Hai Mẹ Con XÓM CHỢ
Xóm chợ đã ngập bóng tối và mùi của rác bẩn, của nước ao hồ lọc qua sương khuya, lan ra rất rộng, rất xa.
Đêm còn thoáng có mùi hoa dạ hương cay ngát và tiếng ụt ịt của mấy chuồng lợn, tiếng chiêm chiếp của mấy ổ gà rì rầm ở ven những giậu đầy gai góc, những cống rãnh ứ bẩn.
Sau một ngày náo nhiệt, mọi vật đều nặng trĩu nhọc mệt, cũng như bà mẹ Thưởng vì chạy đông, chạy tây suốt ngày nên mình mẩy đau nhừ, lưng sụn đi. Những giậu găng, những giậu râm bụt, những cụm ráy dại ngoi ngóp trong cát bụi và rác rưởi tích lũy ít ra cũng hàng năm. Thời giờ đâu mà quét dọn, giữ gìn các chỗ này? Ai ai cũng có thể đổ ra đó hàng thúng vụn vặt lông lá, xương xẩu, cá mú, sau những chiều chợ họp cố đến tận tối mịt.
Cả những mái lá nâu cặn, những túp lều phủ rơm đen mốc, cũng bẩn nhớp và tối tăm vì đầm đìa thứ khói bếp tím đặc về những buổi chiều gần tàn, giờ phu phen thuyền thợ sắp tan tầm, những sáng tinh sương, giờ đám người lao động kia đã bắt đầu một ngày đầu tắt mặt tối. Những nóc nhà ấy lụp xụp thêm, lún hẳn xuống, như những lưng còng của người già sống dai.
Mấy cây bàng non, mấy cụm chuối đực và mấy chòm cau khẳng khiu một ngày một xơ xác. Đất trồng đã hết màu rồi, con người đã cướp lấy để nuôi những cây rau ăn độn cơm. Trong gió lạnh, những cây kia bơ phờ rung động. Lắm lúc như sắp bật lên để đi tìm những mảnh đất khác được chăm bón cẩn thận, hoặc chưa hằn vết một lưỡi xẻng hằn học.
Hơn hai mươi năm chung đụng với nhau, người và vật bị ràng buộc lại bởi không biết bao nhiêu tình cảm.
Cũng như những đêm đã thao thức, trằn trọc vì lo nghĩ hết việc này đến việc khác, bà mẹ Thưởng thấy trong khắc giờ yên tĩnh, cái xóm chợ lúc nhúc, tối tăm kể lể với bà nhiều lắm, bằng một giọng thân yêu chậm rãi, của một người bạn già, bằng một giọng thật thà âu yếm làm cõi lòng mở rộng ra. Nhiều ý nghĩ đã nảy ra trong tâm trí bà mẹ Thưởng bởi những tiếng rủ rỉ ấy! Nhưng nó cùng bà trả lời không sót một điều nào.
MỘT THỜI QUÁ VÃNGTa hãy cùng bà mẹ Thưởng trở về quá vãng ít phút rồi hãy cùng bà sống những ngày giờ trằn trọc, thao thức trong đêm ấy.
Tên bà là Gái nhỡ. Cái tên không biết của ai đặt cho. Người con bồ côi cha mẹ từ khi chưa biết nói này đã chuyển qua tay nhiều người và ném đi nhiều tỉnh. Mãi đến năm lên chín cái tên Gái nhỡ mới là cái tên nhất đinh. Gia đình nuôi bà nghèo lắm: Cha mẹ già yếu, hai vợ chồng hiếm hoi, sống lần hồi, thiếu thốn. Nhưng tất cả đều cùng tốt bụng thương mến người cùng cảnh ngộ. Người chồng làm thợ cưa, quần quật suốt ngày. Nhiều khi bác phải thức tới nửa đêm để kéo khoản hàng trăm mạch. Người vợ làm và bán quà bánh. Mùa đông, mùa thu: thang, cuốn. Mùa xuân: bánh trôi, bánh chay. Mùa hạ: thạch, chè nước, xôi vò. Bà rất hiền lành và chịu khó, được mẹ nuôi mến lắm, sắm cho cả vòng khuyên và áo the, quần nái bằng món tiền bỏ ống mỗi ngày dăm ba xu đổ ra.
Nuôi nấng bởi tinh thần ham sống và làm việc của cha mẹ nuôi và những người nghèo khổ chung quanh, bà đã là một cô gái tháo vát nhưng vẫn thùy mị, nết na. Và đến lúc vợ chồng người nuôi bà theo nhau chết trong một tháng, sau vài cơn sốt kịch liệt, bà vui vẻ và sẵn sàng nhận lấy cái trách nhiệm làm ma chay và thay mặt kẻ chết mà trông nom ông cụ, bà cụ già yếu.
Người ta còn nhớ mãi đến lúc liệm xác và hạ huyệt hai vợ chồng người chết, bà mới cất tiếng khóc. Những người đi đưa cũng mủi lòng rớt nước mắt theo. Rồi khi bà vén chiếc mũ mấn và sụp xuống chân huyệt lạy thì tất cả đều ôm lấy mặt mà khóc nức nở.
- Cha mẹ ơi! Giờ đây con biết lấy gì mà giả nghĩa công ơn nuôi nấng, dạy bảo sớm hôm? Hờ cha ơi! Hờ mẹ ơi! Từ giờ trở đi con biết ăn cùng ai, nói cùng ai! Chua xót cho con, cha ơi! Mẹ ơi!
Tất cả lòng thương xót thấm thía của bà vọng cả lên chan hòa trong tiếng khóc nghẹn ngào mà bà không còn thể giữ được. Mấy người đàn bà nói khẽ với nhau:
- Thế mới biết con nào cũng là con, cứ đối đãi tử tế thì thế nào cũng được lại sự thủy chung nhân nghĩa.
Rồi chạnh tưởng đến chồng con mình đáp lại sự lam lũ vất vả của mình bằng sự bội bạc, ngạo ngược, họ càng tủi thân, càng tràn trề nước mắt, khóc, khóc. Người đàn bà Việt Nam cằn cỗi vì cùng khổ, vì con cái nheo nhóc, vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén nặng nề, đã để tất cả lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc, những lúc họ không còn thể chịu đựng được, chứ không biết tìm cách tự giải phóng, thoát khỏi những sự áp chế bằng năng lực dồi dào sẵn có của mình...
Năm ấy bà mới mười bẩy. Người mảnh dẻ, da đen giòn, mắt sáng miệng cười tươi. Gánh hàng nhún nhẩy trên vai thon thả của bà và những tà áo nâu mềm mại bay bướm làm bao nhiêu trai tơ say mê. Nhưng bà chỉ cúi mặt lặng thinh những khi người ta ngỏ ý làm mối bà cho đám này, đám nọ. Ông cụ, bà cụ đã nhủ nhỉ nhiều lần khuyên bà đừng e ngại đi lấy chồng thì hai người sẽ trơ trọi hay bị nhà chồng hắt hủi. Cốt nhất chỉ ở bà đối đãi cư xử khéo léo thôi. Dân dấn nước mắt, bà đứng dậy và đi sang nhà chị em.
Đâu vì duyên cớ mà bà chối từ việc hôn nhân! Bà có phải như nhiều người con gái khác lấy chồng không phải cho mình mà cho cha mẹ. Bà không còn một ai thân thích, không bị ép uổng, vậy bà có quyền tự kén chọn. Nhưng lòng bà lúc này vẫn còn phẳng lặng. Thỉnh thoảng mới có một tình yêu ngây thơ, xa xôi, nhẹ nhàng, rung động. Người mà bà sẽ trao gửi cả một đời chưa gặp! Bà còn phải chờ. Thì, trong khi ấy tình thương mến của bố mẹ người đã nuôi bà thấm thía quá, ấm áp quá! Bà sung sướng và tự kiêu thấy mình hẳn là ruột thịt của hai con người chất phác kia.
... Người đàn ông ấy đã đến! Nhưng chưa được bao lâu đã xa hẳn cuộc đời êm đềm của bà. Chồng bà chết khi bà vừa đủ hai mươi tuổi, với một đứa con còn nằm trong bụng.
Một lần nữa với những tiếng khóc nức nở.
Đứa con ấy là Thưởng ngày nay.
Thưởng không sài đẹn, quặt quẹo như những đứa trẻ khác. Sữa bà tốt lắm, phải cho mấy đứa con hàng xóm bú đỡ. Thưởng giống bà như lột: mắt đen láy, miệng nhỏ, môi mỏng và có hai lúm đồng tiền ở cặp má hồng mọng... Nhiều người đã lầm tưởng là con gái. Bà gánh hàng đi đâu, Thưởng theo đi đấy. Người ta gọi Thưởng là "cái đuôi của cô hàng xôi chè".
Mấy thức gì của bà làm ra cũng bán chóng hết, vì rẻ và ngon lành, nên bà không gánh đi các chợ và những phố xa nhà. Bà có đủ thời giờ mà chăm nom cho ông già, bà già nọ và đứa con nhỏ bồ côi cha.
Hơn hai mươi năm bà ở nguyên xóm chợ. Mấy lần cháy mấy lần bão đổ, mấy lần bị dỡ, những nhà bà ở tính ra có hơn chục cái. Dù lắm khi bà có sẵn một món tiền và thấy người đánh tiếng bán lại nhà hay cho thuê đất rẻ, bà cũng không dọn đi xóm khác. Rời bỏ nó, đối với bà, như là một sự tình phụ, một sự tan nát mà tất cả tình cảm tốt đẹp trong lòng ngăn giữ không cho làm.
Thưởng lớn như thổi. Đùa nghịch suốt ngày. Không dám để con lêu lổng, bà phải cho Thưởng đi học. Năm ấy Thưởng lên tám, bà hai mươi tám; ông cụ, bà cụ suýt soát bẩy mươi. Tới năm Thưởng biết đọc biết viết thông quốc ngữ và nghe hiểu ít câu tiếng Pháp thường dùng. Bà nhờ người xin cho Thưởng vào tập thợ nguội ở một xưởng máy nhỏ.
Bắt đầu từ đây, đời bà chật vật trải nhiều cùng quẫn! Gánh hàng của bà đã thấy nặng trên vai gầy. Gió rét lúc sáng sớm và sương đặc của đêm khuya lắm phen làm bà rùng mình và chép miệng thở dài. Cả nắng tháng năm thổi bóng đường đi.
Biết làm sao! Cả nhà chỉ trông cậy vào mình bà! Nghỉ một chiều chợ, bốn miệng đói một ngày, và đèo nặng thêm một món lãi. Bà càng phải cố gắng và càng rạc người đi.
- Sao mà ế thế này hở giời!
- Đánh nhau làm gì cho lắm để mà đường, bột bán gấp đôi gấp ba!
- Nghị viên với nghị hòn! Chả xin được cái gì hết!
- Thuế vé nặng mãi lên! Cơ mầu này người nghèo đến chết đói hết thôi!
Người mẹ nọ đã thốt ra những câu ấy những lúc nhặt từng hột gạo vương ra đất và đi nhặt từng xu quà chịu suốt buổi chiều. Ngô, sắn độn cơm cũng thiếu. Phải rút đi ngày một bữa. Nhiều hôm hai mẹ con phải nhường cơm cho ông cụ bà cụ.
Bà cố nuốt nước mắt cay đắng, gượng gạo làm vui cho hai cụ khỏi buồn và Thưởng yên chí học tập công việc. Nhưng trong thâm tâm, bà không thể không khóc được và thấy nào mình có lười biếng, đần độn, mà sao càng đầu tắt mặt tối thì lại càng công nợ càng thiếu thốn. Hay bà gian ác nên bị giời đày đọa? Sự cư xử, ăn ở của bà đối với mọi người, ai ai cũng phải nhận rằng có tồn hồ nhân nghĩa. Nếu có trời thì trời nào lại cay nghiệt đến thế! Thấm thía bà nhận thấy rằng càng cố công cùng sức bao nhiêu bà chỉ làm giàu cho những người giàu sẵn ăn mặc thừa mứa, tiêu pha phung phí.
Nhưng bà không thể tìm ra sự giải quyết, sự hiểu biết để tranh đấu cải thiện đời sống trước những sức ngăn cản của các giai cấp bóc lột. Khi bà chỉ là người mẹ chịu khó, nhẫn nhục và hay lo sợ vì thấy những sự bắt bớ, tra tấn và đầy ải tù tội.
ĐÊM ẤYÁnh đèn hoa kỳ vàng ngà không đủ chiếu sáng hai gian nhà chật hẹp, lụp xụp. Những xó vách và những gầm giường ẩm ướt, đầm đìa trong bóng tối.
Bóng bà Thưởng ngồi trên cánh phản mọt, kê sát cái bàn có ngọn đèn, rung lờ mờ trên bức vách vàng cặn. Bà đã ngồi yên hàng giờ rồi.
Hai tay bỏ xõng trên đùi, đầu hơi ngả về một bên, mắt nhìn một khoảng tối.
Gió thỉnh thoảng rít lên, những tiếng lao xao của cây cỏ nổi dậy, tràn ra rất xa. Đàn lợn của mấy chuồng gần nhà chen lách nhau kêu rầm rĩ.
Khí lạnh ướp cóng da thịt.
Tiếng ngáy ngủ ở gian bên ran đều đều. Mấy đứa con chị cu Năng nằm co quắp, chen chúc trên một cái giường ở dưới bếp nói mê luôn. Hoặc chúng chửi rủa, hoặc chúng kêu gọi, hoặc chúng cười nức nở.
Vẻ thê thảm tối tăm của xóm chợ lúc đêm khuya rõ rệt quá! Không còn sự ồn ào nhộn nhịp lôi cuốn người ta làm việc, cuộc đời lầm than lột trần ra tất cả những cái trống rỗng buồn tẻ, trong số đó đám người cùng khổ kia đã lúc nhúc sống hết năm này sang năm khác.
Bà mẹ Thưởng đã tê tái vì những cảm xúc, những ý nghĩ. Bà đã toan nằm xuống giường để giấc ngủ đem lại sự bình tĩnh, sáng suốt cho tâm trí, sớm đây sẽ giúp bà giải quyết nhanh chóng và chu đáo cái việc quan trọng kia. Nhưng khi duỗi thẳng bắp đùi mỏi nhừ và kéo chăn đắp, bà lại úp bàn tay lên trán. Những ý nghĩ rối loạn trong đầu óc. Rất nhiều lời thúc giục bên tai hãy thức suốt đêm nay để tìm cho câu trả lời chín chắn để khỏi phải mang hận sau này.
- Nên cho Thưởng đi hay không nên?
Bà mẹ lại đau đớn nghĩ đến bố mẹ người cha nuôi mình già yếu không còn trông mong vào đâu để sống và sự sút kém của khí lực mình, rồi đến bao nhiêu nỗi khó khăn không thể vượt qua, bao nhiêu sự điêu đứng sẽ vùi dập đời sống. Lòng càng thắt lại. Bà không dám kéo dài sự tưởng tượng hắc ám mà vội rẽ sang mớ ý nghĩ khác.
Thì lại vẫn những hình ảnh ấy hiện ra, với tất cả vẻ thê thảm, ghê rợn. Vì đồng tiền trong lúc đói rét và thiếu thốn đủ mọi thứ này mà phải để Thưởng ký vào giấy hợp đồng làm việc, bà thấy rõ ràng bà bán đứt con cho sở mộ phu, và bằng lòng cái chết của con đến sớm.
Bà đã nghe người ta nói nhiều và đã thấy nhiều.
Thời hạn năm năm ở đất trồng cao su đó, biết bao kẻ đã bỏ mình, những kẻ đã mang tất cả sức mạnh của một con người trong hai bắp tay rắn chắc, trong lồng ngực mở rộng, với cái tuổi không quá ba mươi tràn đầy hăm hở. Toàn là những trai tráng con cái hy vọng của những gia đình đông đúc, của những người mẹ cả một đời chỉ tìm thấy sự sung sướng trong tình yêu con.
Mẹ Thưởng cũng vẫn chưa quên được những đêm mới đây. Hàng nghìn phu phen, tay xách nách mang, tay bồng, tay bế, lũ lượt kéo xuống tàu trong sự huyên náo của đàn vật đói ngấu bị lùa vào chuồng. Họ kêu gọi nhau, chào bâng quơ, và cười hát huyên thuyên. Trên "ke" máy trục hàng chuyển ầm ầm, xe goòng xô đẩy không ngớt, phu khuân vác hò hét luôn miệng, từng đàn hàng trăm trâu, bò tải sang bán cho Tầu, cho Nhật rít lên.
Nhưng muôn nghìn tiếng ồn ào ấy cũng không giấu nổi vẻ thê thảm tối tăm của sự vui mừng man rợ của đám phu tha phương cầu thực nhốn nháo xuống tàu. Thì, ký vào giấy hợp đồng, đi khám bệnh và lấy dấu tay xong, rồi nhận một món tiền hơn chục đồng. Thưởng sẽ là một người phu cũng bị nhốt kỹ hàng tuần trong một tòa nhà như một đề lao, đến một đêm kia cũng sẽ bị giải đi trong tiếng reo hò của trẻ con náo nức chạy theo xem, và cũng bị dồn xuống tàu, rồi cũng kêu la, cũng chào hỏi. Nhưng, khác tụi phu nọ không có một ai là thân thích đứng tiễn biệt trên "ke", Thưởng có một người mẹ và hai cụ già đứng không vững trông với và kêu gọi bằng con mắt đầy lệ.
Gà đã lên tiếng gáy nhiều lần. Ở mấy gian bên, giường chiếu động sột soạt. Những người làm bánh cuốn, bánh khúc, bánh sắn, nấu cháo, thổi xôi và làm những thứ quà sáng khác đã dậy.
Tiếng vo gạo, rửa rau, đập bột, chẻ củi, thổi lửa ồn dần lên. Bà mẹ Thưởng mệt quá, thiếp đi. Ánh đèn dầu tây vàng đục phủ màu chì lên da mặt bà rám nắng. Mấy sợi tóc rối bơ phờ trên vầng trán tối của bà nói rằng bà tuy ngủ, nhưng tâm hồn vẫn quằn quại trong sự đau đớn và lòng vẫn nức nở những tiếng khóc nghẹn ngào.
Càng về sáng, ánh đèn càng mờ, bóng tối đè nén nặng nề quá! Thỉnh thoảng ở ngực bà mẹ Thưởng rút lên mấy tiếng ho khô khan và những tiếng thở nấc.
Hết vốn rồi, hàng ngày mai không làm! Chồng quang gánh của bà lẩn trong xó tối bị chuột đến sục sạo luôn. Nhưng có gì mà mò mẫm! Một sợi bún cũng không còn dính ở mẹt, một mẩu xương, một vụn thịt cũng bị đứa con chị Năng nhặt nhạnh. Tất cả đều nhẵn quẹn, những thúng mủng ấy, tất cả đều ải mủn cả rồi! Bao nhiêu năm dầu dãi nắng mưa còn gì!
ĐÊM NAYĐêm nay, đã khuya lắm, hai mẹ con Thưởng vẫn còn bàn tính. Thưởng ngồi bó gối, lưng dựa vào vách. Một cái bàn gỗ đã mọt ngăn giường anh và giường bên. Trên bàn lờ mờ chiếu sáng một ngọn đèn dầu tây. Ông cụ trùm kín trong chiếc chăn bao gai, nằm trên chõng tre ở góc nhà. Ở giường bên kia, bà cụ nép mình sát bức vách, ngủ mệt lắm. Bà đã xay đỡ mẹ Thưởng hai cối bột và lau rửa mẹt hàng và bát đĩa.
Mẹ Thưởng thở dài và nhắc lại câu hỏi ban nãy. Thưởng thong thả đáp lời:
- Mẹ ạ, không khổ sở và nguy hiểm như người ta thường nói đâu! Con đã đọc kỹ bản giao kèo rồi. Theo đúng như trong đó thì công việc chẳng lấy gì lam lũ quá. Mình được nhiều giờ nghỉ ngơi, ốm đau không phải đi làm, thuốc thang của sở phát cho, tiền lương cứ mười tám tháng lại tăng một trật, tiền lưu được lãi vậy việc gì mẹ phải lo lắng. Con chỉ phải xa nhà một ít lâu, nhưng con khỏe mạnh thì chẳng làm sao hết.
Bà mẹ lắc đầu:
- Khi cần người làm ai không nói hay nói tốt! Chỉ cốt rủ mình vào tròng thôi! Lúc đó mình trơ trọi ở đất họ, có bị hành hạ, đầy ải làm lụng đầu tắt mặt tối, thì chỉ cắn răng mà chịu. Kêu ca với ai? Mà ai bênh vực cho? Mẹ đã rõ lắm con ạ. Bao nhiêu người ở xóm ta có đi mà chẳng có về. Một đôi khi có người về thì mang theo đủ mọi thứ bệnh tật, nào sốt rét, nào phù sũng, nào ho hen, nào báng tích. Vài ba kẻ chuyên tiền của về cho cha mẹ, vợ con thì toàn là nhờ cờ bạc chứ có nhờ đâu về công ăn việc làm mồ hôi nước mắt của mình? Con không xem đấy như, được đối đãi tử tế thì chẳng ai dại gì chưa hết hạn mà lại trốn về xứ sở, để đến nỗi bị tù tội, đánh đập...
Những điều bà nói, Thưởng biết cả, biết rõ hơn nữa kia. Nhưng Thưởng vẫn phải nói hay, nói tốt cho cái chế độ làm phu để mẹ khỏi lo ngại, cho anh đi. Vì trong lúc này, việc làm không có, người thất nghiệp đông vô vàn, thuế má nặng, buôn không có vốn, và cái gì cũng đắt đỏ, vậy anh ở nhà để chết đói sao? Thưởng chua xót thấy chỉ còn mỗi cách bán mình cho sở nọ, để kiếm miếng cơm manh áo cho mình và cho gia đình.
- Vậy con nhất định đi? - Bà mẹ dân dấn nước mắt hỏi Thưởng.
Thưởng tươi cười ngọt ngào trả lời. Bà mẹ ôm mặt khóc và chua xót có cảm tưởng rằng Thưởng không thương mình nên mới nhất định cưỡng lời. Nhưng, thực ra lòng Thưởng đã bị bóp chặt bởi sự đau đớn của người mẹ yêu dấu con hơn cả thân mình. Tỏ ra vẻ thản nhiên trước sự lo sợ đến cực điểm của mẹ lúc này, Thưởng biết mình tàn nhẫn quá. Nhưng biết sao? Anh không thể cũng lấy nước mắt mà an ủi mẹ. Vì như thế chỉ càng tỏ rõ sự nguy hiểm mà anh sắp dấn thân vào, khiến mẹ anh thêm sợ hãi.
Thưởng cố yên lòng nhìn vai mẹ rung động, và nghe những tiếng nức nở khoan sâu vào ngực anh.
Không khí nặng nề khó thở quá. Như đầy hơi hắc ín đun sôi, ngọn đèn hoa kỳ vặn to nhả thêm vào thứ khói hôi nồng. Thưởng đầu bứt rứt vì những cảm giác rộn rực. Thưởng khổ sở thấy bỗng dưng mẹ mình và mình phải đi sâu vào sự đau đớn vô ý thức.
Nhưng Thưởng vẫn phải tươi cười.
Vóc người Thưởng vạm vỡ nổi bật trước ánh đèn vàng đục. Mớ tóc lùng bùng vén cao lên, lộ một vừng trán nở rộng trên hai mắt sáng. Cặp môi đỏ mọng của anh đẹp như hai múi quýt. Toàn thân anh là một sức hấp dẫn tất cả tình yêu của người mẹ vì vẻ hồn nhiên dễ mến thương và tất cả khiếu thẩm mỹ của những ai say mê cái sức mạnh đẹp đẽ của bắp thịt.
Bà mẹ lấy vạt áo chấm nước mắt rồi ngẩng đầu lên:
- Con nên nghĩ kỹ. Thà ở nhà lần hồi bữa rau bữa cháo mẹ con được trông thấy nhau còn hơn. Mà biết đâu chỉ nay mai con lại có việc làm ngay tỉnh nhà. Con nên nghe mẹ con ạ. Mẹ van con.
Thưởng không đáp, nét mặt anh bỗng biến sắc. Anh tưởng tới vì sự bịn rịn này có lẽ anh đến phải đi trốn. Ý nghĩ tàn nhẫn ấy thích những mũi gươm vào tim anh. Anh gục mặt xuống đầu gối, cắn ghì lấy môi, để cái cảm giác đau đớn đánh át sự bứt rứt của tâm trí đi.
Chiếc chõng tre bỗng kêu cót két. Tiếp đến những tiếng ho dồn dập ở ngực lép kẹp của ông cụ già rút ra. Tiếng ho vừa dứt, thằng nhỏ con chị Năng khóc thét lên ở dưới bếp.
Đầu Thưởng đã bốc nóng.
Thấy Thưởng yên lặng một lúc lâu, bà mẹ tưởng con đã xiêu lòng vì sự van xin tha thiết của mình, bèn lay vai Thưởng thúc giục:
- Con nên nghe mẹ... Thôi con đi ngủ đi kẻo mệt. Khuya lắm rồi!
Thưởng bật tiếng nói, mặc dầu anh cố gắng ngăn giữ.
- Vâng, con xin nghe mẹ đi ngủ. Nhưng mai con sẽ đi!
Sắc mặt bà mẹ bỗng tím lại; bà nhìn thẳng vào mắt Thưởng làm thinh hồi lâu, rồi bà dằn tiếng:
- Anh nhất định đi? Mai anh đi?
Giọng nói sắc như lưỡi dao cạo ấy làm Thưởng ghê rợn. Anh cúi đầu xuống không dám nhìn lại mẹ. Bà nói tiếp:
- Thì anh cứ đi, tôi sẽ đón anh lúc xuống tàu, rồi đâm đầu xuống sông chết ngay trước mắt anh.
Dứt lời, bà ngã vật ra giường, mặt tái nhợt như không còn một giọt máu! Thưởng vừa cuống quýt lay người mẹ vừa ríu lưỡi kêu gọi:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Suối nước mắt nóng của lòng Thưởng đã tràn ra.
1939