần này được Saddam trang bị vũ khí. Điều này có thể mang một lọ thủy tinh nhỏ, một hộp đựng bánh, một cái sọt trượt vào đất nước này để mang lại một ngày khủng khiếp mà chúng ta chưa bao giờ chứng kiến... Chúng ta sẽ làm mọi việc trong khả năng của mình để chắc rằng ngày đó sẽ không tới.”
Đối với Cái Bụng, kịch bản này được phát đi từ Nhà Trắng thật đáng sợ dưới hai góc độ. Một, đó là sự phức tạp của câu chuyện. Saddam Hussein có thể phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt; ông ta có thể cung cấp vũ khí đó cho bọn khủng bố và chúng có thể sử dụng vũ khí để tấn công nước Mỹ. Như chúng ta đã nhìn nhận từ trước, mọi cái “có thể” dẫn tới hàng loạt những sự kiện này cần phải xảy ra trước đã thì tai họa khủng khiếp cuối cùng mới thành hiện thực. Chính vì lý do đó mà kịch bản càng phức tạp thì càng ít khả năng xảy ra. Nhưng đó ko phải là những gì mà Cái Bụng nghĩ. Nếu một trong những chuỗi dữ kiện trên tấn công chúng ta – như một trận động đất tại California – nó sẽ khởi động Quy luật Điển hình và Cái Bụng sẽ kết luận rằng, cái kịch bản tổng thế này có thể xảy ra mà chẳng dựa trên suy luận logic. Yếu tố “điển hình” trong câu chuyện do chính quyền Mỹ dựng lên đã rõ ràng. “Liệu ai có thể nghi ngờ rằng, nếu Bin Laden và Al-Qaeda sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, chúng sẽ không sử dụng trong vụ tấn công 11/09 thay vì không tặc những chiếc máy bay?” Richard Lessner – Giám đốc Hiệp hội Bảo thủ Hoa Kỳ2 đã viết như vậy trên Weekly Magazine, một tạp chí của phái bảo thủ. Đúng vậy, Cái Bụng suy nghĩ đúng như thế. Và vì thế kịch bản đó hiện thực hơn bao giờ hết.
Tất nhiên có một khả năng khác là Cái Bụng sẽ thậm chí là chẳng bao giờ xem xét xung quanh xác suất của kịch bản này. Những lời cảnh báo của chính quyền thật đáng sợ, ngôn ngữ sống động – “Chúng ta không hề muốn những khẩu súng bốc khói trở thành một đám mây hình nấm(2) – và thứ cảm xúc mà những lời cảnh báo này khơi gợi lên đủ để lấn át mọi sự suy xét của trực g