← Quay lại trang sách

Đây, Bóng Tối

Hình ảnh Mũn mãi mãi in sâu trong trí nhớ Nhân, vào các thớ trái tim Nhân, và như đã biến với chất máu lỏng lưu thông khắp thân thể Nhân để giữ lấy chút tàn lực của phần xác suy nhược, chút khí ấm áp còn thoi thóp của linh hồn dạn dày.

Vì, nếu số kiếp Nhân chỉ có thể cho đến ngày trọn đời như số kiếp một con ngựa già, vươn cổ, xoải chân, bụng đói lép kẹp hóp lại, đem hết sức bình sinh kéo từng đoàn xe chồng chất những cái nặng nề ghê gớm của Thiếu thốn, Đói rét, Đau ốm, và Khổ ải trên một con đường... hãy trông kìa... con đường quanh co cát bụi lầm.

Mũn là một người đàn bà, một người bạn chịu mọi sự cùng khổ đau đớn với Nhân trong mười ba năm, phải, đúng mười ba năm ở những nơi nhớp nháp kinh tởm riêng biệt cho những hạng người cùng khổ.

Hơn Nhân, Mũn còn chịu đựng nhiều sự ức hiếp, bất công của xã hội để kiếm miếng ăn mà Mũn vẫn vui vẻ, vẫn không hề cất một tiếng than vãn. Những kẻ yếu đuối, sẵn có một lòng thương và yêu rất giản dị, rất chân thật, nhưng thấm thía và bền vững vô cùng.

Nhân vẫn nhớ kỹ, một buổi chiều đã lâu lắm rồi, dạo Nhân còn giữ hai núm tóc bơ phờ ở hai bên đầu, còn để nước mũi xanh luôn luôn thò lò xuống tận miệng, chạy ra phố mua thức ăn. Mua xong, gần đến nhà, thì trời ơi!... cái quần xắn móng lợn của Nhân tụt. Một tay cầm bát tương đầy, một tay bát dưa cao có ngọn, Nhân lúng túng không biết đặt xuống đường để xắn quần lại. Nhân cứ đứng nguyên thế, mặt đỏ bừng, nhớn nhác trông mọi người. Mà mọi người, từ ông già bà lão đến người lớn trẻ con đều ôm bụng nhìn cái mảnh vải đen thủi cáu ghét, đụp hàng trăm miếng làm thành một đống lù lù cho kín cả hai bàn chân Nhân mà há hốc miệng cười. Họ cười thỏa thuê! Họ cười vui sướng! Tiếng cười giòn giã như không bao giờ ngớt, lấp cả tiếng nghẹn ngào bé nhỏ từ ngực đưa lên họng Nhân.

Một phút, hai phút, năm phút rồi mà tất cả đám người ấy vẫn cứ cười, và, Nhân vẫn hai tay hai bát thức ăn, nhớn nhác trông, vừa rung rung bộ đùi ghẻ kềnh càng, lốm đốm dưới lớp phẩm xanh cho ruồi khỏi bậu.

Sau cùng, Nhân thấy lạnh ở hai khóe mắt. Bất giác Nhân cúi mặt xuống: hai giọt lệ đều đặn lặng lẽ rỏ trên mặt đường trắng bụi.

Thì một thân hình cũng đen thủi gầy còm, cũng chỉ có một manh quần rách rưới như là manh quần thâm che đậy đến bên Nhân. Con bé ấy run bần bật, lấm lét trông mọi người như sợ bị đánh đập, ngăn cản. Nó kéo vội quần Nhân lên, và không có thắt lưng, nó chẳng biết xắn cạp thế nào, đành hai tay giữ hai bên cạp. Rồi cũng như Nhân, nó lại đờ người ra nhìn.

Trước hai gương mặt đỏ bừng và hai cặp mắt ngây thơ dại dột, đám người già trẻ lớn bé càng cười to. Tiếng cười dồn dập và nóng rát như một làn hơi nóng ở miệng lò than đỏ rực thổi qua mặt hai đứa.

Nhân và con bé rùng mình.

Chợt đứa con gái bẩn thỉu se sẽ nói:

- Thôi, đi Nhân.

Nói đoạn, nó quay ra đằng sau giữ lấy cạp quần cho Nhân. Còn Nhân thong thả bước từng bước một. Cái cảnh ngộ nghĩnh này lại nhắc trong trí tưởng đám người nọ cảnh dẫn rượu trong các cuộc đình đám.

Thế rồi họ lại cười, ôm bụng cười, tiếng cười lan rộng theo Nhân đến mãi tận nhà.

⚝ ❖ ⚝

Hồi đó, Nhân đâu có thể hiểu rộng ra rằng con bé xanh xao, xơ xác kia, bằng sự giúp đỡ đầy rẫy tình thương xót Nhân, đã cười lên tận mặt cả đám người mọi rợ nọ. Nhân chỉ cảm thấy rằng Mũn, đứa con gái ấy là tốt, tốt lắm lắm.

Vì thế, ngay hôm ấy, Nhân chẳng còn dám bén mảng đến những chỗ trẻ con nhà giàu chơi bời bày cỗ bàn, đình chùa nữa. Nhân tìm Mũn, rủ Mũn về góc vườn nhà chơi riêng.

Chẳng một thức ăn gì Nhân không để dành cho Mũn. Thậm chí, những buổi chợ ế, thím Nhân phải đưa bún chả về nhà ăn trừ bữa, thì Nhân tìm đủ mọi cách để giấu chả và bún đi. Một bữa, không thể bỏ túi được, không thể giả vờ ra ngoài được, Nhân đã lừa sáu, bảy miếng chả lại bát cuối cùng. Rồi đến lần và cuối cùng, Nhân ấn đầy cả vào mồm, nhai vờ vờ, nói xin vô phép. Vừa ra khỏi cửa, Nhân ù té chạy đi tìm Mũn...

Mũn mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho một bà lão ăn mày, chẳng bao giờ được miếng ăn ngon, nên khi chìa tay đón lấy những miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi, thì Mũn ngây người ra nhìn Nhân có vẻ cảm động lắm.

Mũn không ăn một mình, bắt Nhân lại bụi cây gần đấy, xé tơi thịt ra đựng đầy lòng bàn tay, ép Nhân ăn chung. Dù đã ăn no phưỡn bụng ra rồi, Nhân vẫn còn thấy ngon miệng. Nhân tiếc không thể có thêm hàng nồi cơm nữa để cùng Mũn ăn. Và bấy giờ trong tâm trí ngây thơ của Nhân như có một sự mong ước Mũn cứ mãi mãi là một người bạn không lúc nào rời bỏ Nhân, để sau những lúc cơ cực nhục nhã hai kẻ yếu đuối trơ trọi ấy lại yên lặng an ủi nhau bằng những bữa ngon lành như thế.

⚝ ❖ ⚝

Nhưng sóng gió của đời đã đến chia rẽ hai đứa nhỏ. Mũn đi một ngả, Nhân đi một ngả. Hai con chim non giương hai đôi cánh chưa đủ lông chống đỡ những sức mạnh lôi cuốn không ngừng của bao nhiêu sự rủi ro, bất trắc sao được?

Nhân bỏ Hà Đông ra Hà Nội. Trong tám năm lầm than lam lũ, tay làm chẳng đủ hàm nhai, Nhân sống một sự sống hết sức khổ sở vì cô độc, vì thiếu thốn quá. Cứ xem chỗ Nhân ở nay Bạch Mai, mai dốc Yên Phụ, ngày kia bãi Nhà dầu, ít lâu nữa nhập với dân Bãi cát, thì đủ hiểu đời Nhân chẳng được phẳng lặng một chút nào. Lại còn bao phen, không có tiền thuê một chỗ nằm, Nhân đành phải ngả lưng vạ vật ở những bờ hè, xó cửa hay ở dưới gầm cầu, hay ở bãi bờ sông.

Những đêm đông rét mướt, những ngày dài mưa gió, gối đầu lên bọc quần áo rách mướp, Nhân hằng nhớ đến Mũn.

Rồi những lúc trông vùng trời nặng nề phủ kín mây đen, hay qua lớp mưa trắng xóa, chập chờn cảnh sông hồ, đồng ruộng, đường sá mịt mù xa thẳm, Nhân lại thấy lành lạnh trước ở ngực rồi dần dần lan khắp cả thân thể. Tim Nhân bấy giờ như đập yếu đi. Nhân bùi ngùi nghĩ ngay đến sự cùng khổ, đói rét đau đớn không bao giờ hết giày vò Nhân và những kẻ khác. Những kẻ đã ốm lả! Những kẻ đã khản cổ vì kêu gào, những kẻ yên lặng chờ cái chết kéo đi.

Sao trong số người đó lại không có Mũn? Mũn! Tội nghiệp! Người bạn gái gầy còm ốm yếu của Nhân.

May thay! Sự tình cờ run rủi, một buổi sáng Nhân gặp Mũn ở ga Đầu cầu xuống. Nhân đờ người ra hồi lâu mới dám lên tiếng gọi, vì Mũn trông lạ hẳn đi.

Thân thể nàng mảnh dẻ nhưng chắc chắn. Nước da ngăm ngăm đen nhưng gương mặt đầy đặn phúc hậu. Nhất là chiếc quần nái mới, chiếc áo the mịn mà đôi vai, đôi vòng khuyên vàng lấp lánh dưới chếp khăn vuông đen mượt càng làm Nhân ngạc nhiên hơn.

Mũn phát đạt, sang trọng đến thế ư?

Nghĩ thế, Nhân mừng rỡ cho nàng và hơi tủi thẹn cho mình. Nhân cúi nhìn hai ống quần nâu lấm láp xắn lên tận háng dưới manh áo rách xoạc vai và cụt tay. Nhân còn đương phân vân chưa biết chuyện trò ra sao, Mũn đã ôn tồn hỏi:

- Anh Nhân, em nom anh lạ quá!

Nhân thành thực cười:

- Chuyện! Tôi là phu phen khuân vác vất vả mà.

Nhìn sâu vào mắt Mũn, Nhân nói tiếp:

- Trông Mũn cũng khác trước nhiều!

Mũn đưa mắt lặng lẽ nhìn Nhân chép miệng:

- Anh tính, tám năm trời còn gì?

Nhân, giọng bỗng nhỏ đi:

- Những tám năm, chóng quá!

Rồi cả hai cùng cúi mặt xuống. Chắc như Nhân nàng đã nhớ lại cái thời kỳ còn thơ ấy, Nhân và nàng hồn nhiên nô đùa trong những vườn hoang, xó chợ, dưới mái hiên, hay trong các cống khô cạn. Hương hoa thiên lý, sắc hoa râm bụt, mùi vừng rang bùi đậm trộn cơm độn ngô khoai và mùi bún chả lướt qua mũi Nhân, lướt qua mắt Nhân cái hương sắc quen quen của thuở ngây thơ đã êm đềm qua trong cảnh khốn cùng.

Một lần nữa hai người lặng lẽ nhìn nhau, bốn mắt hình như ướt át. Nhân bùi ngùi chực nắm lấy tay Mũn và tự nhiên trống ngực Nhân đập mạnh quá và thân thể bứt rứt lạ lùng.

- Mũn đã có chồng rồi?

Buột miệng thốt lên câu ấy, lòng Nhân càng náo nức hơn. Thì Mũn đã mỉm cười đáp:

- Phải, em đã có chồng.

Ngừng lại giây phút, Mũn khẽ đưa nhìn nét mặt Nhân đen sạm bỗng đỏ bừng rồi xám ngắt. Nàng nói tiếp:

- Mà là người ở Hà Đông.

Nhân sửng sốt:

- Người Hà Đông? Ai đấy?

Mũn mỉm cười. Nàng ngập ngừng:

- Tên là...

Giọng run run, Nhân hỏi:

- Mũn nói đi, đừng giấu tôi mà!

Tiếng còi xe hỏa hét lên. Chuyến tàu Bắc Ninh - Hà Nội mười một giờ đã về. Mũn ái ngại bảo Nhân:

- Chắc anh chưa ăn cơm, thì hẵng vào hàng cơm bên kia đường ăn với em một thể rồi em nói chuyện chồng con em cho mà nghe.

Không để nàng nói nốt, Nhân ngắt lời:

- Mũn đã có con?

Mũn chỉ hơi gật đầu rồi giục Nhân sang hàng cơm. Nàng đi trước, Nhân đi sau, hai cái bóng in song song lên mặt đường dựa bốc hơi nóng gay gắt với hàng trăm cái bóng lúc nhúc khác của những phu phen thuyền thợ nhốn nháo ở các ngả dồn về.

⚝ ❖ ⚝

Thì ra Mũn chưa lấy ai tuy năm ấy Mũn đã hai ba, hai bốn tuổi rồi. Nàng hơn Nhân ba tuổi. Mà chính Nhân mới là người xứng đáng làm chồng Mũn, để cho Mũn trao xương gửi thịt suốt một đời.

Trong sáu năm, hai vợ chồng ấy sinh ba đứa con: hai trai, một gái. Nhân đi làm khuân vác ở bến tàu thủy, bến ôtô. Còn Mũn, vẫn giữ cái nghề nấu bánh bột lọc, bánh củ cải đội đi rong phố bán như khi cách biệt Nhân, lần hồi với người mẹ nuôi đã chết rồi ở Bắc Ninh.

Kể như Nhân thì hai tay làm chẳng đủ nuôi miệng, nhưng nhờ có Mũn cần kiệm buôn bán và tiêu pha dè sẻn từng đồng, nên gia đình không đến nỗi thiếu thốn quá. Trong cảnh nghèo nàn hai người vui vẻ với cái hạnh phúc bé nhỏ nhưng quý báu của đời họ.

Tuy một đôi khi vợ chồng xích mích nhau hoặc vì kẻ chiều con quá, hoặc vì người trót nặng lời, nhưng sự giận hờn chỉ thoảng qua rồi đời họ lại như mặt hồ một khi gió tắt thì trở nên phẳng lặng dưới trời cao sáng.

Đàn con mỗi ngày một lớn, sự ăn uống may mặc càng tốn kém. Muốn kiếm thêm lãi, Mũn phải đi thêm buổi chợ nữa và làm nhiều bánh hơn. Mọi khi Mũn làm hàng đến mười giờ tối thì nay Mũn phải thức quá nửa đêm.

Bao phen, nhất là về những đêm hè oi ả, tuy nồng nực bức bối mà phố xá đã im lặng vắng vẻ cả rồi, Nhân ẵm con ngủ, chợt thức giấc, vẫn còn nghe thấy tiếng đũa cả xiết rì rì trong chảo bánh và tiếng lửa reo vù vù, thì Nhân cực lòng quá! Nhân toan ngăn không cho Mũn đi bán hai chiều hàng nhưng nghĩ đến mấy bận sinh nở vừa qua, Mũn đau yếu mà không có tiền dành dụm, phải lột chiếc quần nái, rồi chiếc áo the đổi vai, rồi tháo vòng khuyên, còn chiếc thắt lưng sồi se và chiếc áo cánh lụa cũng phải cởi ra nốt để bán lấy tiền uống thuốc và mua gạo, Nhân đành vuốt ngực rồi nằm xuống.

Nhân cũng muốn hết sức làm việc để vợ con no ấm nhưng không thể được thì biết làm sao! Vả lại, Mũn vẫn thường ngọt ngào an ủi Nhân:

- Thôi mình ạ, cảnh ngộ eo hẹp bắt buộc phải thế, mình cũng đừng nên phiền muộn làm gì. Miễn tôi buôn bán vất vả nhưng chẳng phải như ai bị chồng hành hạ, mẹ chồng vùi dập, chị em chồng đay nghiến là được rồi. Nghèo túng ta lần hồi, tiện ai người nấy xoay xở.

Và, muốn cho Nhân vui lòng hơn, Mũn vẫy đàn con lại vừa vuốt lưng Nhân, vừa dịu dàng nói:

- Mà mình trông ba đứa con nhỏ hay vòi vĩnh, hay quấy khóc kia kìa, chăm nom chúng nó thật bận bịu vô cùng thế mà mình lại còn phải trông coi cả cơm nước cho cả nhà thì sự vất vả nắng nôi của tôi đã thấm thía gì.

Mũn khéo nói quá khiến Nhân phì cười.

Cuối năm thứ tám Mũn sinh một đứa con trai, Mũn chỉ nghỉ vài bốn ngày rồi lại phải làm bánh đi bán. Cùng một ngày đó Nhân bắt đầu đau mắt.

Bệnh đau mắt lạ lùng quá! Không đầy năm hôm đã làm hai mắt Nhân đỏ ngầu, sưng mọng lên, không sao mở ra được.

Mũn lo lắng, Nhân kinh sợ, Mũn phải mượn một người vú già để trông nom đàn trẻ và cơm nước. Nhưng nào Mũn đã yên lòng, cứ cách một giờ lại tạt về nhà đắp thuốc, rỏ thuốc cho Nhân.

Hơn hai tháng, tốn không biết bao nhiêu tiền thuốc thang mà bệnh tình Nhân vẫn không thấy đỡ. Trong nhà có đồ vật gì đáng giá, Mũn cầm bán hết. Nàng chạy vạy chỗ này, giật lại chỗ khác, nhận làm cả bánh cho vài hàng cơm sang trọng.

Sau cùng, không thể ở nhà được, Nhân phải xin vào nằm điều trị ở tại nhà thương chữa mắt...

Thì một buổi chiều, Nhân chỉ có thể nhớ được là một buổi chiều, không rõ quang đãng hay u ám, tươi đẹp, hay buồn rầu, Nhân mở được mắt ra.

Trời ơi! Nhân sướng quá! Nhân gọi ngay Mũn và đàn con lại, giương to mà nhìn... Nhưng!... Nhưng!... Nhưng Nhân thấy trước mắt là một màng đen tối. Nhân ngờ vực, dụi mạnh mắt. Nhưng... vẫn cái màng đen kịt ấy bịt lấy mắt Nhân.

- Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi!

Rồi không thể nén được sự chua xót, Nhân ôm ngực ngã xuống giường. Nhân thiếp đi trong tiếng vợ con khóc như ri.

Sao lại có thể như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau đớn cho hai người như thế được? Sao lại người ấy đã cùng khổ mà lại còn phải chịu đựng nhiều sự cay đắng làm vậy? Sao chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành chịu khó như vợ chồng Nhân những đọa đầy khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc nhỏ gây dựng trên từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt, vũng máu của vợ chồng Nhân lại chóng bị phá tan đi?

Nhân mù rồi! Nhân mù rồi!

Nhưng từ ngày Nhân mù, gia đình Nhân không kém vẻ thuận hòa ấm cúng mà còn vui vẻ êm đềm hơn. Mũn vẫn đi hai chiều bánh và nhận làm cho nhiều hàng cơm có tiếng. Và, muốn làm cho chồng yên lòng, quên sự buồn bã, Mũn cho thằng bé lớn nhất đi học tới khi xem cùng viết thông quốc ngữ. Rồi Mũn sai nó đi các nhà mua bánh quen, mượn truyện và báo chí về đọc cho chồng nghe. Nàng không ăn cơm trưa ở chợ nữa, dù xa dù gần, nắng hay mưa, cứ đến tầm thợ thuyền về là nàng đã có mặt ở nhà, ăn uống với chồng con.

Mũn vui vẻ quá! Sau bữa cơm chiều, nàng thôi bế con thì lại gọi các đứa lớn đến cả giường Nhân, bầy đủ mọi trò cho chúng nô đùa.

Dần dần Nhân quên hẳn sự đau đớn đui mù. Lòng hy sinh của Mũn, sự thương mến của đàn con ríu rít đã làm mất hẳn những tư tưởng hắc ám thường thì thầm xui giục Nhân tìm cách chết đi để Mũn nhẹ một gánh nặng trên vai. Không những thế, trong tình thương yêu ấy, Nhân còn cảm thấy đời vui vẻ, Nhân ham thích sống, sống để làm chồng một người đàn bà yếu đuối nhưng can đảm, để làm cho một bầy con lúc nào cũng nhởn nhơ vui cười.

Song, ít lâu sau, Nhân thấy vì sự yên vui trong gia đình mà Mũn phải chịu nhiều sự ức hiếp khổ sở quá. Nàng như là một tấm lá chắn đỡ lấy trăm nghìn mũi tên sắc nhọn để che chở cho chồng con được vẹn toàn.

Vì thỉnh thoảng Nhân nghe lỏm được những mẩu chuyện của Mũn và người vú già thì thầm trong những đêm khuya.

- Hôm nay nó lại dám nặng vé hay sao mà mợ ăn qua quýt vài hột cơm như thế?

- Mợ nhỉ, nó ức mợ thật, nấu thêm vài cân bánh chực trốn vé, nó bắt được, nó tha phạt mợ, nhưng lại lấy chỗ bánh thừa ấy đi và "đẽo" thêm dăm xu nữa thì cũng quá tội!

- Thôi mợ ốm thế thì hẵng nghỉ nhà vài buổi, vay gạo hàng xóm, rồi bớt ăn trả dần cũng được mà.

- Hay mợ để tôi đội đi bán, chứ nó đuổi, nó xô xe đạp dập cả chân mợ, sướt cả mày mặt mợ, thì mợ đi chợ được sao?

- Mà mợ à, nước chanh, nước đá, kem, sê-cấu, kẹo, bánh... nó tranh hết khách mợ thì mợ xoay hàng khác. Chứ thứ bánh bột và củ cải này chỉ có thể bán cho những nhà giàu sành ăn thôi. Mà đã giàu, đã sành ăn, chắc chúng trả sát giá, không khéo mình lỗ vốn mất.

Nhưng từng ấy sự ức hiếp, vất vả cũng chưa đủ hành hạ Mũn. Giữa một buổi trưa mùa hè, một bọn người kéo đầy vào nhà Nhân báo tin: "Vợ Nhân chết".

Nhân giật nẩy mình, mặt xám lại:

- Vợ tôi chết?!

Thì người ta cho biết duyên do:

- Tầu đã súp-lê lần thứ ba, đã kéo neo, gần chạy rồi mà Mũn còn tranh nhau bán bánh. Người bán cao lâu ở tầu thấy thế bèn ẩy Mũn ra ngoài. Giữa lúc đó một bọn soát vé chợ đương hò hét gọi những người bán hàng khác. Mũn dùng dằng, không muốn lên bờ. Người bán hàng ở tàu cáu tiết, cầm cả mâm bánh liệng xuống phà. Mũn phải vội nhảy theo, trượt chân nàng ngã nhào xuống sông. Nước chảy mạnh; người ta tốn công tìm để vớt mà chưa thấy xác.

Chỉ nghe đến đây thì tai Nhân ù hẳn đi, đầu Nhân choáng váng, Nhân chẳng còn biết họ nói, họ làm những cái gì...

Mũn chết! Thế là hết! Đời cha con Nhân thật hết cả chỗ nương tựa... hết cả mọi sự yên vui; mọi ánh sáng, mọi hơi sưởi ấm!

⚝ ❖ ⚝

Ngày này, bố con Nhân không sao còn có cái gian nhà lá lụp xụp ở giữa bãi Nhà dầu mà chui ra rúc vào nữa. Cái gia đình không sao còn cái ngày quây quần trên chiếc phản gỗ rộng mà vui cười bên tiếng quấy bột rì rì lẫn tiếng than củi nổ lép bép và tiếng nói nựng con ngộ nghĩnh của một người đàn bà nữa.

Đồ đạc đã bị chủ bán cả rồi vì thiếu tiền nhà. Sự sum họp êm đềm đã tan tành hết vì Mũn chết, vì năm cha con kẻ khốn cùng này không sao kiếm đủ miếng ăn.

Những đêm đông rét mướt cũng như những đêm hè oi nồng, bố con Nhân chỉ có thể lê la nay xó chợ này, mai xó chợ khác, hết ở dưới những mái hiên trong các phố vắng vẻ thì lại nằm vạ vật ở gầm cầu, bãi cát, bờ sông.

Hai thằng con lớn của Nhân từ lờ mờ sáng đến quá nửa đêm, rạc cẳng xách hòm lạc rang đi bán rong phố. Còn Nhân, Nhân dắt ba đứa nhỏ cũng đi rong phố, nhưng đi... ăn mày.

Tuy đã phải làm cái nghề cùng mạt này mà Nhân vẫn còn phải lo lắng. Nhân e sợ một ngày kia không còn đủ sức cất tiếng kêu rên, van lơn thiên hạ trên con đường lầm cát bụi, con đường đã chứng kiến bao nhiêu thây chết dưới những nanh vuốt của thiếu thốn, của khổ sở... của đọa đầy...

1937