KẾT LUẬN
Ở trung tâm của Ontario gần nơi bố mẹ tôi sống có một khu nghĩa trang nhỏ với những ngôi mộ bằng sắt và đá đứng trơ trọi qua cả trăm năm dưới thời tiết khắc nghiệt. Nơi đây đã từng là một nông trại. Những người đầu tiên tới đây vào cuối thế kỉ 19 đã đốn cây, làm nhà và khám phá ra, sau rất nhiều ngày lao động nhọc nhằn, những cánh đồng mới của họ là một dải đất mỏng nằm trên một mỏ đá granite trải dài Cao nguyên Canada. Hầu hết các nông trại chỉ tồn tại được một hai thế hệ trước khi những cánh đồng bị những cánh rừng bao phủ. Ngày nay chỉ còn những nghĩa trang nhỏ.
Những người đầu tiên đến đây định cư là những người nghèo nhưng họ luôn cố gắng mua những ngôi mộ to nhất có thể. Họ muốn được người đời sau ghi nhớ mãi họ là ai. Họ biết rằng sự tồn tại của họ thật mong manh. Mộ chí cần phải trường tồn. Một bia mộ nhỏ có ghi: “Các con của James và Janey Morden”. Đó là một ngôi mộ dài chừng gần 2m. Ngôi mộ có ghi đứa con đầu tiên của họ chết là Charles W. Morden. Nó mới chỉ 4 tuổi và 9 tháng khi mất.
Đó là mùa đông năm 1902. Cậu bé chắc hẳn đã kêu đau họng. Cậu mệt và khi mẹ cậu sờ trán thì thấy cậu hơi sốt. Một hai ngày trôi qua Charles chỉ nằm trên giường và dần tái xanh đi vì yếu. Tim cậu đập nhanh. Da cậu nóng bỏng lên và cậu bắt đầu nôn mửa. Họng cậu sưng lên vì thế mỗi hơi thở với cậu là một trận chiến và đầu cậu không thể nào cử động dưới cái gối ướt đẫm. Mẹ cậu bé, Janey, chắc hẳn đã biết được đến căn bệnh vô phương cứu chữa đang hành hạ đứa con trai nhỏ của bà và thậm chí chỉ gọi tên căn bệnh đó bà cũng không dám.
Sau đó em trai của Charles, Earl, cũng bắt đầu khóc. Họng của cậu cũng sưng tấy lên và cậu bắt đầu kêu la. Và cậu cũng bị sốt. Albert, đứa con trai lớn nhất, cũng bắt đầu thấy mệt, đau họng.
Charles W. Moden chết vào thứ Ba ngày 14 tháng 01 năm 1902. Bố của cậu chắc hẳn là đã gói thân thể của cậu bé vào trong một chiếc chăn và vượt qua những lớp tuyết dày mang cậu tới khu nhà kho. Cái lạnh giá đã giữ cho thân thể của cậu không bị thối rữa suốt cả mùa đông, chờ đến mùa xuân khi nhiệt độ tăng làm tan băng bố cậu mới có thể đào đất chôn đứa con trai nhỏ. Ngày hôm sau, cả Earl và Albert cũng chết. Earl mới hai tuổi 9 tháng, còn Albert mới 6 tuổi 4 tháng. Bố của các cậu chắc hẳn cũng sẽ ôm hai đứa con trong hai chiếc chăn khác và mang đến kho thóc.
Sau đó những đứa con gái cũng bắt đầu ốm. Vào ngày 18 tháng 01 năm 1902 đứa lớn nhất Minnie Morden chết khi mới 10 tuổi. Em của nó là Ellamanda 7 tuổi cũng chết cùng ngày. Chủ nhật ngày 19 tháng 01 năm 1902 một cơn sốt cũng đã mang đi đứa con nhỏ nhất của họ, Dorcas, mới chỉ 18 tháng tuổi. Lần cuối cùng James Morden gói đứa con nhỏ nhất vào một cái chăn và băng qua tuyết đến nhà kho, đặt nó xuống nền nhà kho lạnh và tối, gần với các anh, chị của nó chờ mùa đông qua.
Trận sốt đã làm những đứa trẻ nhà Morden chết vào mùa đông năm 1902 tràn qua những trang trại xung quanh và khiến hai bé Elias và Laura – nhà hàng xóm cũng chết trong năm đó. Nhà Ashtons cũng hiểu rằng con cái họ không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Đứa con trai 15 tuổi của họ cũng đã chết vào năm 1900 và một đứa con trai mới 5 tuổi cũng đã chết cách đó 8 năm.
Thật khó để tìm ra một gia đình không mất mát những đứa con như trên trong những thế hệ đã qua. Cotton Mather, một mục sư Thanh giáo vào cuối thế kỉ 17, đã đặt tên cho đứa con gái đầu tiên của mình là Abigail. Cô đã chết. Vì thế ông tiếp tục đặt tên Abigail cho đứa con gái thứ hai. Cô bé cũng chết. Ông đặt tên Abigail một lần nữa cho đứa con gái thứ ba. Cô sống được đến tuổi trưởng thành nhưng lại chết trong khi sinh nở. Tổng cộng, Cotton Mather - một người đàn ông tốt bụng và hết lòng vì cộng đồng đã mất 13 đứa con vì bị nhiễm kí sinh trùng, tiêu chảy, sởi, đậu mùa, tai nạn, và những nguyên nhân khác. Cotton nói khi thuyết giảng rằng: “Một đứa trẻ chết cũng chẳng gây ngạc nhiên hơn là một chiếc bình bị vỡ, hay một bông hoa héo úa,” và việc đó quen thuộc đến nỗi như là cái chết chưa bao giờ mất đi sức mạnh của nó đối với sự sống. Và như bố của Cotton, ông Increase Mather nói thì “Cái chết của một đứa trẻ giống như sự tước bỏ cái chân què ra khỏi chúng ta.”
Trẻ con đặc biệt nhạy cảm, nhưng không phải là cá biệt. Đại dịch đã tràn qua khu vực mà nhà Morden, nhà Ashton và nhiều gia đình nữa phải chịu. Nhưng bệnh bạch hầu mới là căn bệnh đặc biệt nguy hiểm cho cả người lớn và trẻ em; vào năm 1878 một bé gái cháu của Nữ hoàng Victoria đã mắc phải bệnh bạch hầu và lây sang mẹ của bé, con gái của Nữ hoàng. Nữ hoàng là người giàu có và quyền lực nhưng cũng không thể làm gì được. Cả con gái và cháu của bà đã chết.
Đó không phải là thế giới của chúng ta. Tất nhiên chúng ta vẫn biết về bi kịch và những nỗi đau, nhưng khác hẳn về số lượng và chất lượng so với tổ tiên của chúng ta. Một thế kỉ trước hầu hết mọi người đều nhận biết về căn bệnh đã khiến Charles Morden chết (cổ sưng lên rất nguy hiểm). Ngày nay chúng ta chỉ đôi ba lần nghe nói đến từ “bệnh bạch hầu” khi đưa con cái đi tiêm vắc-xin ở những cơ sở y tế - nhưng hầu như rất ít người trong chúng ta biết rõ về căn bệnh này. Tại sao lại như vậy? Vắc-xin được phát minh ra vào năm 1923 đã loại trừ hầu hết những căn bệnh truyền nhiễm ra khỏi các nước phát triển và giảm tối đa con số thương vong.
Chiến thắng bệnh bạch hầu chỉ là một trong số rất nhiều thành tựu tạo nên thế giới chúng ta đang sống. Một số bệnh dịch có sức tàn phá ghê ghớm, chẳng hạn con số thương vong do bị bệnh đậu mùa còn lớn hơn cả con số người chết do xây dựng những Kim Tự Tháp Ai Cập. Một số bệnh khác có vẻ như ít nguy hiểm hơn, chỉ cần bổ sung thức ăn, vi chất và vitamin là có thể cứu chữa được sinh mạng một người. Việc loại bỏ bệnh tật khiến trẻ con khỏe mạnh hơn và đóng góp vào việc làm tăng tuổi thọ của con người. Một số người sẽ thấy khó chịu khi nói khi đề cập đến chất thải của người, và sự phát triển của hệ thống xử lý chất thải đó có thể đã cứu hàng triệu con người hơn bất kì một phát minh vĩ đại nào của loài người.
Vào năm 1725 trung bình một đứa trẻ sinh ra trên địa phận nước Mỹ có tuổi thọ trung bình là 50. Các thuộc địa Anh ở Mỹ ngày đó có điều kiện thiên nhiên và tài nguyên ưu đãi hơn nhiều so với Anh quốc nên tuổi thọ tại đây cao hơn tại Anh – nơi tuổi thọ trung bình chỉ là 32 tuổi. Vào năm 1800, tuổi thọ tại Mỹ tăng lên 56. Nhưng sau đó nó lại bị tụt xuống, một phần do sự lan tràn của những khu nhà ổ chuột tại các đô thị. Vào năm 1850, tuổi thọ trung bình ở Mỹ chỉ còn là 43, sau đó vào năm 1900 con số này là 48 tuổi. Và đây cũng là câu chuyện về tuổi thọ của con người xuyên suốt lịch sử loài người. Tăng một chút rồi lại tụt xuống một chút và hàng thế kỉ trôi qua trước khi có bất cứ sự tiến bộ nào xuất hiện.
Nhưng sau đó mọi thứ bắt đầu thay đổi nhanh chóng. Vào năm 1950, tuổi thọ trung bình của người dân Mỹ là 68. Và vào cuối thế kỉ 20, con số này là 78. Thông số đó tại các nước phát triển khác hoặc là bằng hoặc là tốt hơn cả nước Mỹ, có những nơi tuổi thọ trung bình là 80 vào thời điểm chuyển giao sang thế kỉ 21. Nửa sau thế kỉ 20 chúng ta cũng chứng kiến sự cải thiện rõ rệt về tuổi thọ trung bình tại các nước đang phát triển.
Yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào sự thay đổi mạnh mẽ này là do chúng ta đã giảm được tỉ lệ tử vong ở trẻ nhỏ. Vào năm 1900 gần 20% tổng số trẻ em sinh ra tại Mỹ - tức là 1/5 - bị chết trước khi chúng 5 tuổi; vào năm 1960 con số này chỉ còn là 3%, và vào năm 2002 con số này chỉ còn là 0,8%. Ở những quốc gia đang phát triển cũng ghi nhận sự tiến bộ tương tự. Tại khu vực Mỹ Latin 50 năm trước hơn 15% trẻ em chết trước khi được 5 tuổi, nhưng con số này giờ đây chỉ còn là 2%. Giữa năm 1990 và 2006 số trẻ tử vong giảm khoảng 47% ở Trung Quốc và 34% ở Ấn Độ.
Bản chất tự nhiên của con người là dễ dàng thích nghi với những thay đổi của môi trường sống và vì thế chúng ta dễ dàng nghĩ rằng một người thường thường sẽ sống khỏe mạnh trong khoảng bảy tám chục năm và một đứa trẻ được sinh ra ngày nay sẽ sống khỏe mạnh hơn, lâu hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta nhìn lại lịch sử của ông bà, tổ tiên mình chúng ta sẽ dễ dàng thấy rằng đó không hề là một chuyện bình thường. Đó là một điều kì diệu.
Và điều kì diệu đó vẫn đang tiếp tục. Roger Fogel, nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế được đề cử giải Nobel, người đã bỏ hàng chục năm để nghiên cứu sức khỏe, tuổi thọ và tỉ lệ tử vong của con người, đã nói: “Có rất nhiều người, trong đó có tôi, luôn tin rằng việc tăng tuổi thọ trung bình trong thế kỷ tới sẽ mạnh mẽ như đã từng xảy ra trong thế kỉ vừa qua.” Nếu những gì Roger nói đúng thì những thay đổi sẽ còn mạnh mẽ hơn nhiều. Đó không còn là do sự suy giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh – căn nguyên của những thành tựu trong thế kỉ 20 – vì tỉ lệ này đã quá thấp rồi, mà thay vào đó là tỉ lệ tử vong giảm ở người lớn. Và đây cũng là nhận định của Roger. Ông nói, “Tôi tin rằng một nửa số sinh viên đại học ngày nay sẽ sống trên 100 tuổi.”
Các nhà nghiên cứu khác thì không được lạc quan như vậy, nhưng họ cũng đồng ý rằng những tiến bộ trong thế kỉ 20 sẽ tiếp tục vào thế kỉ 21. Một nghiên cứu về xu hướng sức khỏe toàn cầu của tổ chức Y tế thế giới WHO đến năm 2030 đưa ra 3 kịch bản khác nhau – trung tính, lạc quan và bi quan - tỉ lệ tử vong ở trẻ em sẽ giảm và tuổi thọ sẽ tiếp tục tăng ở khắp các khu vực trên toàn thế giới.
Tất nhiên có những nguy cơ tiềm ẩn. Ví dụ, nếu bệnh béo phì có ảnh hưởng nghiêm trọng như rất nhiều nhà nghiên cứu lo ngại, và nếu tỉ lệ trẻ bị béo phì ngày một tăng tại các nước giàu, nó có thể sẽ làm giảm những tiến bộ chung. Nhưng những vấn đề tiềm ẩn này sẽ được ngăn chặn. Fogel cho biết, “Bạn chỉ bắt đầu lo ngại về việc ăn quá nhiều khi bạn không còn lo lắng về việc không đủ thức ăn, và bạn biết đấy, trong lịch sử loài người phần nhiều chúng ta lo lắng vì thiếu lương thực.” Dù những thách thức mà chúng ta phải đối mặt là gì, thì có một sự thật không thể chối cãi là những nước có nền kinh tế phát triển đang được sống trong một thế giới an toàn. khỏe mạnh, và đầy đủ nhất trong lịch sử loài người. Vẫn có rất nhiều thứ có thể giết chết chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta cần lo lắng. Thỉnh thoảng chúng ta nên sợ hãi. Nhưng hãy luôn nhớ rằng chúng ta đã thật may mắn được sống trong thời đại ngày nay.
Trong một cuộc phỏng vấn đặc biệt trên đài PBS, Linda Birnbaum, một nhà khoa học hiện đang làm việc với tổ chức Bảo vệ Môi trường của Mỹ đã đề cập tới sự cân bằng cần thiết giữa việc nhìn nhận nghiêm túc những nguy cơ tiềm ẩn và giữ những nguy cơ đó trong tầm kiểm soát. Birnbaum, trưởng nhóm nghiên cứu những giả thuyết về các chất hóa học gây ra sự đứt gãy trong tuyến nội tiết cho rằng, trong môi trường có thể tiềm ẩn những ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của con người, ông nói: “Với tư cách là các bậc cha mẹ, chúng ta ai cũng lo lắng cho con cái của mình. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta phải nhìn vào thế giới mà con cái chúng ta đang sống và nhận ra rằng chúng đang được hưởng thụ những điều kiện tốt nhất về thức ăn, giáo dục, và tất cả những thứ thiết yếu cho cuộc sống và còn nhiều nhiều những điều khác nữa. Điều đó khiến cho tuổi thọ trung bình của chúng cao hơn của chúng ta, cũng giống như tuổi thọ của chúng ta cao hơn bố mẹ, ông bà của chúng ta.”
Bất kì ai đã từng đến thăm nghĩa trang Victoria đều biết rằng chúng ta nên biết ơn, thay vì sợ hãi. Và rõ ràng là đừng để nỗi sợ hãi nắm lấy chúng ta. Chúng ta lo lắng. Chúng ta co rúm lại. Điều đó dường như là càng có ít nỗi sợ hãi, thì chúng ta lại càng hay sợ hãi.
Trớ trêu thay nguồn gốc của sự sợ hãi này là sự ngu dốt. Fogel nói, “Hầu hết mọi người đều không nhớ lịch sử. Họ chỉ biết những kinh nghiệm của chính mình và những gì xảy ra xung quanh họ mà thôi. Vì thế họ coi thường những tiến bộ vượt bậc mà họ đang sở hữu.”
Có rất nhiều cách giải thích tại sao thời đại an toàn lại đang ngày càng bị lãng quên. Người ta đang làm marketing cho sự sợ hãi ở khắp mọi nơi. Các chính trị gia muốn giành được phiếu bầu, các nhà hoạt động xã hội muốn bán các sản phẩm, các tổ chức phi chính phủ kêu gọi sự đóng góp tiền bạc, vật chất,... và họ biết cách làm cho mọi người lo lắng về tai nạn, bệnh tật. Cái chết thường là cách hiệu quả nhất để đạt mục tiêu này. Vì thế hàng ngày chúng ta bị tấn công bởi hàng đống các tin tức, thông điệp được gọt dũa cẩn thận khiến chúng ta lo sợ. Dù cho những lo ngại đó là hợp lý hay không – cơ sở của những lập luận đó có chắc chắn và dựa trên những nghiên cứu cẩn trọng hay không – thì nó cũng không phải là mối quan tâm trực tiếp của những người đã đưa ra những thông điệp đó. Cái quan trọng ở đây là mục tiêu. Sợ hãi chỉ là một kĩ thuật được sử dụng. Và nếu các con số đã bị pha trộn, ngôn ngữ khiến người ta hiểu lầm, những hình ảnh gợi cảm xúc và một kết luận không hợp lý có thể truyền tải hiệu quả mục đích của họ, thì họ sẽ luôn sử dụng chúng.
Các phương tiện truyền thông không chỉ là một trong số những kênh góp phần làm tăng lợi nhuận của việc marketing nỗi sợ hãi – không gì có thể làm tăng lượng bán và lợi nhuận bằng nỗi hoảng sợ thích đáng – mà còn là kênh quan trọng khiến cho việc quảng bá nỗi sợ hãi tinh tế và thuyết phục hơn bao giờ hết. Đối với giới truyền thông, yếu tố cơ bản nhất làm nên một câu chuyện tốt cũng giống như những điều làm nên một bộ phim, một vở kịch một câu chuyện hay. Đó là nó cần phải đề cập đến con người và cảm xúc, chứ không phải là các con số và các lập luận. Vì thế những hình ảnh về cái chết đầy thương tâm của một đứa trẻ được đưa tin trên khắp thế giới, trong khi tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm đáng kể và vẫn đang tiếp tục thì lại ít được chú ý.
Đó chẳng phải hoàn toàn là lỗi của các phương tiện truyền thông khi mà não bộ của con người chỉ phản ánh những gì xảy ra xung quanh họ. Chúng ta nghe nhạc qua iPod, đọc báo, xem truyền hình, làm việc trên máy tính, bay vòng quanh thế giới và bộ não của chúng ta nhanh chóng thích nghi với việc tìm quả mọng và theo chân những đàn linh dương. Điều kì diệu là ở chỗ đôi khi chúng ta suy nghĩ sai lầm về những nguy cơ. Và điều kì diệu ở chỗ đôi khi phán đoán của chúng ta về những nguy cơ này lại đúng.
Vậy thì tại sao những con người đang được an toàn nhất trong lịch sử loài người lại lo sợ chính cái bóng của họ? Có 3 thành phần cơ bản đó là: bộ não, giới truyền thông, và rất nhiều cá nhân và các tổ chức say mê với việc tích lũy những nỗi sợ hãi. Trộn cả 3 thành tố này vào nhau chúng ta sẽ có một vòng tròn sợ hãi. Khi một yếu tố gióng hồi chuông báo động, dấu hiệu đó lập tức được nắm bắt, nhắc lại bởi các thành tố tiếp theo và rồi thành tố còn lại; khi chuông báo động đó quay trở lại với thành tố đầu tiên thì mức độ nghiêm trọng của báo động đó tăng lên. Nỗi hoảng sợ hiển hiện rõ ràng. Những tín hiệu khác về những nguy cơ khác, và càng nhiều vòng tròn sợ hãi được tạo ra, và nỗi sợ hãi vô lý kiểu Roosevelt – báo hiệu trở lại sẽ tạo thành một dấu ấn vững chắc trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
“Điều duy nhất chúng ta phải sợ là chính bản thân nỗi sợ hãi – một sự khiếp đảm không có tên gọi, không đáng, và vô lý làm kinh khiếp những nỗ lực lớn để chuyển đối từ sự ẩn giấu sang một sự tiến bộ” - Franklin D. Roosevelt
Một mặt chúng ta không thể tránh né các điều kiện sống hiện đại ngày nay. Trí não vẫn còn đang ở thời kì đồ đá của chúng ta cũng không thể thay đổi, chúng ta khó mà từ bỏ công nghệ thông tin và sự khuyến khích để marketing cho sự sợ hãi ngày càng tăng. Nhưng trong khi chúng ta khó có thể dứt bỏ được vòng tròn lo sợ đó thì ít nhất chúng ta cũng có thể làm giảm cường độ của nó xuống. Bước đầu tiên là nhận diện những tổ chức và cá nhân luôn có lý do để làm gia tăng nỗi sợ hãi cho bạn và hầu hết báo giới chẳng những kém nhận biết mà còn khó lòng điều chỉnh thích hợp cường độ của sự sợ hãi, thậm chí họ còn làm chúng tăng thêm. Chúng ta cần giữ cho mình một con mắt biết nghi ngờ, thu thập thông tin, suy nghĩ cẩn trọng và đưa ra kết luận của riêng mình.
Cũng phải nhận ra rằng não bộ của chúng ta khi đang suy xét một điều gì cũng dễ mắc phải sai lầm. Điều này quả thực là khó thực hiện. Các nhà tâm lý phát hiện ra rằng con người không thừa nhận rằng suy nghĩ của người khác là có thành kiến, họ thường hay nhận định quá lên về một khía cạnh nào đó. Nhưng hầu hết mọi người đều phủ nhận mình thiên vị. Một cuộc điều tra cho thấy 61% các khách hàng được hỏi nói rằng họ không bị ảnh hưởng do các món quà mà các hãng dược phẩm gửi tặng khi quyết định chọn hãng thuốc, nhưng các nhân viên bán hàng thì lại tiết lộ sự thật khác, chỉ có 16% là không bị ảnh hưởng. Có vẻ như mỗi chúng ta đều hiểu đã là con người thì phải có sai lầm.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng “điều chỉnh sự thiên kiến” trong suy nghĩ bằng cách giải thích với chúng ta những gì và như thế nào là thiên kiến và chúng ảnh hưởng tới chúng ta như thế nào. nhưng có vẻ như điều đó chẳng có mấy tác dụng. Hãy lấy ví dụ về luật liên hệ bắc cầu. Nếu tôi nói rằng Mozart chết năm 34 tuổi và sau đó hỏi bạn đoán xem bao nhiêu nước có tên bắt đầu bằng chữ “A” thì một cách vô thức trí não của bạn lập tức liên hệ tới quy luật bắc cầu và con số 34 sẽ ảnh hưởng tới câu trả lời của bạn. Ngay cả khi một quyết định đúng đắn lờ con số 34 đi sẽ làm nên sự khác biệt bởi động lực để tránh bị ảnh hưởng đến từ Cái Đầu và Cái Đầu thì lại không kiểm soát được Cái Bụng. Chúng ta không thể nào tắt nguồn của phần trí óc vô thức.
Những gì chúng ta có thể làm chỉ là hiểu Cái Bụng hoạt động như thế nào và cách thức thỉnh thoảng nó mắc sai lầm ra sao. Daniel Kahneman đã viết rằng, “Con người không quen suy nghĩ kĩ càng, họ thường hài lòng tin tưởng vào một lập luận hợp lý xuất hiện đầu tiên trong trí óc của họ. Cái Bụng là tốt nhưng không phải hoàn hảo, và khi nó chấp nhận rủi ro thì con người có thể đưa ra những quyết định ngu ngốc như tin rằng phụ nữ trẻ có nguy cơ ung thư vú trong khi những phụ nữ tuổi trung niên thì không và rõ ràng như là từ bỏ đi máy bay để sử dụng xe ô tô là một cách tốt để được an toàn khi di chuyển, chẳng hạn. Để bảo vệ chính mình khỏi những nỗi khiếp đảm vô lý chúng ta cần phải đánh thức Cái Đầu và bắt nó làm việc. Chúng ta phải suy nghĩ thấu đáo.
Cái Đầu và Cái Bụng cần phải luôn đồng thuận với nhau. Khi điều đó xảy ra chúng ta sẽ luôn tự tin vào những phán đoán của mình. Nhưng đôi khi Cái Đầu nói một đằng, Cái Bụng nói một nẻo. Vậy thì đó là lý do để cẩn trọng. Một quyết định nhanh và đúng đắn thật không dễ dàng để giải quyết được tất cả những rủi ro mà chúng ta phải đối mặt hàng ngày khi mà Cái Đầu và Cái Bụng không đồng thuận thì chúng ta hãy tạm thời ngưng lại. Hãy thu thập thêm thông tin. Suy nghĩ thêm một chút. Và nếu cả Cái Đầu và Cái Bụng vẫn không thể đi đến chỗ thống nhất, hãy lựa chọn theo Cái Đầu.
Sau vụ tấn công khủng bố 11 tháng 09 hàng triệu người Mỹ đã làm ngược lại và từ chối việc đi lại bằng máy bay mà thay vào đó là đi xe hơi. Sai lầm này đã khiến 1500 người trả giá bằng mạng sống của chính mình. Đặt lý trí lên trước tình cảm không phải là một việc dễ dàng, nhưng nếu đặt nỗi sợ hãi nhẹ đi một chút, thì cuộc sống của nhiều người sẽ được cứu, điều này đáng để nỗ lực.
Vì thế có thể chúng ta đang là những con người an toàn nhất, khỏe mạnh nhất và giàu có nhất. Và cũng có thể chúng ta đang giảm đáng kể những nguy cơ đang còn tồn tại bằng cách tuân thủ chế độ ăn uống hợp lý, tập thể dục, không hút thuốc và tuân thủ mọi luật lệ giao thông. Và cũng có thể chúng ta sẽ mong đợi thêm nhiều tin tốt hơn nữa trong tương lai nếu những xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục.
Suy đoán bằng việc tìm đọc những gì ở hiệu sách và những bài bình luận trên báo chí, thì điều tồi tệ sẽ xảy ra. Thiếu hụt năng lượng, thay đổi khí hậu, nạn đói đang lan rộng là những chủ đề thường thấy. Cả những chủ đề nóng hổi như khủng bố hạt nhân và những đại dịch chết người. Viết về những thảm họa hay đại dịch đang là mốt thịnh hành và điều đó có thể gây nhiều nỗi thất vọng. James Howard Kunstler, tác giả của cuốn The Long Emergency (Sự báo động kéo dài) đã viết, “ngay cả sau thảm họa 11 tháng 09 năm 2001, nước Mỹ vẫn mơ màng để đi về tương lai. Chúng ta đã ra khỏi ngôi nhà cháy và đang tiến về phía bờ của một hẻm núi.” Điều này có thể sẽ được sử dụng để làm tên của một cuốn sách do một phi hành gia người Anh và là Chủ tịch Hội Hoàng gia Martin Rees mang tên Our Final Hour (Giờ phút cuối cùng của chúng ta).
Trận chiến cuối cùng vẫn đang ở trên trời. Tác phẩm The Road (Con đường) của nhà văn Cormac McCarthy kể về chuyến du hành vào tương lai của hai cha con khi nước Mỹ bị tàn phá bởi một lực lượng siêu nhiên không rõ nguồn gốc - được ra mắt vào năm 2006. Một năm sau tác phẩm The Pesthouse của Jim Crace, một cuốn tiểu thuyết giả tưởng kể về hai người lạc vào thế giới tương lai của nước Mỹ bị đại dịch không rõ nguồn gốc làm cho hoang tàn. Khi cả hai tác giả nối tiếng này lại cho ra đời hai tác phẩm gần giống nhau về kết cấu câu chuyện, họ đang khai thác đúng vào mối quan tâm của thời đại, và điều đó quả thật là tàn nhẫn.
Ngay cả Thomas Friedman – nhà báo nổi tiếng của tờ New York Times và là tác giả của những tác phẩm best seller xuất sắc như The Lexus and the Olive Tree, The World Is Flat (Chiếc xe Lexus và cành Olive; và Thế giới phẳng) cũng vài lần trượt vào vòng xoáy của sự sợ hãi này. Vào tháng 09 năm 2003, Friedman đã viết như thế này khi đưa con gái tới trường đại học, “tôi đang thả con gái mình vào một thế giới ngày càng nguy hiểm hơn cái thế giới mà con tôi được sinh ra. Tôi cảm thấy có thể giữ lời hứa với con gái trong phòng ngủ của nó, chứ không thể giữ lời hứa trong thế giới hôm nay, cũng chẳng thể nào như thế trên những con đường thảnh thơi mà tôi đã từng khám phá khi bằng tuổi con gái mình”.
Câu chuyện của Friedman thể hiện chính xác một niềm tin phổ biến hiện nay. Những gì đã qua không phải là hoàn hảo, nhưng ít nhất chúng ta cũng biết nơi mình đang đứng. Giờ đây khi nhìn vào tương lai, tất cả chúng ta đều thấy một khoảng trống màu đen của sự bất ổn nơi nhiều thứ chúng ta không ngờ tới và không mong muốn sẽ xảy ra. Thế giới mà chúng ta đang sống đó thực là một nơi ngày càng nguy hiểm.
Kì quặc hơn, dầu vậy, khi nhìn nhận về quá khứ mà mình cho là không đáng sợ, chúng ta sẽ thấy rất nhiều người trong quá khứ cũng cảm thấy giống như chúng ta vậy. Nhà thơ người Đức Heinrich Heine vào năm 1832 đã từng viết, điều đó “giống như là sự kết thúc của thế giới”. Khi đó Heine đang ở Paris và một trận dịch tả tràn qua nước Pháp. Chỉ trong vài giờ những người bình thường khỏe mạnh bỗng nhiên đổ sụp xuống, co quắp lại như nho khô dưới ánh nắng mặt trời, và chết. Những người tị nạn chạy khỏi nhà vì lo sợ những người lạ tấn công một cách tuyệt vọng để tránh xa bệnh dịch. Dịch tả là căn bệnh quá mới tại châu Âu thời gian đó và không một ai biết làm cách nào đại dịch lan truyền và làm gì để cứu chữa những người mắc phải. Nỗi khiếp đảm như lướt trên mặt đất đối với họ thật không thể nào tưởng tượng được. Vì thế, chúng ta biết rằng, nếu nhìn lại quá khứ, thì đó không phải là ngày tận thế - khi chúng ta hình dung ra Paris ở thế kỉ 19, chúng ta thường hay liên tưởng tới những hộp đêm sang trọng bậc nhất như Moulin Rogue được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ 19, chứ không phải là đại dịch, và cái cảm giác lo sợ cho tương lai bất ổn mà Heine và những người khác đã trải qua.
Nói một cách đơn giản, quá khứ chỉ là ảo ảnh: Quá khứ đã qua rồi luôn dễ nắm bắt hơn, và điều đó làm cho tương lai có vẻ như khó phán đoán hơn, vì thế đáng sợ hơn bao giờ hết. Gốc rễ của những ảo ảnh này nằm ở chỗ mà các nhà tâm lý học gọi là “thiên kiến muộn màng”.
Trong một loạt các nghiên cứu kinh điển vào đầu những năm 1970, Baruch Fischhoff đã làm một cuộc khảo sát với các sinh viên tại một trường đại học ở Israel bảng mô tả chi tiết hàng loạt các sự kiện dẫn tới cuộc chiến tranh năm 1814 giữa Anh và chính quyền Gurkha(1) của Nepal. Bảng miêu tả này bao gồm cả những yếu tố quân sự ảnh hưởng tới kết quả của cuộc chiến tranh, như binh sĩ Gurkha nhỏ và quân Anh không quen với địa hình hiểm trở nơi trận chiến xảy ra. Chỉ có một thứ duy nhất không được đưa cho các sinh viên là kết cục của cuộc chiến. Thay vào đó một nhóm sinh viên phải lựa chọn 4 kết cục theo suy luận của chính mình dựa trên những yếu tố được cho trước ở trên, và các kết cục có thể là: Quân Anh thắng, Quân Gurkha thắng, Bế tắc không thể Giải quyết được, và cuối cùng là giải quyết bằng hòa đàm. Sau đó họ được hỏi liệu cuộc chiến đó sẽ kết thúc như thế nào và họ chọn kết cục nào trong 4 kết cục nêu trên?
Một nhóm sinh viên thứ hai được chia làm 4 nhóm khác nhau. Mỗi nhóm được cung cấp một bảng miêu tả cuộc chiến giống nhau bao gồm cả 4 kết cục của chiến tranh. Nhưng nhóm 1 được cho biết là chiến thắng cuối cùng thuộc về quân Anh. Nhóm thứ hai được biết là chiến thắng cuối cùng thuộc về quân Gurkha. Nhóm thứ ba được biết là cuộc chiến đi đến chỗ bế tắc. và nhóm 4 được biết là cuộc chiến đã đi đến hòa đàm. Sau đó mỗi nhóm được hỏi theo họ thì chiến tranh thực sự kết thúc như thế nào theo 4 kết cục trên?
Biết những gì đã xảy ra – hay ít nhất là bạn tin rằng mình biết – đã làm thay đổi mọi thứ. Những sinh viên không được biết chiến tranh kết thúc như thế nào đã đưa ra tỉ lệ 33,8% khả năng chiến thắng thuộc về quân Anh. Những sinh viên được cho biết chiến thắng thuộc về quân Anh đã lựa chọn khả năng quân Anh thắng lên tới 57,2%. Vì thế biết trước cuộc chiến kết thúc như thế nào đã khiến dự đoán về khả năng của mọi người tăng từ 1/3 lên tới 1/2.
Fischhoff làm thêm 3 cuộc điều tra tương tự và thu được cùng kết quả như trên. Sau đó ông đã làm lại mọi thứ giống như vậy, chỉ thay đổi duy nhất một điều: những người được cho biết về kết quả của cuộc chiến không được phép để điều đó ảnh hưởng tới suy luận của họ. Nhưng thực tế là nó vẫn ảnh hưởng.
Tác động của Thiên kiến muộn màng là loại bỏ sự nghi ngờ, thiếu chắc chắn ra khỏi lịch sử. Chúng ta không chỉ biết những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà chúng ta cảm thấy rằng những gì đã xảy ra là những gì có khả năng xảy ra. Chúng ta nghĩ tương lai có thể dự đoán được. Thực tế không phải như vậy.
Vì thế chúng ta đang đứng ở hiện tại, nhìn về tương lai mờ mịt phía trước và tưởng tượng ra đủ thứ khủng khiếp. Và khi nhìn lại? Mọi thứ dường như ổn định hơn, và chẳng giống như những gì mà chúng ta đã phỏng đoán. Ồ, vâng, thật là một thời kì đáng sợ.
Tất cả chỉ là ảo ảnh. Con gái của Thomas Friedman năm 2003 vào trường đại học - “thế giới nguy hiểm hơn nhiều lúc cô bé mới ra đời”. Vậy là cô gái sinh năm 1985. Liệu thế giới năm 2003 có “nguy hiểm hơn nhiều” so với thế giới năm 1985 không? Nhờ sự sai lầm của trí óc khéo tưởng tượng của loài người, mọi việc sẽ dễ dàng bị nhìn nhận đúng như vậy.
Chúng ta hay quay trở lại năm 1985, khi Mỹ và Liên Xô (cũ) sở hữu một kho vũ khí hạt nhân lớn đủ đến giết 1/2 dân số của cả thế giới và khiến phần còn lại của thế giới chìm ngập trong đói khát cùng những đống đổ nát. Những vũ khí đó được đặt đối chọi nhau ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Sự hủy diệt sẽ đến bất cứ lúc nào, và vào năm 1985, viễn cảnh đó thật hơn bao giờ hết. Chiến tranh Lạnh ngày càng căng thẳng bắt đầu với việc Liên Xô đưa quân vào Afghanistan và việc đắc cử của Tổng thống Ronald Reagan năm 1980. Mikhail Govbachev trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Liên Xô vào năm 1985; như chúng ta giờ đây đã biết Gorbachev, Regan đã gặp nhau và căng thẳng cũng giảm dần, Chiến tranh Lạnh kết thúc trong hòa bình, sau đó vài năm Liên bang Xô Viết tan rã. Nhưng vào năm 1985 người ta chỉ thấy một màu đen ảm đạm ở tương lai phía trước. Vào thời điểm đó những gì sẽ xảy ra thật khó dự đoán – đó là lý do mà nhiều người chẳng dự đoán điều gì ngoài một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Năm 1983, tác phẩm The Day After (Ngày hôm sau), thể hiện một cái nhìn đầy ác mộng về cuộc sống của một thị trấn nhỏ tại Mỹ trước và sau cuộc tấn công hạt nhân, trở thành một vở kịch trên ti vi được bình luận nhiều nhất. Năm 1984, không ít hơn 7 tiểu thuyết viết về chiến tranh hạt nhân được xuất bản. Sự sợ hãi cao độ là có thật. Nó bao trùm lên các đường phố ở châu Âu và Mỹ với hàng triệu người biểu tình. Tiểu thuyết gia người Anh Martin Amis đã viết, “Giả dụ rằng hai con mắt của tôi không bị rơi ra khỏi khuôn mặt tôi, giả định rằng tôi không bị trận cuồng phong của những tên lửa đạn đạo đâm chết, giả định tất cả mọi thứ. Tôi sẽ bị buộc (và đó là điều cuối cùng tôi cảm thấy thích làm) tìm đường về nhà, qua những trận bão lửa, những mảnh bom còn lại méo mó, những xác chết. Sau đó – Chúa phù hộ cho tôi - nếu tôi còn sức khỏe và tất nhiên nếu vợ con tôi còn sống, tôi sẽ tìm họ và phải giết họ.”
Và nếu toàn thế giới chìm trong đạn bom và tro tàn còn chưa đủ để lo ngại thì, năm 1985 chứng kiến sự lan rộng của một lại virus mới chết người có tên là AIDS. Nếu nhiễm loại virus này bạn sẽ chết dần chết mòn. Cách mạng tình dục là điều không thế tránh và nó làm cho AIDS lây lan nhanh hơn. Oprah Winfrey đã lên tiếng vào năm 1987 rằng, “Thật đáng sợ. Các nghiên cứu cho thấy cứ năm người thì sẽ có một người chết vì AIDS sau 3 năm nữa. Đó sẽ là vào năm 1990. Bác sĩ General C. Koop gọi đó là “đe dọa đối với sức khỏe lớn nhất mà nước Mỹ đã từng đối mặt”. Một thành viên thuộc Ủy ban về AIDS còn đi xa hơn, khi tuyên bố rằng căn bệnh này là “sự đe dọa lớn nhất đối với xã hội, mà bất kì nền văn minh nào từng đối mặt – nguy hiểm hơn cả những đại dịch trong những thế kỉ đã qua.” Chúng ta đều biết rằng sự thật không phải như vậy, nhưng vào thời gian đó người ta có đầy đủ lý do để tin điều đó sẽ xảy ra. Và quả thật là thế giới rất rất rất đáng sợ.
Vì vậy thế giới năm 1985 là an toàn hơn chăng? Thomas Friedman nghĩ thế vào năm 2003 nhưng tôi nghĩ ông là một nạn nhân của ảo giác. Ông ấy biết rằng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc trong hòa bình và AIDS đã không tàn phá nước Mỹ như đại dịch Black Death2. Rõ ràng là nhận thức này khiến những kết cục mà người ta suy đoán khác xa so với những gì chúng từng xảy ra vào thời gian đó. Và nó làm cho Friedman của năm 1985 tự tin hơn những gì có thể xảy ra với Friedman vào năm 2003.
Tôi chẳng có ý gây ấn tượng với Friedman. Quan điểm của tôi chỉ đơn giản là thậm chí ngay cả những nhà bình luận xuất sắc về toàn cầu hóa cũng vô cùng nhạy cảm với ảo ảnh này. Và ông ấy không hề cô đơn. Trong một cuốn sách xuất bản năm 2005 có tên là Expert Political Judgement (Quan điểm chính trị của chuyên gia), Philip Tetlock, nhà tâm lý học của trường đại học California đã đưa ra kết quả nghiên cứu trong 20 năm của mình, trong đó ông trình bày dự đoán của 284 các nhà khoa học, chính trị gia, nhà kinh tế học, nhà báo, và những người làm việc liên quan tới “bình luận hay đưa ra tư vấn cho các xu hướng chính trị và kinh tế.” Tetlock đã kiểm tra kết quả của 82.361 lời dự đoán và thấy rằng thành tích dự đoán của các chuyên gia này thật tồi như thể họ dự đoán bừa mà không dựa trên một căn cứ nào cả. Tetlock cũng còn thấy, như kết quả của Baruch Fischhoff rằng khi các chuyên gia được hỏi sau sự việc đó để nhắc lại dự đoán của bản chất và sự tự tin vào lời phỏng đoán của mình khi đưa ra nhận định, họ ghi nhớ bản thân mình chính xác và chắc chắc hơn cả họ thực sự của mình. (Tuy nhiên, không giống như các sinh viên trong điều tra của Fischhoff, các chuyên gia thường bào chữa khi họ được hỏi vậy.)
Rõ ràng tôi không muốn nói rằng mội sự dự đoán đáng sợ là sai. Những điều khủng khiếp vẫn xảy ra, và đôi khi nó có thể - rất khó cho những người thông minhdự đoán về chúng. Mỗi một dự đoán đáng sợ đều cần phải chứa đựng những nỗ lực của riêng nó. Bất kì ai đã từng đọc những bài dự đoán về những điều khủng khiếp (và cả những điều tuyệt vời) trong lịch sử loài người đã xảy ra mà không hề được dự đoán trước.
Vào năm 1967 - người Mỹ đã có một lời cảnh báo chính xác về một đại dịch treo lơ lửng trên đầu. Đó là vào năm 1975, họ được biết rằng thế giới sẽ không bao giờ còn được như trước nữa. Famine–1975! (Nạn đói 1975!) của hai anh em William và Paul Paddock có lẽ đã bị lãng quên, nhưng vào năm 1967 đó là một cuốn sách bán chạy nhất. Hai anh em nhà Paddock là những người rất có tên tuổi. Một người là nhà nghiên cứu nông nghiệp và một là một cán bộ ngoại giao giàu kinh nghiệm. Cuốn sách chứa đầy những nghiên cứu khoa học, những cuộc điều tra và số liệu trên toàn thế giới - tất cả mọi thứ từ sản lượng lúa mì của Mexico sau chiến tranh đến sự gia tăng kinh tế Nga. Và họ đưa đến một kết luận đáng sợ như sau: Với sự tăng trưởng dân số chóng mặt, thế giới sẽ cạn kiệt lương thực. Nạn đói sẽ hoành hành khắp nơi và chẳng ai có khả năng ngăn chặn điều đó xảy ra. “Thảm họa đã được biết trước. Nạn đói là không thể tránh khỏi.” Họ cho biết.
Anh em nhà Paddock chẳng phải là những kẻ lập dị. Có rất nhiều các chuyên gia cũng đồng ý với quan điểm của họ. Nhà sinh vật học George Wald thuộc trường Đại học Harvard dự đoán rằng thiếu những biện pháp trợ giúp khẩn cấp “nền văn minh sẽ kết thúc trong 15 hay 30 năm nữa.” Lời cảnh báo mạnh mẽ nhất có lẽ thuộc về nhà sinh vật học trường Đại học Standford Paul Ehrlich. Trong tác phẩm The Population Bomb (Quả bom ô nhiễm) xuất bản năm 1968 ông viết, “Cuộc chiến đấu để nuôi sống cả nhân loại đã qua. Trong những thập niên 1970 và 1980 sắp tới hàng trăm triệu người sẽ chết đói dù có nhiều chương trình cứu trợ cấp tốc được thực hiện từ bây giờ.”
Giống như anh em nhà Paddock, Ehrlich cũng trình bày rất hiều nghiên cứu, điều tra và những con số trong cuốn sách của mình. Ông cũng nêu lên 3 kịch bản khác nhau cho các sự kiện tương lai của thế giới - một kĩ thuật phổ biến và một điều như chúng ta đã thấy, rất dễ khơi gợi Quy luật Điển hình và dẫn Cái Bụng tới việc tin vào sự phỏng đoán hơn là lý do thật sự đưa đến phỏng đoán đó. Trong kịch bản đầu tiên, cảnh tượng một nhà khoa học sợ hãi đang nói với vợ, “dù có áp dụng chế độ phân chia đều ra, rất nhiều người Mỹ sẽ chết đói trừ khi các điều kiện thời tiết thay đổi hoàn toàn ngược lại”. Chúng ta sẽ thấy xu hướng này rõ ràng hơn trong những năm 1970 nhưng chẳng ai tin điều đó sẽ xảy ra. Đến cuối thập kỉ này gần một tỉ người sẽ chết đói, và chúng ta phải cố hết sức giữ tình trạng này cùng với việc cầu nguyện.” Kịch bản kết thúc với việc Mỹ tiến hành vụ tấn công hạt nhân vào Liên Xô. Trong kịch bản thứ hai, nghèo đói, cạn kiệt thực phẩm, và dân số đông đã cho phép một con virus có nguồn gốc từ châu Phi quét qua thế giới – 1/3 dân số của hành tinh chết. Trong kịch bản thứ ba, nước Mỹ nhận ra những sai lầm và tiến hành việc tạo lập những cơ quan của thế giới dùng các khoản tiền đóng thuế của các nước giàu để chi trả cho các biện pháp giảm dân số - nhưng 1/3 dân số vẫn chết vì nạn đói vào những năm 1980 nhưng sự tăng dân số đã chậm lại và con người thoát khỏi cảnh bị hủy diệt.
Vào năm 1970 Ehrlich kỉ niệm Ngày Trái đất với một bài xã luận trong đó thu hẹp lại các khả năng kịch bản xảy ra một cách đáng kể: Giữa năm 1980 và 1989 sẽ có khoảng 4 tỉ người, trong đó 65 triệu người Mỹ, sẽ chết đói trong cái mà ông gọi là “Đại hủy diệt” (Great Die-off).
The Population Bomb trở thành một cuốn sách bán chạy nhất. Ehrlich trở thành một nhân vật nổi tiếng, liên tục xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, tham gia cả chương trình The Tonight Show1 với Johnny Carson. Nhận thức về mối đe dọa đang lan tràn và nạn đói lớn trở thành một chủ đề chính trong dân chúng. Vở kịch Soylent Green, công diễn vào năm 1973, diễn tả dân số quá lớn trong tương lai sẽ được nuôi sống bằng một thức ăn được chế biến bí mật có tên là “Soylent Green” – và dòng cuối cùng của vở kịch đó là “Soylent Green chính là con người!”
Chính phủ tất nhiên chẳng tiến hành bất cứ biện pháp khẩn cấp nào để ngăn chặn sự tăng dân số do Ehrlich hay bất kì ai khởi xướng. Và nạn đói khủng khiếp chưa bao giờ xảy ra, vì hai lý do. Thứ nhất là tỉ lệ sinh giảm và dân số thì không tăng trưởng nhanh như dự kiến. Sản lượng lương thực tăng cao. Rất nhiều chuyên gia đã nói những điều này là không thể. Nhưng cả hai điều đó (tỉ lệ sinh giảm và sản lượng lương thực tăng) đều đã trở thành hiện thực và 40 năm sau ngày xuất bản Famine-1975! (Nạn đói 1975!) dân số thế giới đang được nuôi dưỡng ngày càng tốt hơn và sống lâu hơn bao giờ hết.
Ai đó có thể nghĩ rằng người theo thuyết thiên tai sẽ rất cẩn trọng khi đưa ra phán đoán về tương lai nhưng dường như thiếu sự khiêm tốn cần thiết. Năm 1999 James Howard Kunstler viết một bài dài về những thảm họa – bao gồm cả kinh tế suy thoái như là cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930 ở Mỹ - kéo theo sự sụp đổ của hệ thống máy tính do sự cố Y2K2. Năm năm sau ông cho xuất bản cuốn The Long Emergency, với nhiều lời dự đoán chắc chắn về những thảm họa sẽ đến. Như trường hợp của Paul Ehrlich, ông đã nhiều lần nhắc lại lập luận trong The Population Bomb trong 40 năm. Trong lớp bụi của The Upside of Down (Bề mặt của sự suy thoái), một cuốn sách xuất bản năm 2006 do Giáo sư trường Đại học Toronto Thomas Homer-Dixon có cùng chủ đề, với lời giới thiệu sách từ Ehrlich. Ông đã ngợi ca cuốn sách là “những gợi ý sâu xa về cách khiến xã hội có thêm sức mạnh để đối mặt với những thảm họa về xã hội và môi trường mà gần như không thể nào tránh được. Rõ ràng là thứ duy nhất mà Ehrlich đã học được trong 40 năm qua là đưa từ “gần” vào phía trước từ “không thể tránh khỏi”.
Cuốn sách của Homer-Dixon không quá nhiều lời cảnh báo như là của Ehrlich, hay nhiều người khác viết về cùng chủ đề, dù cách thức quảng bá của nó gần giống với những cuốn sách viết về thảm họa và những lời cảnh báo thảm họa. Bất kì ai luôn tích trữ lương thực đóng hộp và súng săn phòng ngự vì họ đã đọc được những lời cảnh báo về sự hủy diệt không thể nào tránh khỏi luôn ở trong óc họ. Khi Martin Rees viết một cuốn sách về thảm họa từ các tiến bộ khoa học, ông đã đặt tên cho cuốn sách là Our Final Century? (Thế kỉ cuối cùng của chúng ta?) Nhưng NXB hợp tác của Rees tại Anh chưa thấy cái tên đó đủ đáng sợ nên đã bỏ dấu hỏi chấm đi. Còn nhà xuất bản tại Mỹ thì lại đổi century (thế kỉ) bằng hour (giờ) để cái tên biến thành Our Final Hour (Giờ phút cuối cùng của chúng ta).
Trong một cuộc phỏng vấn Rees tỏ ra lạc quan hơn so với những gì mà ông thể hiện trong cuốn sách của mình. Ông nói rằng chúng ta phải quan ngại nhiều về vũ khí hạt nhân hơn và làm việc tích cực hơn để giải trừ quân bị; nếu cho rằng những thứ vũ khí ấy được tạo ra là để gây thảm họa cho con người, thì điều đó là hiển nhiên là cần thiết. Nhưng Rees cũng nghĩ rằng thật cần thiết cho chúng ta thấy được sự ưu đãi mà khoa học đã mang đến cho cuộc sống con người. Ông nói, “Chúng ta đang được an toàn hơn bao giờ hết”. Chúng ta lo lắng quá nhiều về “mỗi rủi ro nhỏ như chất có thể gây ung thư trong thức ăn, nguy cơ có thể bị tai nạn tàu hỏa hay nhiều thứ tương tự như vậy. Chúng ta thường tỏ ra quá nhạy cảm với các nguy cơ và các chính sách chung, luôn cố ngăn chặn mọi rủi ro từ những vấn đề rất nhỏ.”
Rees cũng nói cân bằng là cần thiết. Những nguy cơ có thật mà chúng ta cần lo ngại – như vũ khí hạt nhân – nhưng chúng ta cũng cần biết rằng “với hầu hết mọi người trên thế giới thì hiện tại là giai đoạn tuyệt vời nhất trong lịch sử loài người.”
Những dẫn chứng cho sự thực cơ bản này có thể tìm thấy ở rất nhiều tổng kết và số liệu. Hoặc đơn giản hơn là chúng ta nên dành một buổi chiều đến thăm những ngôi mộ tại nghĩa trang Victoria để thấy rằng chúng ta đang may mắn như thế nào.
HẾT