Con Gái Người Mãi Võ Họ Hoa
Những cuộc múa võ như thế thường diễn vào buổi chiều. Nơi diễn thường là bờ sông Tam Bạc, giữa quãng bến tàu Tây Điếc (1)tàu Quảng Đông hay ở quãng dốc Cầu Gióp (2)đổ xuống vườn hoa chợ Baty (3). Người xem có những khách chờ tàu đi Hòn Gai, Móng Cái, đi Nam Định, Thái Bình, những phu khuân vác, chân sào, thợ sắt, thợ nề, đi ở gánh nước, du côn bấu sấu. Nhiều khi có cả thủy thủ tàu Ăng-lê, Hà Lan, Na-uy, Mếch-xích, họ say rượu lạc đến đây, ngồi trên xe kéo khật khưỡng như đảo đồng, hay đứng cặp kè khoác chặt tay nhau rồi mà vẫn cứ liêu xiêu xô dụi cả vào người chung quanh.
-----
(1) Tên chủ một hãng tàu chạy đường sông.
(2) Tên một tướng Pháp nổi tiếng trong Đại chiến thứ nhất ở Pháp.
(3) Tên một thực dân quan lại Pháp.
Nhưng đông nhất vẫn cứ là trẻ con. Toàn những trẻ con lam lũ, tinh nghịch, ngang ngạnh, sục sạo, bạt mạng - những "lỏi" những "nhau" đặc biệt của đất Sáu Kho, đất Hải Phòng.
Tôi thường đến đây vì đây là độ nghỉ chân cuối cùng của tôi sau một ngày đi tìm việc làm ở các Khu Sở Dầu, Xi măng, Cốt phát trở về nhà. Tôi hay nghỉ ở đây cũng vì cảnh vật sông bến, tàu bè, nhà máy và người đi kẻ lại ở quãng này cứ càng ngày như quen thân với tôi, hứa hẹn với tôi nhiều lắm.
Gánh võ chỉ có hai người và một con gấu. Con gấu không to, lông đen mướt. Một khoảng trắng như cái yếm che dưới ức và những đốm trắng ở trán. Cổ gấu đeo một chuỗi nhạc đồng có chiếc to bằng quả lê và một vòng xích sắt bện dạ vàng kết thêm chùm bông đỏ. Gấu đứng ngồi cạnh một thanh dao cắm sâu xuống đất, xích mắc vào cán dao.
Hai người là cha con.
Người cha còn trẻ, cao lớn, đầu trọc, trán dô, hàm bạnh, râu quai nón, da thịt đen bóng, gân guốc. Cả những ngày rét buốt, ông cũng cởi trần, hay nếu mặc áo thì chỉ khoác một tấm áo rộng vải màu xanh lục, không cúc, cổ thắt dải. Người con gái tuổi chừng lên bảy, lên tám, cao cũng bằng con gấu. Da cô bé trắng ngần, mắt long lanh như mắt thỏ cườm, hai má như hai quả táo đỏ. Tóc cô tết thành hai cánh rủ chấm ngang vai, thắt dải tết tua bằng cẩm châu hồ thủy.
Người ta không cần phải xem diễn, chỉ thoáng trông thấy bóng dáng gánh võ và nghe tiếng nhạc đồng là cả khu bến tàu, đầu cầu, vườn hoa - chợ nọ ra đến ngoài cửa sông đã nao nức lên rồi. Người cha lừng lững gánh đôi bồ mây quang dầu, tay cầm thanh đao mắc xích con gấu, cổ đao buộc một lá cờ đuôi nheo đỏ viền kim tuyến phấp phới một chữ "Hoa" to cũng viền thêu kim tuyến. Cô gái lưng đeo cái gù cũng bằng mây quang dầu, khi thoăn thoắt đi bên cha, khi đi bên con gấu trông thì khệnh khạng, chờn vờn nhưng bước rất nhanh, nhạc cổ kêu xoong xeeng. Tay cô bé cầm đôi roi tết chỉ ngũ sắc buộc rủ tua bông trắng cũng xoong xeeng tiếng nhạc đồng.
Ngay buổi đầu tiên, đến xem vào lúc nửa chừng, tôi cũng ngạc nhiên, hồi hộp lạ lùng.
Hôm ấy, vừa ở dốc cầu đi xuống, tôi đã bị hút ngay vào đám đông đen nghịt giữa những tiếng thanh la, tiếng thét, tiếng nhạc inh ỏi, dồn dập. Tôi phải cố len lách, kiễng chân, nghển mãi mới nhìn được vào bên trong.
Người cha mình cuồn cuộn gân thịt, ngang lưng thắt cả một tấm da báo, quần đen ống chẽn, đánh thanh la làm nhịp cho cô con gái bé và con gấu đấu võ. Cô bé mặc áo chẽn màu da trời, thắt lưng lụa đào, quần cẩm châu màu mận chín, khoa đôi roi tua bông trắng quần với con gấu. Nắng chiếu cuối thu ấm áp, rực rỡ. Đôi roi múa lúc thành một làn mưa hoa, lúc thành những đợt sóng, lúc thành một áng cầu vồng rùng rình như có các thứ chim bạc cá vàng bay nhảy, lúc thành những lớp ngựa phi như xung trận rồi thoắt cái lặng đi, phất phơ tha thướt. Con gấu cứ lừng lững tiến rồi lui, lui rồi tiến, hai bàn tay vuốt nhọn khuờ khoạng, khi đỡ ngọn roi bên trái, khi quay sang bên phải, rồi lại chới với che đỡ trên đầu, che đỡ trước mặt...
Đôi mắt của cô bé long lanh, lúng liếng trước đôi mắt nhỏ và nhọn của con gấu đen nhoi nhói nhìn lại cô. Nụ cười trong mắt, trong môi, trong cặp má đỏ hửng của cô bé càng rực rỡ say sưa đáng mến bao nhiêu, thì con gấu càng như hiểu thêm mình phải làm gì. Nó rình, nó đỡ, nó đón, nó bắt, nó vờn, nó chộp, nó tránh càng nhanh hơn, trúng hơn, càng nhịp nhàng hơn với làn roi và bước chân cô bé. Hai bàn tay gấu khuều khoào bộ vuốt chờm chởm cái miệng gấu nanh trắng nhọn thỉnh thoảng lại gầm gừ, lưỡi đỏ lo le. Gấu nhiều lúc còn như sắp chồm hẳn vào mặt cô bé, nhưng vẫn không có vẻ gì hung tợn rồi cuống cả. Càng thật là không phải con gấu chống đỡ những ngọn roi. Cũng không phải con gấu là một hình hoạt động gây sự lo ngại ghê sợ mà là dáng vóc, điệu bộ gây sự hồi hộp, kỳ thú lạ lùng trong vùng ánh sáng của đôi roi tua bông trắng bay múa với những rung vang của bộ nhạc đồng. Trong khi ấy tiếng thanh la đập càng mạnh, càng giật. Bắp tay đen bóng gân guốc của người cha cầm thanh đao lưỡi to, sáng biếc buộc lá cờ đuôi nheo đỏ thêu chữ vàng, giơ lên hạ xuống cũng mạnh cũng giật như thế. Nhưng đôi mắt ông càng sáng lại càng đầy vẻ hiền từ âu yếm, cũng như nụ cười trên bộ râu quai nón cằm bạnh của ông vậy.
Nhưng đường roi hoa của cô bé chợt loạng choạng yếu hẳn đi. Cả bước chân nhịp tay cũng rời rạc, liêu xiêu, lỏng lẻo như vừa say đòn, vừa mệt mỏi. Con gấu lại khác hẳn. Mắt nó càng nhoi nhói nhìn vào gương mặt đỏ bừng và đôi mắt long lanh của cô bé. Còn hai bàn tay khoằm khoằm vuốt của nó không những chỉ để đón và tránh những ngọn roi, mà cứ chờn vờn tiến dần tiến dần, rõ ràng là sẽ chồm hẳn vào kẻ địch. Thế rồi trong chớp mắt, hai ngọn roi rối loạn hẳn. Con gái người cha mãi võ nọ vừa né mình về bên để tung ngọn roi không cho con gấu định túm lấy, thì cả cái khối thịt lông lá có những ánh tua tủa như kim bắn của con gấu bỗng sập xuống. A! A a a!... cả cái khối thịt lông lá móng sắc nanh dài của con gấu đã sập hẳn xuống cái dáng vóc nhỏ bé kia rồi, trong tay chỉ còn đôi roi bện chỉ ngũ sắc buộc tua bông trắng và chùm nhạc quả nhỏ như của vòng tay trẻ lên ba hiếm hoi mẹ đeo để lấy khước vậy. Rồi đúng là bàn tay con gấu khúp lấy vai cô bé; cái đầu lắc lư, nanh xỉa như mũi dao của nó như đã hập vào má vào gáy cô bé.
Có tiếng rú lên. Đám người chen chúc nhau vòng trong vòng ngoài liền dạt cả ra. Nhiều kẻ rùng rùng muốn chạy.
Xoảng xoảng.... oảng... oảng...
Tiếng thanh la chập vào nhau long cả góc trời, ngân như xé. Tiếp đó là tiếng cười xòa rất khoái chí của người cha. Như một làn chớp, cặp roi hoa vung ra với hai cánh tay áo xanh da trời tung lên. Dây xích con gấu loảng xoảng đập vào nhau. Hai bàn tay và cả thân hình con gấu như bị cặp ngọn roi và cánh tay của cô bé hất bắn đi. Con gấu chệnh choạng một cách ngượng nghịu rồi ềnh ra đất, hai chân to kềnh bơi bơi, hai bàn tay lều nghều vờn vờn che mặt, như ra vẻ chịu bị quật ngã và lấy làm xấu hổ.
Tất cả mọi người reo lên. Họ như muốn xông vào tận mặt con gấu để xem.
Xoảng... oảng... oảng.... tiếng thanh la lại chập vào nhau. Cô bé tung ngọn roi múa một đường thật khác lạ. Cô nhảy lên vai cha, rồi từ vai cha cô phốc lên thanh đao giơ ngang trên đầu cha mà múa tiếp. Hai cánh tay người cha cuồn cuộn nổi lên những làn gân, những u thịt, nâng thanh đao. Hai bắp chân ông khuỳnh ra đứng tấn, tưởng như một thế núi không thể sức gì lay chuyển nổi. Múi thắt lưng da báo xòa dưới bụng. Lồng ngực ông phồng lên những múi thịt vú, thăn, lườn cứ rần rật. Những bước nhảy múa và đôi roi hoa của cô bé càng nhanh bao nhiêu, lại càng như không động gì đến thanh đao, mà thành một làn ánh sáng bay lướt và phấp phới trên đầu người cha. Và trên đầu người cha cũng có một đường ánh sáng nằm ngang lấp lóa lấp lóa. Đó là thanh đao dưới gót chân tung hoành của cô bé và dưới cành lá của gốc bàng già lộng gió và ánh nắng.
Tôi đã ngẩng lên trông cả những đám mây trắng trên trời cao lúc bấy giờ. Tôi thấy như cũng có những làn roi hoa và gót chân của cô bé ở trên đấy.
Ngay khi cô bé vừa nhảy lên vai cha, con gấu liền thoắt dậy. Nó quần chung quanh chân người cha. Mình nó cứ quằn đi vật lại, vật lại quằn đi với bộ lông đen mướt càng lấp loáng, càng như tua tủa những mũi kim nóng cháy. Con gấu lại cùng diễn với cô bé. Nhưng lần này cũng như đường roi của cô bé, những đường bước gân thịt của con gấu thật khác hẳn, khác hẳn.
Tôi không biết chữ Hán. Tôi hỏi mới biết chữ vàng thêu to trên lá cờ đỏ đuôi nheo là chữ Hoa. Rồi tôi vừa phỏng đoán, vừa nghe người cha, nghe mấy người xem gọi cô bé là Sẻo Hoa, nên tôi mới biết Hoa là họ của hai cha con. Tiểu Hoa, tên gọi của người con gái tôi được biết rồi. Nhưng cô là Hoa gì? Cả người cha nữa, tên ông là gì? Ông thuộc môn phái nào quê quán ở đâu của đất nước Trung Hoa hào hiệp và mênh mông gợi cảm của tuổi thơ và trí tưởng tượng của tôi kia?
Một buổi chiều, tôi đứng nán lại chờ gánh võ chuyển đi nơi khác. Tôi nhìn theo người cha cao lớn, râu quai nón, hàm bạnh, mình trần, thắt lưng da báo, tay xách thanh đao, gánh đôi bồ mây quang dầu thênh thênh xếp gọn cả một gia tài đồ lề làm ăn. Tôi nhìn theo người con gái bé, mặt tròn, bầu má như táo chín, áo chẽn xanh da trời đeo cái gùi cũng thênh thênh, ton ton bên bước chân cha. Tôi nhìn theo con gấu lông đen mướt, ức trắng, vòng cổ xoong xeeng nhạc đồng, chạy chồm chồm, lúc ở đằng trước, lúc ở đằng sau, lúc ở bên cô bé. Bụi đường bay lầm. Ráng chiều đỏ rực. Gánh võ đi mãi mới khuất...
Về sau, chiều chiều qua đây, nhớ đến những buổi múa võ và lại thấy gồng gánh hình dáng của người cha râu quai nón, cao lớn, mình trần, tay xách đao và người con gái tươi hớn như hoa cùng con gấu lông đen ức trắng hiển hiện rồi khuất đi trong bóng chiều, tôi lại càng thấy bâng khuâng.
Trong một truyện võ hiệp tôi đọc cho bà nội và cha tôi nghe năm tôi còn nhỏ tuổi, cũng có một người mãi võ họ Hoa. Người mãi võ này cũng có một cô con gái nhưng tuổi cô đã mười sáu mười bảy, còn ông đã già, râu tóc bạc hết. Hoa lão vừa làm nghề mãi võ vừa làm nghề chở hàng thuê từ tỉnh này sang tỉnh nọ. Có những chuyến hàng lúc ra đi là đầu mùa thu trở gió, khi ở dọc đường đã sang mùa đông bão tuyết, đến nơi giao hàng đã là giữa xuân, nhạn về tuyết tan. Trên những quãng đường thiên sơn vạn thủy ấy, Hoa lão cưỡi con ngựa ô xám, con gái cưỡi con ngựa màu lửa, đi bên đoàn xe trên chiếc xe đầu trương một lá cờ lớn nhung đỏ cũng thêu vàng chữ Hoa rất to ấy phấp phới trên chiếc xe đã qua không biết bao nhiêu vạn thủy thiên sơn, từ lúc Hoa lão còn trai tráng đến lúc sinh được mụn con gái nọ. Có chặng nửa tháng ròng đoàn xe băng qua toàn những rừng mênh mông trắng xóa. Đó là những rừng mai, rừng táo. Hoa rừng bay cùng trời với gió bão và hoa tuyết. Con gái Hoa lão cưỡi con ngựa lông lửa, mang đôi kiếm báu, trong mặc áo chẽn nhung màu mận chín, ngoài khoác một tấm áo toàn bằng da rái cá; còn Hoa lão tay xách đoản đao, cưỡi ngựa ô xám, mũ bịt tai cũng lót da rái cá. Cả hai người và đoàn ngựa đều trắng tuyết và hoa...
Các chủ hàng quán nổi tiếng ở dọc đường cũng như các tay anh hùng hào kiệt chiếm giữ các núi cao lũng hiểm, chỉ cần thoáng thấy đằng xa lá cờ đỏ thêu chữ Hoa trên đoàn xe là cho người đón mời ngay Hoa lão và con gái. Nhiều khi tiền cơm nước họ đã không tính mà con thân đi tiễn chân cha con Hoa lão, biếu thêm thức ăn quý lạ để ăn đường cùng nhiều quà quý nữa. Thường đến những độ nghỉ chân đông đúc, Hoa lão và con gái lại diễn võ. Xem người con gái múa đôi kiếm báu và Hoa lão tung hoành cây đoản đao, không một người nào không thán phục, cũng như không thể nào không truyền tụng hai tài nghệ tuyệt vời kia.
Người ta còn chuyện với nhau, vợ Hoa lão ngày xưa chưa sinh con gái, còn múa kiếm giữa những hàng dao cắm ngược lưỡi kín mặt đất. Bà đi chân không, múa trọn bài kiếm, lúc xuống đài mặt không biến sắc và không một vết xây xước ở chân.
Mùa đông năm ấy có những đợt rét hàng tuần thật dữ dội. Trời nắng đẹp nhưng gió thổi buốt tận óc, chân tay tê cứng như muốn rụng. Tôi được xem mấy buổi biểu diễn nữa của gánh võ họ Hoa. Ra giêng, khi chim nhạn vừa lác đác lác bay về, gánh võ lại đi nơi khác. Năm sau, năm sau nữa. Chiến tranh xâm lược càng tàn phá. Ở Đông Nam Á, quân phiệt Nhật tràn lấn dần dần, chiếm đóng các nước. Bọn thực dân thống trị Đông Dương càng mở rộng các cửa đón quân Nhật vào.
Ở một trại giam của Pháp ra, tôi lại trở về Hải Phòng. Đi một mình trên đường phố tiêu điều của Hải Phòng lúc mùa rét càng thấy lạnh. Nhất là ở các khu Sáu Kho, bến tàu, các khu nhà máy. Sáu Kho không có một tàu to nào cập bến. Cả những tàu đò chạy đường Hồng Kông, Sài Gòn cũng không. Bến tàu Nam Định, bến tàu Hòn Gai, mỗi phiên chỉ có một hai chiếc chạy ọp à ọp ẹp. Khách đi cũng ít. Các khu nhà máy gần như bỏ hoang. Các xưởng sửa chữa sà lan, ô tô, máy móc đóng cửa. Cả Máy chỉ, hơn ba trăm công nhân cũng đóng cửa. Lính Nhật, quan binh Nhật, ô tô Nhật, ngựa Nhật rầm rập, nghênh nganh các ngả đường. Những phố buôn bán đông nhất tối đến cũng vắng tanh. Đèn phòng thủ xanh mờ, đèn các cửa hàng không có hàng và không có người mua lại càng trơ trụi vàng vọt. Thê thảm hơn hết vẫn là các vườn hoa tối, các quãng đường cây cối tối.
Nhiều hôm có việc phải sang khu Xi măng, khu Tam Bạc, đi bộ về biền biệt thấm mệt, nhưng tôi cũng không dám ngồi nghỉ lại như trước ở những độ đường quen thuộc. Chỗ cái ghế gỗ dưới gốc bàng cổ thụ cạnh bờ đường trước bến tàu Tây điếc nơi cha con Hoa ông múa võ với con gấu kia, đã xa xôi quá đối với tôi. Tất cả những hình ảnh kỳ diệu rực rỡ kỷ niệm thiếu thời của tôi gần như bị chìm hẳn, biến hẳn dưới bao nhiêu hình ảnh thối nát, đen tối, ngang ngược, hung bạo và cái không khí âm ỉ, nung nấu của sự sống, của thời cuộc lúc bấy giờ.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Rồi toàn quốc kháng chiến. Giặc Pháp biến Hải Phòng thành một thành phố, một bến cảng tồi tệ nhất, và ở đây cũng là một cái lò giết người, khủng bố cách mạng khủng khiếp nhất. Nhưng Hải Phòng đã được giải phóng. Hải Phòng được giải phóng cuối cùng trên miền Bắc. Tôi đi cùng quân đội và cán bộ của Chính phủ vào Hải Phòng giữa một mùa hè hoa xoan tây nở rực chưa bao giờ từng thấy. Khắp nơi, càng những xóm cùng ngõ hẻm, những khu nghèo hèn lầm than nhất, thì cờ sao băng biển lại càng nhiều, càng tưng bừng.
Tôi ở tổ phóng viên của tờ báo Hải Phòng hàng ngày. Tổ này chuyên viết về đời sống công nhân trong thời kỳ tạm chiếm và những nhà máy, xưởng thợ trọng điểm của thành phố phục hồi sản xuất 1935 - 1955. Thế là đúng hai mươi năm, tôi đã được mắt thấy tai nghe một số sự việc mà những bước biến chuyển đáng ghi nhớ của thành phố và bến cảnh lịch sử nọ, vừa là quê hương thứ hai của tôi.
Một buổi chiều sang thu trời bỗng trở gió. Tôi ở nhà chị K, một cơ sở cũ của Nhà máy chỉ đi ra. Như mọi khi ra khỏi ngõ, tôi lên xe đạp ngay. Nhưng chiều nay, tài liệu để viết bài đã đầy đủ và cả bài đăng số ngày mai cũng đã đưa nhà in sắp chữ rồi. Vừa phần bỗng nhiên gợi nhớ đến bao nhiêu chuyện, bao nhiêu cảnh, bao nhiêu người ở khu cửa sông thân thuộc này, tôi bèn dắt xe đi thật chậm. Phía sau tôi là ngã ba sông Gấm, sông Xi măng, sông Tam Bạc. Gió thổi vào nghe rõ cả tiếng sóng và nước triều lên. Trời xanh bát ngát trên đầu tôi với những lớp mây trắng bay dồn về phía nhà máy Xi măng.
Chợt tôi nghe tiếng nhạc đồng xoong xeeng. Một con chó xồm nhỏ lông đen mướt chạy quẫng, quấn quýt dưới chân một em bé mặc áo vải xanh "hòa bình", quần vải hoa, tóc tết làm hai cánh buộc dải bướm hồng đung đưa ở hai bên bầu má đỏ như đào chín. Bé gái chạy trước con chó, bước chân rướn lên dưới hai cánh tay như múa. Trong tay bé, hai cái que quấn vải tím hoa sim, đầu buộc hai bông tua lửa lựu, tung lên vờn xuống, vờn xuống tung lên, khiến con chó càng chồm chồm quấn quít.
Tâm trí tôi sững hẳn lại. Tôi sực nhớ ra cái ngõ sâu đường bên tay phải tôi quặt vào kia vẫn còn cái lán xẻ bỏ hoang, những bụi râm bụt xanh rườm rà và một gốc ngọc lan. Cái ngõ năm xưa tôi đã theo chân cha con người mãi võ - Hoa ông và Tiểu Hoa - cùng con gấu lông đen mướt ức trắng gồng gánh dắt nhau về nhà trọ. Thấy tôi dắt xe sau bé gái nhảy múa với con chó xồm, chị tổ phó đại biểu nhân dân khu phố này đi chợ mua thức ăn về vội gọi tôi:
- Anh vào bà Hoa đấy à? Bà Hoa có nhà đấy! Phải, anh vào thăm bà Hoa rồi cố nói với bà nhận số gạo của thành phố giúp nhé! Hôm nọ có anh trên thành cũng xuống hỏi chuyện bà Hoa rồi nói với bà nhận gạo, nhưng bà một mực lắc đầu, nói chỉ mong thành phố mở lại nhà máy để lại được đi làm thôi.
Bà tổ phó còn đến hẳn bên tôi thì thầm:
- Không biết có phải là người "cơ sở" không? Sở mật thám bắt giam hai lần, cũng bị Tây mặt đỏ tra tấn. Ngày chúng nó bắt người đi Nam, người nhà thằng bang trưởng nghiện đến bắt trộm cái Sẻo Hoa đưa lên phố Đông Kinh rồi, vậy mà vẫn đánh tháo mẹ con ở lại đấy...
"Bà Hoa... bà Hoa... Sẻo Hoa, Sẻo Hoa...", những tên đó vang hẳn lên, chuyển giật cả tâm trí tôi. Tôi càng thấy trong người dào dạt nao nức. Tôi lại thấy dấu hiệu một cuộc gặp gỡ rất lạ đương đến mà tôi không thể nào tưởng tượng nổi.
Bà Hoa ở đúng chỗ cũ. Thay đổi chỉ có mấy gian nhà bằng gạch xi măng, mái tôn mới làm ở hai bên. Còn cái nhà lúp xúp trước đây là hàng cơm cạnh lán xẻ gỗ và đóng xe bò, và cái sân đất nhỏ có một gốc lan chỗ buộc con gấu vẫn y nguyên. Hàng cơm không còn nữa. Chỉ còn một chõng gỗ bày bưởi, chuối, mấy lọ bánh kẹo; người bán hàng là một cụ già bé nhỏ lưng còng, mặc áo nâu dài, tóc bạc hết như tơ cước. Chỗ người cha mãi võ căng lên tấm vải bạt cạnh gốc ngọc lan này là một mái ngói, tường xây hẳn hoi: nhà bà Hoa. Gian nhà nhỏ mà tôi đến không phải tìm hỏi gì cả, y như tôi đã biết, đã có lần vào rồi!
Người thiếu phụ gọi là bà Hoa đang ngồi khâu giầy ở trước ngưỡng cửa dưới bóng cây ngọc lan. Thoáng thấy tiếng chó rít, tiếng bé gái reo, tiếp đó là tiếng tôi chào, bà Hoa từ mừng rỡ chuyển ngay sang trang trọng giữ gìn. Bà đẩy cái ghế trúc con vào góc cửa, nghiêng mình chào tôi, đôi mắt lấp lánh nhìn chênh chếch. Tôi càng ngạc nhiên, tôi càng rưng rưng. Tôi đã nhận ra và nhận thấy đúng đôi mắt xếch, lanh lanh hạt cườm. Tôi đã nhận ra và nhận đúng cặp môi hạnh nhân chúm chím. Tôi đã nhận ra và nhận ra đúng cái gương mặt tròn, má như đào chín, có hai cánh tóc tết cài bướm đào đung đưa. Phải, tôi đã nhận ra cô bé múa roi hoa hai mươi năm trước đây. Sẻo Hoa con gái ông Hoa đấy! Sẻo Hoa và con gấu của gánh võ họ Hoa.
Tôi đã nhận ra như thế, mặc dầu trên gương mặt ấy nay gò má đã lấm tấm tàn hương và mắt đóng quầng, không còn đâu ánh tươi hớn của tuổi trẻ thơ. Mặc dầu thân hình thoăn thoắt nhẹ thênh như hoa, như ánh sáng trước kia nay trở nên gầy yếu, chậm chạp, lặng lẽ. Mặc dầu mái tóc tết cài dải bướm hoa đào hai cánh đung đưa trước kia nay thành một búi tó, ôm chặt lấy cả gáy, và cái trán xinh mơn mởn nay đã dô dô có nếp nhăn. Phải, mặc dầu như vậy tôi vẫn thấy đầy đủ nguyên vẹn các vẻ, các dáng ngây thơ, lồng lộng, bừng sáng của Tiểu Hoa ngày trước. Và đầy đủ nguyên vẹn các lớp, các điệu múa ấy lại hiện ra trước mắt tôi cùng với Hoa ông cao lớn mình trần, thắt cả một tấm da báo, vừa đánh thanh la cầm nhịp cho con gái bé đấu roi với con gấu lông đen mướt điệu bộ lừng khừng, mắt nhỏ nhọn nhoi nhói, ức trắng lắc lư xoang xoảng chuỗi nhạc đồng.
Tất cả những hình ảnh, nhạc điệu và âm vang ấy càng trở lại rõ ràng trong tâm trí tôi khi tôi nhìn vào chỗ bày bàn thờ. Một chữ Hoa rất to nổi giữa tờ giấy hồng điều điểm kim nhũ phất trên tường. Khác với chữ Hoa thêu trong lá cờ buộc vào thanh đao thường cầm trong tay Hoa ông, chữ này viết bằng mực đen, nét đậm, rất bay, rất khỏe. Vẫn ở trước bàn thờ, có một thanh đao cắm trên giá gỗ mun. Cũng chính là thanh đao buộc lá cờ ngày trước, nay lá cờ vẫn được giữ nguyên, và mắc thêm vào thanh đao có cả tấm da báo, đôi roi có tua bông trắng và cái vòng cổ bện dạ vàng mắc chuỗi nhạc đồng của con gấu...
Bà Hoa rót nước chè hột trong bình tích bằng đồng ủ ở giành mây ra chiếc chén to có vung đặt vào một đĩa riêng mời tôi. Tôi ngồi ở ghế bành lót chiếu cạp vải điều bên cái bàn độc. Từ trần nhà rủ xuống gần mặt bàn có một bức tranh giấy bồi vẽ thủy mạc một cánh rừng núi sông bến thôn xóm xa xưa. Bà Hoa ngồi cái ghế đẩu cạnh bộ phản cũng trải chiếu cạp điều. Con chó xồm nằm to hó dưới chân bà. Bé gái nép bên mẹ, đôi mắt long lanh nhìn mẹ bé và tôi nói chuyện.
Càng nhìn kỹ hai gương mặt dịu hiền ở trước mặt tôi và những đồ vật bày trước bàn thờ nổi lên chữ Hoa nét bút như cánh đao trên giấy kim sa, tôi càng bâng khuâng. Nhưng càng tin càng thấy chắc, tôi vẫn không thể dằn mất hẳn đi cái câu hỏi nọ: "Biết đâu chẳng có một sự ngẫu nhiên về người, về các di vật, về nhiều điều giống nhau, vân vân..., để rồi sẽ hóa ra đây thật không phải là Tiểu Hoa của gánh võ kỷ niệm của tôi!..."
Nhưng không! Thật đúng là Tiểu Hoa múa võ năm xưa. Trong làn hương thoang thoảng của cây ngọc lan lộng gió và nắng đầu thu và trong cái lặng lẽ của gian nhà nhỏ không khí xa xưa nọ, Tiểu Hoa đã kể cho tôi nghe một phần câu chuyện hai mươi năm qua của cuộc đời mình.
Chính ở gian nhà đây Hoa ông đã nhắm mắt. Đúng thao đao, dải lưng da báo, đôi roi hoa và cái vòng cổ bện dạ vàng có bộ nhạc đồng là những vật để lại. Hoa ông mất năm Tiểu Hoa mười bốn tuổi. Năm 1941, Nhật mở rộng chiến tranh tràn vào Đông Dương. Đường Lạng Sơn bị đóng, bị khám xét rất ngặt. Gánh võ phải ở lại Hải Phòng. Thực dân Pháp càng ra tay khủng bố, bóc lột dân chúng. Thóc cao gạo kém. Người thì đói nhưng gạo lại đem nấu cồn nộp cho Nhật chạy ô tô, chạy máy bay. Ruộng bãi thì phá ngô nhổ lúa để trồng đay. Cái gì cũng khan hiếm, cũng đầu cơ tích trữ. Đâu đâu cũng khó khăn, tiêu điều, ngột ngạt. Gánh võ đã lên Hà Nội, rồi đi về cả mấy tỉnh lẻ và những phủ huyện nổi tiếng là giàu, dễ làm ăn và không hề biết bom đạn là gì. Nhưng gần Tết năm 1943, gánh võ cũng lại phải về Hải Phòng. Đi thêm nhiều nơi, con gấu cũng gày lắm. Nhiều bữa, nó chẳng chịu ăn gì cả. Nhiều chủ hiệu thuốc, hiệu cao lâu cứ cho người săn đón hỏi mua con gấu.
... Ngày hôm ấy là chủ nhật, tiết xuân nắng ấm. Cuộc diễn vào buổi sáng, vẫn ở quãng dốc cầu Hạ Lý gần cái vườn hoa gọi là vườn hoa Ba Ty toàn những cây to mà không có một luống hoa nào kia. Tan lễ nhà thờ lại gặp phiên ngày chẵn có tàu thủy chạy Hòn Gai, Nam Định nên khách xem cũng đông. Giữa lúc tiếng thanh la cầm nhịp vang dậy, đôi roi của Tiểu Hoa bay múa chung quanh con gấu đen, và con gấu đen tránh đỡ càng ngộ nghĩnh kỳ thú, thì có tiếng ngựa hý, rồi tiếng chó sủa. Một con ngựa cao lớn, mỡ mượt lộp cộp đến đứng sững ở bờ đường. Một tên quan Nhật, mũ lưỡi trai chum chủm trên đầu, trễ bên sườn một thanh gươm dài đốc buộc tua kim tuyến, mắt nhọn, nghiêm và lạnh, đưa mắt nhìn loáng vào đám đông rồi nhè nhẹ ghì dây cương. Theo sau hắn, một người lính béo lùn, áo cộc tay, quần đùi, lấn quấn cầm một chùm dây da mắc xích ba con chó. Cả ba con chó nọ lông đều xam xám vằn vèo, cũng rất mỡ mượt, đứng gần chấm ngực người dắt. Con nào con nấy tai vểnh nhọn hoắt, lưỡi đỏ lo le, mắt rần rật lắc lơ lắc láo.
Huýt... uýt... uýt...
Thấy con ngựa bỗng nghển đầu lên, lắc lắc, thở phì phì, và tên quan đã dừng cương, người lính thổi còi miệng cố dìu ba con chó lại. Trên ngựa, tên quan lim dim cặp mắt, vẻ mặt càng lạnh, càng ra vẻ không thèm thấy có ai cả. Không ai bảo ai, đám đông liền dãn ra. Cả quãng bờ hè trước đàn chó và tên quan Nhật cưỡi ngựa liền trống không. Mặc dầu có bọn khách đặc biệt nọ bỗng đến, Hoa ông vẫn chỉ chăm chú vào nhịp thanh la và khúc múa của Tiểu Hoa với con gấu. Còn Tiểu Hoa thì hơi chột ý. Hơn nữa, Tiểu Hoa còn thấy linh tính như báo rằng một tai họa khủng khiếp gì đương đến. Cũng là lúc Tiểu Hoa là ra vẻ đường roi loạng choạng rời rạc, mà con gấu thì như say, chỉ rình xông vào Tiểu Hoa.
Xoảng... oảng... oảng...
Con gấu đã chồm hẳn lên người Tiểu Hoa. Nhưng cũng là trong tích tắc đôi roi và hai cánh tay áo của Tiểu Hoa tung phất lên. Theo nhịp đó, con gấu lại như bị hất lộn đi, lăn ềnh ra, chân tay giơ lên quẫy quẫy thở phì phò. Rồi khi Tiểu Hoa chập đôi roi lại, tiến ra cúi chào đám đông đang vỗ tay khen thưởng, con gấu liền trỗi dậy. Nó chạy rất nhanh đến với Tiểu Hoa, quấn chung quanh Tiểu Hoa như để cùng Tiểu Hoa đón nhận sự chào mừng, cùng "múa" thêm một nhịp chào mừng đám đông.
Xì xì ì ì... một tiếng gì như tiếng cười.
Không! Đó là một hiệu lệnh. Tên quan Nhật gằn một tiếng khẽ. Cặp mắt lá răm của hắn chau lại. Lần này cả đám đông rùng rùng cuống cuồng mà chạy. Có tiếng rú.... Nhưng đó không phải là của người mà là của ba con chó cùng một loạt vừa rú vừa xông vào con gấu trước đó những cặp mắt lấc láo của chúng rình chằm chằm.
Tiểu Hoa thét hẳn lên.
Tiểu Hoa chưa kịp tránh ra bên, thì có tiếng rống rít, sằng sặc. Con chó to nhất và cũng là con thứ nhất định nhảy vào cắn con gấu, đầu vọt máu, vừa kêu vừa lăn ra đất, quều quào cố cứng lên mà không được. Con chó này bị một cái tát giữa mặt. Bàn tay vuốt như lưỡi gươm khoằm của con gấu đã bổ ngập sống mũi, xé bật hai con mắt con chó ra.
Tiểu Hoa liền lùi lại sau con gấu.
Con gấu lại chồm lên.
Khi nó vằng đầu một cái thì cũng là lúc con chó thứ hai xông vào bị lăn ra đất, đầu cũng ồng ộc máu, một mảng mặt bị lóc ra.
- Hùng Quảy à! Hảo à... hảo à à à!
Hoa ông cầm thanh đao bựt mất xích con gấu giơ cao lên, lớn tiếng như cả cười lẫn thét...
... Chúng nó đã bắt giam Hoa ông và Tiểu Hoa. Chính bọn lính Nhật đóng ở trại pháo thủ gần đấy đã đổ ra. Lưỡi lê, súng vây lấy Hoa ông và Tiểu Hoa, đấm đánh, đẩy hai cha con vào hầm giam. Ba hôm sau, lúc mặt trời lên quá con sào, chúng nó đưa cha con Hoa ông và con gấu ra hành hình. Chúng nó trồng một cột sắt, chung quanh quây rào sắt và dây thép gai. Chúng nó đã xích con gấu vào cột bằng những xích tàu, lại còn đóng thêm xiềng vào chân và tay con gấu. Miệng con gấu còn bị rọ dây thép. Hoa ông cũng bị nó đóng xiềng chân tay vào cái cột đối mặt với con gấu, ngay cạnh rào sắt. Tiểu Hoa bị trói quỳ dưới chân cha.
Tất cả bọn quan trại ngồi dàn đằng trước, chung quanh có lính cầm súng lắp lưỡi lê lên đạn đứng quây mấy vòng trấn giữ cả ở ngoài xa. Chúng nó thả mười con chó to nhất và con chó bị thương sống sót cho cắn xé con gấu suốt sáng tới chiều. Sau đó chúng nó nấu thịt con gấu bắt cha con Hoa ông ăn. Cha con Hoa ông đã chịu các thứ đòn tra tấn hết mùa xuân sang hè, đến cuối thu, ngày ngày chỉ được mấy vét cơm canh thừa, có khi còn phải nhịn hẳn và ăn cỏ của ngựa. Khi được thả ra, Tiểu Hoa chỉ còn da bọc xương đã cõng cha về nhà trọ. Đêm hôm ấy, Tiểu Hoa vuốt ngực cho cha thở hơi cuối cùng.
Tất cả đao, roi, nhạc đồng còn được là nhờ còn có người xem quen, họ thu nhặt với cả gánh đồ đưa về nhà trọ. Họ còn cùng với mấy bà con Hoa kiều đi quyên tiền, quyên gạo, rồi gửi nhà hàng để nuôi nấng thuốc thang cho Tiểu Hoa...
... Thấy tôi định rót nước mời lại, Tiểu Hoa chớp chớp mắt, nghiêng mình xin cám ơn. Bà rót lấy một chén nhỏ, chỉ nhấp nhấp. Nét mặt, dáng ngồi vẫn lặng lẽ, giữ gìn và giọng nói vẫn nhẹ nhàng. Tiểu Hoa kể tiếp những chuyện của mấy năm sau. Tôi vẫn chăm chú nghe, nhưng tâm trí không thể nào dứt ra khỏi cái cảnh con gấu đã tát chết hai con chó hãnh tiến hung hăng của bọn lính Nhật, và tiếng thét lẫn tiếng cười rất bằng lòng rất tự hào của Hoa ông, cùng cái cảnh tùng xẻo hành hình nọ. Cả đoạn đời sau này của Tiểu Hoa, tôi chỉ nghe chứ không hỏi thêm gì cả. Mặc dầu khi nói chuyện, tôi để ý thấy ngoài những di vật của Hoa ông cũng chữ Hoa như ánh đao nổi trên bàn thờ, còn thì không có đồ vật gì của đàn ông ở trong nhà. Và cả trong những năm ở Hải Phòng bị tạm chiếm, tôi cũng không thấy Tiểu Hoa hé một chút gì về đời chồng con của mình.
Tôi đã có ý nghĩ hay bé gái này là con nuôi. Là con nuôi nên mới tên cũng là Tiểu Hoa, lấy họ của bà Hoa, chứ nếu con đẻ và bà Hoa góa chồng, thì đã gọi bé gái theo họ nhà chồng. Hay bé gái chính là con bà Hoa và bà Hoa góa chồng thật? Hay chuyện chồng con của bà có điều gì mắc mứu, ngang trái không thể nói ra?
Bà Hoa rất cảm động được biết tôi còn là người đã từng xem Tiểu Hoa múa võ. Bởi vậy khi thoạt nghe tôi nhắc lại mấy chi tiết của một số cảnh vật và sự việc cũ, bà Hoa đã chớp chớp mắt nghiêng đầu, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên mừng tủi, và càng trầm tĩnh nghe tôi hỏi và đáp lời tôi. Bà Hoa và tôi chuyện tới lúc ngoài trời ánh nắng đã trong hẳn để rồi dần tối. Tôi chào bà Hoa. Bà đưa tôi ra mãi ngõ ngoài và khẩn khoản mời tôi có dịp sẽ lại đến chơi nhà để bà được nói chuyện thêm. Hơn tháng sau, xưởng máy dệt kim X phục hồi, bà Hoa lại đi làm. Bà không đứng máy mà làm tổ trưởng một tổ chuyên cài hoa, vẽ kiểu, chọn màu chỉ cho các hàng mẫu.
Một buổi chiều tôi đi lấy tin, đạp xe về tòa báo, nhìn mẹ con bà Hoa dắt nhau từ xưởng dệt về qua con đường vườn hoa bên bờ sông Tam Bạc, tôi đã nảy ra một ý định. Đoàn xiếc Việt Nam đang mở to, tôi sẽ giới thiệu bà Hoa và cô gái bé sinh hoạt ở đây. Nếu như bà Hoa không biểu diễn được nữa thì bà truyền nghề cho bé gái và bé gái sẽ học thêm các môn vũ đạo hiện đại khác. Mặt khác, bà Hoa vẫn có thể giúp thêm một số kinh nghiệm cho ban huấn luyện.
Nhìn bé gái theo mẹ đi làm về, tôi càng hồi hộp. Cũng hai bầu má như hai quả táo chín, cũng đôi mắt cườm long lanh, cũng gót chân như bay và cánh tay như múa. Y như Tiểu Hoa lần đầu tiên tôi gặp cách đây đúng hai mươi năm, lon ton chạy theo Hoa ông lừng lững gánh đôi bồ mây, tay xách thanh đao, con gấu đen chồm chồm đi bên, xoong xeeng nhạc đồng trên bờ sông Tam Bạc nước triều dâng lên, những đám mây trắng và những tầng khói nhà máy đang bay trong nắng chiều cuối thu...
⚝ ❖ ⚝
Tháng 4, tháng 5 - 1967.
Giặc Mỹ càng điên cuồng dã man đánh phá Hải Phòng.
Nhưng chúng càng thua đau, thua nhục. Chiếc máy bay thứ 1800 bị bắn tan. Rồi từ 80 đến 90 đến 100 chiếc bị đền tội trên mặt đất Hải Phòng. Lâu không về Hải Phòng nên ngay khi bước chân lên ô tô, qua cầu sông Cái đi xuống đường Năm, nhìn về chân trời vùng biển, tôi càng rưng rưng, nao nức cả tâm trí. Bởi vậy, khi xuống đến nơi, được nghe nói chuyện về những cuộc chiến đấu của quân dân thành phố Cảng và được sắp xếp đi với mấy đơn vị tự vệ quyết thắng của mấy nhà máy quen thân, tôi mừng rỡ hồi hộp vô cùng. Y như được trở về nhà, được gặp những người ruột thịt thương yêu đã lớn mạnh vẻ vang mà mình đặc biệt để tâm trí theo dõi vậy.
Trời nắng như đổ lửa.
Chưa sáng, xe cộ đã rầm rập, bụi mù. Nhưng ở các khu vườn hoa các quãng đường có nhiều cây cối, và ở các phố Cầu Đất, đường Cát Dài, trai gái vẫn tập thể dục giăng giăng trên bờ hè.
Vì tình hình gấp rút nên tôi không còn cả thời giờ đến thăm mấy bà con bạn bè và cơ sở làm việc cũ nữa. Tôi cùng với mấy anh em viết văn đến ngay nhà máy T. Trưa nay vừa nắng lại vừa gió tây nhưng chiều chuyển gió. Trận địa của đội tự vệ nhà máy ở ngoài sông. Nếu như tất cả những quãng đường và các khu phố, các làng xóm trong kia ngùn ngụt bao nhiêu thì quang cảnh trên sông đây cũng dồn dập bấy nhiêu, nhưng lại vừa có một sự thênh thang mạnh lớn thật là đặc biệt. Ba bề sông nước với trời mây mở ra phía trước mặt. Các thứ thuyền, các thứ buồm, các thứ sà lan, sà lúp băng băng trên sông có phù sa lũ nguồn đổ về. Nhẹ nhất, đông nhất vẫn là những thuyền buồm. Buồm trắng to, chạy vát gió, chồm chồm như những con ngựa chiến khổng lồ bờm tuyết mao, đua nhau vượt bước trong một thế trận giao tranh quyết thắng.
Trận địa thứ nhất chúng tôi đến thăm ở ngay bờ sông. Lối đi chung quanh các ụ pháo đều rải sỏi và cát già xào xạo dưới chân người còn có lẫn những lá cây, cành rong, sú vẹt, vỏ hà hến,... Chung quanh các ụ pháo, những luống đất xây bờ bằng gạch xi măng gạch trắng men cũ vẫn mơn mởn những khoảng cỏ tóc tiên. Mấy gốc hồng, nhài, lựu, loa kèn còn lại vẫn nở hoa. Cũng màu ấy, dáng vẻ ấy, nhưng ở một bến bãi ngổn ngan sắt thép xi măng gạch đá, giữa cảnh mây nước trước một trận địa im lặng chờ đánh giấc, sao mà thấy đẹp thấy quý?!
Trận địa thứ hai của đội tự vệ ở khu trong. Đây là bãi đất trống cuối cùng của khu nhà máy. Bãi đây cũng chính là những ao, vũng, hồ, gò đống gạch đá di tích quân Pháp bỏ lại sau chín năm chiếm đóng Hải Phòng với dãy nhà giam khét tiếng khủng khiếp. Bãi đất ở gần xóm chị K. và xóm của bà Hoa mà tôi định sẽ trở lại sau khi thăm bà Hoa và chị K. Phải, nhà Tiểu Hoa của tôi trước ở trong kia, cây ngọc lan vẫn còn, nhưng chung quanh là những nền, những móng bê tông cốt sắt được làm dở cạnh những nhà đã làm xong, lắp máy chạy rồi. Cũng thênh thang những con đường rải nhựa có những vườn hoa, những sân rải sỏi xinh xắn ở trước nhà sau nhà.
Vừa đi vừa nghe đồng chí chính trị viên diễn tả lại các cuộc chiến đấu mới đây và chuyện thêm về các chiến sĩ xuất sắc của nhà máy, tôi vẫn cứ phải ngoái lại nhìn về phía bên kia trận địa. Đây cũng là một khu nhà máy đương xây dựng và chính là khu những năm 1943, 44, 45, lính Nhật đến đóng trại. Trong bãi, Hoa ông, Tiểu Hoa và con gấu đã phải chịu cái cuộc hành hình phải gọi là tùng xẻo nọ. Từ trận địa nhìn sang, bất giác tôi thấy hiện vụt lên thanh đao của Hoa ông giơ cao trước tên quan Nhật tím mặt ngồi trên ngựa. Thanh đao sáng lạnh, lưỡi vụt đâm lên nền trời cuồn cuộn mây trắng mà tất cả những nòng pháo của trận địa đương chĩa lên, lá ngụy trang lấp loáng ánh nắng, ánh đồng diệp của những băng đạn và ánh thép của miệng pháo cùng chói rực.
Tôi đi qua con đường nhỏ ngày trước là con đường đi tắt vào xóm bà Hoa để vào bãi pháo. Chúng tôi thăm khẩu đội tự vệ trai xong thì đến khẩu đội gái, khẩu đội của Trần Thị Mơ.
Ban sáng, ở bàn giấy ban Giám đốc có cả ban chỉ huy tự vệ nhà máy, chúng tôi đã được nghe Trần Thị Mơ kể lại các cuộc chiến đấu của khẩu đội và cả của Mơ, đặc biệt là cuộc chiến đấu trong mấy ngày giặc Mỹ bắn phá ác nhất, nhưng cũng thua đau nhất. Giờ đây, Mơ đang đứng trên mâm pháo vẫy đón chúng tôi ngay từ bước chúng tôi vào trận địa. Đến lúc chúng tôi sang khẩu đội của Mơ thì đôi mắt và nụ cười của Mơ càng rực rỡ, hớn hở, thân thiết.
Mơ mới mười chín tuổi. Cha làm thợ mộc, anh cũng làm thợ mộc. Ngày bé, Mơ ở nhà bế cháu cho chị dâu và anh đi làm. Mơ được học đến lớp 4. Năm mười sáu tuổi, Mơ được vào nhà máy. Từ việc cạo gỉ sắt Mơ đã chuyển sang đứng máy bào và học bổ túc xong lớp 7. Ngay từ ngày giặc Mỹ cố ý và điên cuồng hơn nữa bắn phá thành phố cảng của Mơ, Mơ xin vào đội tự vệ, chiến đấu liền. Tất cả những đợt quyết liệt, Mơ đều ở trên mâm pháo. Trong một trận khói lửa đất đá mù mịt, bom tấn của giặc giội tới tấp, điện và dây nói từ đài chỉ huy đến trận địa bị cắt phá, chính Mơ đứng quan sát và bắt mục tiêu đã để đến tận lúc máy bay giặc lao xuống trút bom, Mơ mới ra lệnh cho cả khẩu đội bắn.
Giữa trận địa dại nắng và lộng gió chiều, trông gương mặt và vóc dáng Mơ càng hồng hào, khỏe căng. Tất cả đôi mắt, bầu má, cặp môi, hàm răng và nụ cười của Mơ đều tươi trẻ lạ lùng. Bên kia nòng súng chỗ Mơ đứng một cô cũng quần xanh có yếm, mũ vải xanh. Chúng tôi chưa bắt tay Mơ xong, Mơ đã quay ra giới thiệu bạn. Giọng nói của Mơ như nhạc rung, nụ cười càng hơn hớn:
- Hoa Bảo Vân đấy! Hoa Bảo Vân pháo thủ số Một của khẩu đội vừa được tuyên dương toàn thành đấy ạ ạ ạ!!
- Chào Hoa Bảo Vân!
- Chào cô Vân!
- Chào cô pháo thủ số Một của nhà máy!
- Chào cô Hoa Bảo Vân!
Cô gái tự vệ nhà máy cười, chớp mắt, cúi đầu chào lại chúng tôi. Đồng chí chính trị viên, giọng miền Nam, cười lớn tiếng.
- Con Sẻo Hoa, con em gái út của đơn vị đấy. Nó với con Mơ cứ như hình với bóng. Mười tám tuổi, pháo thủ số Một của khẩu đội, chiến sĩ xuất sắc, về nhà còn khóc, bỏ cơm bắt đền mẹ, vào nhà máy lại khóc bắt đền ban chỉ huy. Vì tội mẹ cứ không chịu thổi cơm sớm, đang ăn thì báo động, bỏ chạy từ bên phố sang nhà máy, cổng nhà máy lại đóng, trật tự không cho vào, nên không được dự trận đánh... Nó cũng ở đội văn nghệ với con Mơ nhưng con Mơ chỉ có chèo giỏi, chứ nó hát cũng giỏi múa cũng giỏi. Múa thì múa võ, đánh cặp roi sắt hay cặp kiếm thì tuyệt vời, tuyệt vời...
Tim tôi chợt như đập tung lên.
Cái tên gọi, những hình ảnh và con người mà tôi được nghe nói, nghe tả, nghe kể ban sáng và đương định tìm gặp đã đến với tôi kia rồi, ở trước mặt tôi rồi, Sẻo Hoa, Hoa Bảo Vân! Hoa Bảo Vân! Sẻo Hoa!
... Hai ngọn roi bện chỉ ngũ sắc buộc tua bông trắng của Tiểu Hoa năm xưa bỗng như hai làn ánh sáng vút qua tâm trí tôi cùng với thanh đao và bắp tay gân guốc của Hoa ông vung lên. Ngay đó từ đầu nòng súng đương chĩa ra phía biển khơi có Trần Thị Mơ và Hoa Bảo Vân đứng ở hai bên kia, tôi thấy còn vụt lên những làn lửa chớp. Những làn lửa chớp đã xả vào các đợt các kiểu máy bay giặc lồng lộn gầm rú bắn phá, những làn lửa chớp của những băng đạn cuồn cuộn, quyết liệt, căm giận vô cùng, và cũng bình tĩnh tin tưởng vô cùng, bắn lên từ một sức sống cũng thật là mới lạ, kỳ diệu vô cùng...