Nhà Bố Nấu
Nói thế chứ bác Nấu làm gì có nhà. Một gian nhà lá lụp xụp, thuê tám hào một tháng, là chỗ ở của gia đình bác với những đồ đạc ọp ẹp lắt nhắt không bao giờ thay đổi. Khói bếp luôn luôn lùa vào đầy nhà khiến bà mẹ bác mỗi khi bế cháu ra sân lại vừa chấm nước mắt, vừa ho sặc sụa và lại rền rĩ kêu trời. Những ngày hè nung nấu, ở gian nhà ấy, từ cái giường, cánh phản, cái bàn mất chân đến những quần áo, tã, rổ rá đều nồng hẳn lên trong một làn bụi nhảy múa và mùi hôi gây làm nghẹn cả thở. Rồi những ngày mưa, cống rãnh trong xóm tuy nhiều nhưng không có lối thoát, nước mưa ngập lại ở sân, tràn vào nhà, dềnh đến nửa giường là thường. Bác Nấu gái phải đun bếp ngay trên cánh phản gần đó nổi lềnh bềnh những rác rưởi của các xó xỉnh đùn ra.
Nhà bố Nấu.
Chỉ thêm bốn hào nữa là gia đình bác được ở gian trên kia kê được hai cái giường mà vẫn còn lối đi, có cửa sổ, mái lá không dột, vách đất quét vôi lơ hẳn hoi, thềm có gạch và lại xa bếp, xa cầu rửa nữa. Bốn mươi xu, món tiền chỉ mua một thỏi son bằng đầu ngón tay, hay một điếu thuốc hút chỉ vài phút đã hết, hay một ly rượu thơm không đủ súc miệng mà bao nhiêu kẻ không hề nghĩ tới. Nhưng, với gia đình này, nó đã có một giá trị sinh mệnh một con người sống trong những cảnh sống suốt đời đầy những khó khăn thiếu thốn với hai bàn tay trắng.
Năm cái miệng xì xụp húp những bát cháo lõng bõng chia nhau những ngày mưa dầm, gió lạnh. Một thằng nhỏ cởi trần, mồ hôi nhễ nhại, tóc trùm xuống quá gáy, cắm đầu cắm cổ đi bốn năm cây số dưới trời nắng để đưa cho mẹ thêm vài lạng đường bán cháo. Một người đàn ông thần mặt ra trước những bàn tay xỉa xói vì thiếu mấy buổi tiền góp... Những hình ảnh này thường thường nhắc đi, nhắc lại trong cái dòng đời khổ sở ê chề nọ.
Hưng ở chung xóm với nhà bác Nấu đã hơn hai năm. Hưng làm chấm công ngoài Sáu Kho. Buổi đắt buổi ế, Hưng đã phải nhận những sổ về chép và những sách về đóng lại để đỡ vực cho nhà cũng năm miệng ăn: một mẹ già và ba em trai nhỏ. Bảy tám đồng bạc kiếm được hàng tháng của Hưng chỉ đủ trả tiền bốn, năm mươi ống cân gạo đong chịu ký của người ta mà cả Hưng, mẹ và các em chỉ dám ăn ngày một bữa. Hưng lại đành phải dạy một lớp học tối mà trong số những học trò chẳng tháng nào trả đúng tiền ấy có thằng con bác Nấu.
Riêng bác Nấu trai, hễ rỗi là sang nhà Hưng. Bác kể lể, than thở với Hưng thân mật và tin cậy hơn hết cả. Vì Hưng biết trả lời những câu bác hỏi về cuộc đời, về sự sống, về số phận mà từ ngày gặp Hưng bác choáng váng thấy bác đã u u minh minh, chịu khốn nạn, mà chẳng biết mình khốn nạn. Lòng tha thiết thương yêu và tin tưởng ở những con người lầm than đã làm đậm đà thêm lời nói của Hưng, đưa nó một ngày một đi sâu vào sự rung động và suy nghĩ của bác Nấu. Nhiều lúc, bác đã bừng bừng cả người, thấy sao những đau khổ, tàn ác, bất công cứ kéo dài mãi mà người ta rất có thể trừ bỏ đi để sống một cuộc đời no ấm tốt tươi.
Bác Nấu biết rất nhiều nghề: làm phở, kem, bánh cuốn, đổ bún, bánh bao, lục tào xá, cháo gà, kẹo kéo. Có ai thuê bác còn làm cả thợ nề, xe, vườn. Sẵn có sức khỏe và chẳng bao giờ dám ngại ngùng việc gì, bác làm cho ai mướn bác cũng vừa lòng, cũng tin cậy. "Nhà bố Nấu" cái tên này không một ai trong xóm Cấm không biết. Nhắc đến nó, người ta phải tưởng ngay đến một khổ mặt đầy đặn, một giọng nói thong thả, một dáng đi mạnh mẽ và những câu chào hỏi thân mật với mọi người.
Bác Nấu cũng còn mẹ già. Bác muộn con. Gần bốn mươi mà bác mới được đứa lớn lên tám và ba đứa nhỏ hãy còn khóc quấy.
Vợ bác, khác hẳn phần đông những đàn bà trong xóm. Bác Nấu gái ít điều, ít lời, lúc nào cũng tươi cười. Không bao giờ bác chịu bỏ một buổi chợ. Từ giã xôi, nồi ngô bung, đến mẹt bún, bác Nấu gái biết ế cũng cứ làm. Bác say mê buôn bán đến quên cả ăn cả ngủ. Và bác còn bỏ cả ăn, ngủ vì nợ. Bác nợ nhiều quá, chưa xong món này đã tiếp ngay món khác. Nhiều phen bác phải giấu cả chồng. Bác không dám để chồng thấy sự thua lỗ, chồng chất trong cái lúc khó khăn mà thà một mình bác chịu tất cả mọi nỗi còn hơn để chồng con hay biết.
Đã có lần người chồng điên lên, túm lấy tóc vợ, hét:
- Giời ơi! Mày có vay mượn ai cũng lại cho tao biết chứ. Chỉ thậm thụt, thậm thụt để người ta đương réo rắt chửi bới kia kìa...
Người vợ gỡ tay chồng, gục mặt vào lòng, nức nở:
- Biết thì anh làm gì được! Thôi tôi van anh, họ chửi bao nhiêu tôi xin nghe cả.
Nước mắt người chồng lại giàn giụa, và đau tủi lại hiện cả lên gương mặt đáng lẽ sáng sủa nhưng vì dầu dãi nên đen sạm và càng ngày càng hốc hác.
Bác Nấu còn là anh cả. Dưới bác, một người em trai cũng lấy vợ sớm, con cái bé dại, thuê một gian nhà như bác, và cũng buôn bán nhỏ nhặt lần hồi. Sau người em này, một người ở nhà quê làm ruộng, một người thợ sắt và một người em gái mới lớn. Trước kia người em gái này theo bác Nấu gái chợ búa. Bẵng một dạo, vắng mặt y. Tý cô đi lấy Tây. Cái tin ấy đã rung mạnh tim Hưng trước nhất và hơn hết. Nhưng bàng hoàng giờ lâu, sau đó, lòng Hưng bị thắt chặt lại bởi một tiếc thương tê tái và chua xót.
Tý cô không đẹp lắm nhưng là một con gái nổi nhất xóm. Nước da Tý trắng hồng, mắt long lanh, môi mỏng tươi, tiếng nói lanh lảnh. Tý rất có thể trở nên một người vợ đảm đang, một người mẹ nhiều con, một sự giúp đỡ cho một người chồng lam lũ và một niềm an ủi cho một người mẹ chồng thèm cháu kháu khỉnh và dâu chịu khó.
Cái việc Tý bỗng thay đổi ấy Hưng vẫn thấy sao mà nhanh chóng đến thế được? Tý hay làm dáng, cười cợt và chỉ ưa buôn bán những thứ hàng nhẹ nhàng sạch sẽ như bánh trái. Khách hàng của Tý phần đông ở ga và cổng Sáu Kho, cổng trại lính. Có khó khăn gì phải cười một nụ cười lẳng lơ với một người khách hàng đĩ tính. Khi ấy nói giá bao nhiêu họ cũng mua. Rồi từ sự đụng chạm coi thường đến lúc nắm lấy tay nhau, ngồi sát cạnh nhau, cười tíu tít lên... chả mấy chốc người con gái nọ coi cả sự ái ân cũng là sự mua bán.
Không! Tý không thể mãi mãi là một cô hàng cứ để không cho khách hàng cười đùa mà Tý thấy nhiều kẻ thật là cục súc, tàn nhẫn, đểu giả, chúng chỉ bỏ năm bảy xu một hào mà được cả những lời ân cần và sự gần gụi. Nhất là Tý lại có chút nhan sắc và khôn ngoan. Vậy Tý đã nghỉ chợ, tìm một cảnh nhàn hạ, sung sướng như một số những người con gái cũng nhan sắc và khôn ngoan nhất là một sự tất nhiên. Lấy ai cũng là chồng. Tý không muốn nhận cái tiếng đĩ thõa của trong xóm, ngoài phố bêu riếu. Tý không muốn ước ao mãi cái ao ước chỉ được ngày hai bữa ăn chắc bụng, chỉ được khỏi rách rưới, rét mướt. Và Tý không muốn thấy mãi Tý không có chút hy vọng rực rỡ gì, Tý cứ sống lẽo đẽo mãi với mẹ, với anh chị và các cháu nheo nhóc mà Tý cần phải giúp đỡ, và tìm mọi cách nào để cũng được mở mày mở mặt.
Khắp mặt người lớn, trẻ con, ông già bà lão trong xóm đã đổ xô ra nhìn Tý ở trên xe bước xuống đi vào cái cổng vẫn ra vào mẹt cam, gánh thạch của Tý. Tý mặc áo nhiễu tây hồng, quần lụa trắng, tóc chải bồng, hoa tai, nhẫn ngọc lung linh. Hình dáng Tý đã nổi ngời lên giữa cái sân ngổn ngang những chum vại, chậu rửa, bếp than, quang gánh, rác rưởi. Tý đã chỉ cười, ai hỏi cũng cười, ai gọi cũng cười. Tý đã cho tiền tất cả trẻ con hàng xóm và xoa đầu chúng nó.
Bà cụ mẹ bác Nấu nhìn con gái, lắc đầu một cái rồi đi vào nhà, ngồi sụp xuống đất, bưng mặt khóc không ra tiếng. Cuộn bạc giấy ấn vào tay bà cụ đã bị vứt tung ra phản giữa đống áo quần mới may: quần nái, áo the, khăn vuông baga tóc, dép da láng biếu bà cụ. Không thể nào dỗ được mẹ, Tý cũng ngồi xuống bậc cửa và úp mặt vào tay khóc theo. Vợ chồng bác Nấu thần người ra, trông nhau. Đám trẻ con bâu đến trước gian nhà đều ngơ ngác. Chúng không cười nói ồn ào như trước.
Hôm sau, Tý từ giã mẹ để theo chồng là một viên cai xếp ra Móng Cáy. Đêm qua, Tý khóc nhiều quá, mắt sưng mọng. Một lần nữa, trước khi ra xe, Tý lại ép mẹ nhận và Tý lại khóc vì bà cụ vẫn nhất định chối từ:
- Cô sung sướng mặc cô. Tôi có rách mặc rách, quần lành áo tốt cô may cho tôi đấy cô đem đi cho ai thì cho. Và tôi chẳng dám cần cô đem tôi đi mà phụng dưỡng báo đáp. Tôi chỉ ở chết già với thằng bố Nấu và các con nó thôi.
Tý đã ra đi trước tiếng reo hò của đám trẻ:
- Hê!... Hê!... Hê...!... Cô Tây! Cô Tý Tây!
Những tiếng reo này và biết bao nhiêu con mắt nhìn giễu cợt đã theo Tý ra tận ngoài đường.
⚝ ❖ ⚝
Đến ngày nay.
Cái gia đình lam lũ kia vẫn lúc nhúc trong gian nhà úp xúp và hôi nồng đã ba năm không một vật gì mới hiện ra ở dưới cái mái lá tối mờ. Vẫn cái giường tre đu đưa, kêu răng rắc mỗi lần những đứa trẻ nhún nhẩy; vẫn cánh phản lè tè mọt nghiến rền rĩ; vẫn cái bàn mất chân buộc vào cột vách. Trưa hè, dưới nắng lửa, vẫn những làn bụi lầm lên chập chờn. Ngày mưa to gió lớn, trên mặt đất ngập nước và rác rưởi người cha vẫn làm thuyền cho những đứa trẻ chơi. Sáng sớm và chiều tàn, khói bếp vẫn tuôn vào đầy nhà khiến bà cụ già lại bế cháu ra sân, vừa ho sặc sụa, vừa dụi mắt và kêu trời day diết.
Trong ba năm Tý đã lấy đến năm đời chồng. Hiện giờ Tý về tỉnh nhà, gần mẹ. Tý sang hơn trước nhiều. Bạn của Tý ra vào nhà anh Nấu của Tý cứ như đi xem hội. Ai nấy đều chải chuốt. Vàng ngọc rực rỡ. Tý đã đi xe đạp và nhảy đầm nữa.
Ngày nay, đi về ở xóm Cấm, người ta vẫn luôn luôn gặp bà cụ Nấu ra ngõ. Không bao giờ bà cụ không chào hỏi trước người quen. Cũng không bao giờ người ta thấy vắng trên tay cụ cái Tý Rang khóc nhèo nhẽo. Nhiều nếp nhăn chất thêm lên cái trán lặng lẽ dưới những sợi tóc cứng, bạc lam nham. Hai gò má bà cụ trũng thêm làm chìa hàm răng móm mém. Trên cái thân hình còm cõi ấy, vẫn cái thứ áo nâu mỏng tứ thời, lúc nào cũng nhớp nháp dãi của con bé cháu.
Tất cả người bà cụ đã cằn như một que củi. Nhưng, ở cái nụ cười luôn mở rộng ấy vẫn thắm thiết cái vẻ hiền từ và chịu đựng của một lòng mẹ già chỉ biết có con và cháu trong cái cảnh đầu tắt mặt tối đổ mồ hôi lấy bát cơm ăn.
1939