← Quay lại trang sách

Một Buổi Chiều Nhà Quê

Cánh đồng lác đác còn vài bóng người. Mặt trời đỏ ngầu; hơi đất ngùn ngụt; ruộng bãi, ao đầm và làng mạc mờ mờ như trong một màn khói tỏa ra với lửa than vạc. Trên con đường cái xứ bỏng giẫy, lồi lõm, lầm bụi, người đi làm về đều phờ phạc. Mặt họ đen sạm lại, mắt họ vàng lờ lờ, mồ hôi họ ròng ròng khắp người... Không có một tiếng nói.

Vác những cày, những cuốc, những bờ cào, những gầu... đàn ông, đàn bà chỉ còn những bước gần như lảo đảo. Bên cạnh họ, những con trâu càng ì ạch, phập phì, luôn luôn đứng dừng hẳn lại, sừng chúi xuống vùng vằng và mắt loáng lên, dưới những cái dây thừng quật đen đét. Những vũng nước đã lướt qua; những vũng nước chỉ còn mấy vúc nữa là hết của những cái đầm mọi khi mênh mông, lá sen giải ra xanh rợi, lóng la lóng lánh.

- Người đi làm đồng đã về cả rồi kia kìa... Gái ơi! mày đã nấu bèo cho lợn và đã dọn cơm nước xong chưa mà đã tót đi đâu không thấy hồn vong bóng vía thế hở? Giời với đất, nắng gì mà nắng mãi thế này? Đất khô như rang, lúa má chết hết cả rồi. Giặc hại đằng giặc, giời hại đằng giời, sống làm sao được?

Một người mẹ vú thâm sì chẩy hết ra ngoài yếm, chưa đặt xong cái gầu xuống thềm đã phải đón lấy đứa con mũi dãi ngoen khắp mặt. Y vẩy vẩy cái vú vào miệng con đoạn thì cuống quít với lấy cái quạt nan quạt phành phạch vừa rền rĩ gọi.

Đằng phía phủ, những tiếng thùng thùng từng hồi một bỗng vang lên dồn dập, làm nhiều người hai bên phố bổ ra, nhớn nhác:

- Trống gì thế? Trống gì thế?

Một người mẹ đương bế con chỉ trỏ những chiếc diều trắng, tít tắp ở trên cao, cũng sửng sốt quay về phía tiếng trống. Giây sau, y reo lên:

- A... trống Bình dân học vụ. Hôm nay dưới phố phủ, Bình dân học vụ họ đánh cả trống gọi học trò đấy...

Người mẹ này dứt nhời, mấy đứa con gái đã đi đến, ríu rít:

- Mày cũng đi học à?

- Cái Thơm nó vẫn còn phải bế em à?

- Tao rủ được cả cái Tý nó đi học cơ.

- Ngòi bút tao mới thay tốt lắm. Chú tao làm ngoài Hà Nội cho tao đấy. Tao giả lại ngòi bút này anh giáo viên phát chứ tao không lấy đâu.

- Ê... ê... đi học biết chữ mà còn xấu hổ. Thế đi chợ không đọc được biển phải đi lối "đường mù" thì không xấu hổ!

Ở những căn nhà so le và tối mờ hai bên phố, người ta đều ra cả đường mà nhìn. Mấy người mẹ bồng con chơi trên hè cạnh những con chó đú đởn, buông hẳn con xuống, xua xua tay:

- Thôi đi học đi... đi học với các "đồng chí" đi. Nhớn rồi phải đi học chứ ai lại còn ôm chằng chằng lấy mãi cái vú thế này!

Không khí bỗng chuyển hẳn lên, ồn ào tấp nập. Mọi người đều trông về con đường qua bãi cỏ rộng trước cái cổng phủ cũ kỹ còn lại của một tòa thành xưa.

Huỵch... huỵch... huỵch... Một... hai... một... Một... hai... một...

Đám đông tiến lại, rõ mặt dần. Người quần áo nâu ngắn, người quần vàng áo nâu, người áo đen quần nâu, người cởi trần quần xanh, người áo cuộn lên trật cả rốn, người mặc mỗi áo tây phanh rộng cái ngực thây lẩy, lông lá. Họ đi đều tăm tắp, bước chân nện đến lõm đất, tay vung vẩy soàn soạt, súng gỗ, gậy gỗ, gậy tre lố nhố.

Một... hai... một... Một... hai... một...

Mặt người nào người ấy ngước lên, rắn chắc, đăm đăm. Nhất là mấy người đi đầu được bồng súng thật và đeo lưỡi lê hẳn hoi. Mắt họ quăm quắm hơn; ngực họ phưỡn hơn, những thớ thịt nâu nhẩy rung rung hơn. Hơn ba chục bước chân nọ như không thấy gì ngoài đằng trước: con đường ngoằn ngoèo về làng và người chỉ huy đi bên trái, mắt nồng nàn chăm chú.

- Toàn những người đi làm thuê ở trong làng nhỉ.

- Ừ toàn những người phải chạy gạo đi tập chứ chả thấy giai công tử nhởn nhơ nào cả nhỉ?

- Công nhân đấy! Họ vào "công nhân" đấy! Có người vừa đi làm, đi chợ về không kịp ăn uống gì mà cũng cứ tập ngay...

- Thôi đi mau lên không lại bị "phê bình" bây giờ... Hay có nhớ "anh" nào thì bảo chúng tao để chúng tao...

Câu nói trên đây là của mấy người con gái đã nhớn run đẩy, cười nói líu ríu. Trong khi ấy lũ trẻ con giai đã chạy ùa đến trường, reo hò ầm ĩ, theo sau lũ trẻ con gái hồn hà hổn hển, mát mẻ, dằn dỗi, gọi nhau choe chóe...

Mặt trời chìm hẳn. Vùng tây đỏ như gấc, dần tím bầm lại. Những ngọn cây, những luỹ tre, những nóc đình chỉ còn những đám đen mờ mờ. Con đường tầu chạy hút về xa, cao bật lên, chơ vơ những cột dây thép vướng víu những đám hơi nước. Những tiếng ộp oạp, ri rỉ trùm lên cánh đồng xám nhợt.

Toàn dân nước Nam giờ đây quyết tâm...

Đứng lên tranh đấu xích xiềng đập tan...

Tiếng hát vang động xa dần... Một điệu khác lại nổi lên:

Du kích quân, du kích quân...

Toàn dân trông ngóng... du kích quân, du kích quân.

Tiếng thình thịch mất hẳn. Chỉ còn tiếng hát văng vẳng trên dải đường đá nóng rát chạy thành một vệt chì trước những gian nhà tối om, nhô ra, thụt vào, cái bằng gạch cửa sắt, cửa gỗ kín mít, cái bằng lá xiêu vẹo, úp xúp, trống hơ trống hoác.

⚝ ❖ ⚝

Tiếng trống càng đổ dồn. Trong một khoảng tối âm u ánh đèn bỗng rực lên.

Lớp "Bình dân học vụ" của phố phủ sắp giảng. Đó là cả gian đình mái mốc rêu dưới một đám cây si cành rễ chằng chịt và hai gốc bám đầy những mấu sù sì, lá xếp hàng chục tầng. Bốn cái bàn học trò hẳn hoi kê ở dưới cùng. Hai cái bàn có ngăn kéo kê ở phía trên, chung quanh ghép mười hai cái ghế dựa khác nhau. Hai cái bàn học trò nhỏ đã ọp ẹp và hai cái chõng gần mất hết nan, kê chếch hai bên lối đi, châu đầu ở hai bên bảng. Trên cùng, một cái bàn ba ngăn kéo nứt nẻ, khập khiễng, cũng quây hơn mười cái ghế dựa, dùng cho cả giáo viên và học trò. Từ bực cửa bước vào, người ta đã vấp phải ngay những bàn ghế. Muốn đi, người ta phải len lỏi qua những hàng ghế hay trèo qua bàn.

Sân trường ban ngày họp chợ. Mấy hàng gạo, hàng rau, hàng mắm muối, hàng thịt dọn ra la liệt trên mặt đất. Mấy người đàn bà hàng phố độc quyền buôn bán ở đây với những chỗ bóng cây và lát gạch. Đường cái xứ chạy ngang ngoài kia, đằng sau lưng đình mà mặt tường bao giờ cũng chi chít những hình người, những chữ những giấy, những biển và cả những cái rất quái quỉ, kệch cỡm. Một cái chợ thứ hai giăng ra ở ngoài này, cái chợ của những hàng nước, hàng cơm, hàng quà và lúc nào cũng xúm xít những phu xe.

Rác rưởi chưa dọn, bốc lên tanh nồng nặc. Thêm vào đó, những mùi bùn, mùi bèo thối của những ao đầm ngập ngụa bẩn thỉu gần đấy.

Trong cái đám lủng củng những kèo, cột, hoành phi và câu đối, ánh đèn đã bớt xô động. Những cái đầu đã nổi riêng ra thành hàng. Nhưng tiếng nói càng ồn ào, càng ngùn ngụt. Tiếng nói ở cả bên ngoài của mấy lớp trẻ con, đàn bà bồng con, dắt cháu, cõng em chen chúc nhau kín mít cả mấy bực lên xuống, cố rúc đầu vào xem cho kỳ được.

Chát... chát..., cái thước kẻ gõ lần nữa xuống bàn:

- Các anh chị em giữ trật tự..., các anh chị em sắp sửa chào cờ.

Người nữ giáo viên béo núc, tóc húi ngắn nhưng vẫn chít khăn vuông, áo cánh trắng chẽn, quần đen, thắt lưng xanh múi lệch, cố lấy giọng oai nghiêm cất lên. Sau đó, hai ngọn đèn phía trên lại được vặn lại cho đều lửa. Rồi người nữ giáo viên ấy hô:

- Đứng dậy... nghiêm. Chào, chào...

Bàn ghế sầm sầm, một loáng sau im bặt. Tất cả bên trong và bên ngoài đều đắm về phía trước mặt sáng rực lá cờ đỏ sao vàng treo trên bảng đen... Chát... chát... Thước kẻ lại gõ. Bàn ghế lại rung chuyển. Mọi người ngồi xuống, vẻ mặt choáng váng.

- Hôm nay các anh chị em học ôn lại bốn bài vừa học... Các anh chị em vẫn nhớ đấy chứ?

Tiếng đáp ran ngay lên. Từ một mé tường, một nữ giáo viên quần áo trắng dài đi ra. Y búi tóc, trán dồ, người dỏng dớt, da đỏ phớt hồng trông lạ quá giữa cái đám học trò lúc nhúc nọ. Những nét phấn trắng rung rung dần hiện lên dưới cái bàn tay nhỏ và thon:

i t ti

Cái trán dồ ấy quay ra. Đôi mắt quầng thâm và lờ đờ nhìnn suốt một lượt. Một giọng nói khản khản cất hỏi, môi chỉ hơi mấp máy:

- Ai biết chữ gì đây?

Những cánh tay nhao nhao giơ lên. Người nữ giáo viên áo cánh trắng chẽn, cau mày:

- Trật tự... trật tự... Không được làm ồn lên thế!...

"Cái trán giồ" lờ đờ nhìn xuống bàn những người nhớn; y im lặng một lúc nữa mới gọi:

- Ông Ba... chữ gì trên bảng?

Người chỉ đọc như không nghe thấy trong khi mấy đứa trẻ cứ xăm xăm chực đứng dậy.

Giọng nói nhỏ của "Cái trán dồ" nhắc lại, run run, khi cái vóc người dầy dặn, tầm thước nọ đứng lên rồi vẫn không đọc.

- Chữ gì? Chữ gì?... Kìa ông Ba!

Người giáo viên quần cộc vàng, mắt xếch, đi đến, cau mày giục. Thì hai con mắt kèm nhèm của người học trò tóc đã lấm tấm bạc nọ càng nheo lại. Một vẻ cố gắng đau khổ, một nét gì nứt vỡ của trí tưởng - chói hẳn lên ở những nếp nhăn tủa ra như nhài quạt ở đuôi mắt y. Mấy giọt mồ hôi dần tụ lại ở hai gò má nâu cháy, long lanh như nước mắt. "Cái trán dồ" đi hẳn xuống. Y nhìn, đuôi mắt cũng chếp lại, cái gương mặt tê dại như bị hình phạt của người học trò.

- Chữ... chữ bài học thứ nhất ấy mà...

Có tiếng nhắc lào xào. Ở bên ngoài, có thêm mấy tiếng cười:

- Rõ tội!... Ở cho bà Bá, cả ngày đi cày đã vất vả giờ lại còn học khổ, học sở thế kia!...

Anh giáo viên quần cộc vàng, mắt xếch, nghiêm giọng:

- Không ai được nhắc đấy!... Hừ!... Mà các bà bên ngoài, lạ quá...

Người nữ giáo viên áo cánh trắng chẽn, đi xuống nốt, nắm lấy cánh tay Ba:

- Hay hôm nay ông ngồi xa và chói đèn nên không nhớ ra nét chữ. Thôi... ông lên trên bảng mà đọc vậy.

- Không!... Không!... - mãi cái giọng rụt rè nọ mới thốt ra được - Đồng chí mặc tôi... mặc tôi.

Hai con mắt nhăn nheo nhíu thêm, sau cùng, tiếng nói phào ra:

- Chữ i... Hà... chữ i móc câu...

Cả lớp rầm rầm cười.

Người con gái áo cánh chẽn vội gõ thước chan chát. "Cái trán dồ" trở về trên bảng, trỏ sang chữ bên cạnh hỏi:

- Chữ gì nữa?

Đăm đắm nhìn thêm một giây, cái giọng rụt rè ấy lại phào ra:

- Chữ tờ... chữ tờ có ngang.

Cả lớp lại rầm rầm cười.

Người con gái áo cánh chẽn lại gõ thước chan chát! "Cái trán dồ" trỏ xuống hai chữ dưới:

- Ông đọc cả hai chữ này.

- Tờ i ti... tờ i ti...

Cái mớ lấm tấm bạc trên gương mặt xương xẩu cháy nắng nọ vừa dứt tiếng cúi xuống thì "cái trán dồ" chớp chớp mắt, quay ra. Y gõ nhẹ thước kẻ xuống bàn:

- Anh chị em đọc đều lên nào... Một hai... Chát!

I tờ giống móc cả hai... i ngắn có chấm, tờ dài có ngang...

Tiếng đọc ầm ầm lên, ngọng nghịu, bập bõm, sai lạc, chậm chạp, dớ dẩn, liến láu, lanh lảnh... Cái vang động nóng ngốt lên ấy một lúc lâu sau mới rút xuống.

- Dậu! Dậu lên bảng viết.

Một đứa bé con gái mắt đen láy, mặt mũi nhếch nhác, vừa đứng dậy vừa vén tóc. Nó lập cập toan mang cả bảng và sách đi ra, thì một đứa lớn kéo lại, rúc rích cười:

- Kìa! Xách hòm đi chữa khóa đấy à?

Người nữ giáo viên áo cánh chẽn chạy đến, đỡ Dậu ra hẳn ngoài. Dậu lên bảng. Anh giáo viên mắt xếch bê cái ghế đẩu đến cho Dậu đứng. Nhưng con bé vẫn phải kiễng kiễng vừa hổn hển miết cục phấn, mắt đăm đăm theo những chữ mẫu. Mấy cái nét nguệch ngoạc như chữ bùa ấy lại khiến mấy người đàn bà thì thào:

- Ấy thế mà cũng hơn khối bà không viết được.

- Dào! Cứ hẵng viết được như thế. Ngày trước mình bằng cái kẹo như nó thì đi ỉa, chùi đít cũng khóc gọi người nhớn nữa là...

- Này! Bác hàng khóa bác ta nhặt nó dạo đói hồi còn Pháp, về nuôi thế mà thấm thoắt hơn năm rồi đấy. Cả như lúc lôi nó gầy đét ở giữa hai cái xác bố mẹ nó ra, thì ai còn tưởng nó sống được đến ngày nay. Ấy rồi mà thấm thoắt chả mấy chốc đâu. Cô Liên con ông Thừa Tảo đương dạy học kia dạo nào bà Thừa bà ấy nhặt về nuôi cũng còm dòm như thế mà... Nhưng quái cô ta đương học giỏi thế sao lại bỏ hẳn ở nhà nghỉ, và cô ta còn con gái mà sao cứ một ngày một gầy rạc đi như thế, còn cái cô Hương hàng tấm em cậu cả Hào cũng dạy học kia càng ngày cái cửa hàng càng to thêm thì càng phây phây ra.

- Dào, hết Tây phát vé sợi lại đến Nhật nó "tẩm bổ" cho làm gì mà không đẹp? Đến bà mẹ già cốc đế mà cũng tươi hơn hớn, đâu cũng sắp lại lấy chồng nữa là... Nhưng mẹ con nhà cậu ta xung khắc thế nào ấy... Cậu ta nhất định không về ở với mẹ với em mà chỉ mê mệt vào hết tập tành cho thanh niên lại đi dạy học tối...

"Cái trán dồ" lại rung rung đưa những nét phấn lên bảng.

o ô ơ a

na mơ ta no ôtô...

"Cái trán dồ" lại vừa thở vừa gõ thước kẻ:

- Bác Ao đọc.

Một người đàn bà và một đứa con gái cùng đứng lên. Đứa con gái chột mắt, mặc coócsê trong áo nâu cổ xẻ nọ lau chau nói trước. Người nữ giáo viên áo cánh chẽn vội gõ thước.

- Cao! Cao ai gọi? Chị Liên giáo viên gọi bác Ao cơ mà!

Người con gái ấy, bán bánh tây giò chả khét tiếng nghịch ngợm và chua ngoa ở trên ga, vùng vằng ngồi xuống trong khi người đàn bà hàng rau bụng chửa trật ra cả ngoài đùm thắt lưng và dải yếm đen đủi, sượng sùng lẩm nhẩm.

- Bác đọc to lên. Chữ gì?

- Chữ o... chữ o... - Người đàn bà chửa thỏ thẻ như một đứa bé.

"Cái trán dồ" lờ đờ nhìn "người-mẹ-học-trò" của mình, thong thả hỏi tiếp:

- Chữ gì nữa? Kìa! Bác cứ trông thẳng lên mà đọc.

- Chữ ô

- Chữ gì nữa?

- Chữ ơ.

- Chữ gì nữa?

- Chữ a.

Người-mẹ-học-trò ngồi xuống đoạn, anh giáo viên mắt xếch gõ thước trỏ:

- Bác Tân, đứng dậy, đánh vần chữ này.

Một người đàn ông cao nhớn, tóc phờ như tóc cò, mặt sần sùi vẫn còn bừng bừng, cái khăn mặt vải dòng dọc ướt sũng vẫn vắt trên vai áo đóng bao nhiêu dấu, và mồm vẫn sặc hơi rượu - cái bác học trò kéo xe mà người đi chợ gọi là "Ngựa lồng" ấy đứng lên, làu nhàu nói một thôi một hồi:

- Thưa đồng chí chữ o, chữ ô, chữ ơ, chữ a, chữ nờ a na... chữ mờ ơ mơ...

Cả lớp lại rầm rầm cười. Nhưng "Cái trán dồ" giọng càng nhẹ nhàng:

- Anh giáo viên gọi bác đánh vần chữ đầu thôi mà...

- Hì hì... thôi em đánh vần cả một thể cho tiện đồng chí ạ.

Tiếng cười càng trào lên. Anh giáo viên mắt xếch cũng cười, vỗ vỗ cái lưng khom nọ:

- Thôi được... bác ngồi xuống.

Cái mặt đỏ phừng phừng của "Ngựa lồng" lại cười khì khì ngoan ngoãn ngồi theo xuống nhịp tay của người giáo viên.

- Tý! Tý đánh vần...

- Cu Chắt đánh vần...

- Gái nhớn đánh vần...

Một người con gái nhem nhuốc luống cuống đẩy một đứa bé ngồi níu lấy đùi mình ra.

- Chết!... chết!... buông tao ra nào... Cứ bám lấy tao thế này thì còn học thế nào? Buông ra... kẻo anh giáo viên anh ấy đuổi ra bây giờ... chóng ngoan rồi chiều mai tao bế đi "một hai" với các "chị bé"ngoài phố...

"Cái trán dồ" trỏ gọi thêm một người học trò con gái nữa rồi gõ thước:

- Chát... chát... - o tròn như quả trứng gà,

ô đội nón chóp ơ là có râu,

o a hai chữ khác nhau

vì a có cái móc câu bên mình...

Những giọt mồ hôi đã lấm tấm trên cái trán giồ. Những giọt mồ hôi càng ròng ròng ở tất cả những cái mặt bừng bừng. Mồ hôi còn đẫm ra có thể vắt được ở mọi sống lưng. Trộn với mùi mồ hôi, những mùi quần áo rách rưới, mùi dầu tóc chua khét, mùi chân tay ghẻ lở sực thêm lên, làm không khí ngụt nóng hơn nữa trong ánh đèn cháy rực.

Hai con mắt thâm quầng và lờ đờ của "Cái trán dồ" đã khác hẳn, lấp lánh một cách khác thường, sau khi y ho mấy tiếng khan. Xóa xong bảng, y lại ho rồi lại viết:

\ /.? ~tờ mờ, ú ớ, tí tị, tỉ mỉ, mũ ni.

- Ai đọc? Ai đọc?

Lần này tất cả mọi cánh tay đều chồm chồm giơ lên. "Cái trán dồ" chớp chớp mắt nhìn, môi nhợt mím mím, cái ngực lép nhấp nhô càng rõ. Y long lanh nhìn xuống bàn dưới gọi:

- Anh Tiến! Đọc...

Tiến lập cập đứng dậy. Cánh tay Tiến vừa run run tì xuống bàn để đứng cho thẳng thì mắt "Cái trán dồ" ngời lên và, bỗng y mỉm cười:

- Không!... anh cứ ngồi đọc cũng được.

Anh học trò què chân làm thợ máy nọ như không nghe thấy. Mặt anh càng đỏ ửng. Lúc sau, cái thân thể lệch lạc ấy đứng hẳn dậy, một cánh tay rung rung tì xuống mép bàn, anh vừa thở vừa đọc:

- Dấu huyền, dấu sắc, dấu nặng, dấu hỏi, dấu ngã...

Tiến đọc xong, anh giáo viên mắt xếch đến đỡ Tiến ngồi xuống, trỏ một đứa bé.

- Vòi, đọc theo đây.

Vòi đứng dậy, khoanh tay đọc ngược lên theo cái thước kẻ của giáo viên trỏ. Những tiếng đọc thong thả và vẻ mặt chăm chỉ hồn hậu của thằng bé quét chợ tai quái nọ lại làm mấy người đàn bà bên ngoài lào xào. Sau cu Ty, một người đàn bà đi gánh thuê, và tất cả trẻ con ngồi bàn đầu.

- Huyền ngang, sắc dọc, nặng tròn

Hỏi khom lưng đứng, ngã buồn nằm co...

Cái thước kẻ của "Cái trán dồ" lại nhịp nhàng gõ xuống bàn cho những tiếng đọc ran lên. Tiếng đọc ngừng, đều tắp. "Cái trán dồ" liền trỏ gọi từng người đánh vần những chữ dưới đoạn lại ra lệnh đọc chung. Tiếng đọc đã thành hẳn tiếng hát, nhịp nhàng, vang ngân. Sau đó tất cả những cái đầu nhớn bé nọ cúi cả xuống những chiếc bảng thay cho vở tập, mắt ngước lên ngước xuống nhìn những chữ mẫu trên bảng, lục tục viết.

Những nét phấn trắng bám cả lên miệng, lên mũi, lên trán, lên áo... Những tiếng thở và tiếng lào xào... Những cánh tay ngượng nghịu... những bàn tay nổi gân... những cặp mày nhíu lại... những cái miệng mim mím... những nét mặt băn khoăn... những vẻ nhìn tê mê...

"Cái trán dồ" thần mặt ra, mắt lại đắm đuối nhìn xuống những cái đầu cắm cúi.

Anh giáo viên mắt xếch thì ngồi hẳn bên cạnh ông Ba, người học trò thợ cày, tóc lấm tấm bạc, cầm lấy bàn tay xù xì của y mà nắn nót.

Người nữ giáo viên béo núc, tóc húi ngắn, áo cánh chẽn, quần đen, thắt lưng xanh múi chếch, quay mặt ra ngoài trời, tờ báo cầm tay lơ đãng bỏ xuống bàn.

Ánh đèn đỏ rực thêm. Khói phụt lên tụ thành đám lởn vởn như đàn muỗi mắt. Mồ hôi nhờn hẳn xuống các mặt bàn. Ngoài kia, sao đã lấp lánh chi chít như những vụn mảnh chai... Gió tắt. Cảnh vật đen kịt, le lói vài tia đèn sáng. Tiếng tát nước dào dạt ở những thửa ruộng cạnh đấy nổi lên rõ mồn một với từng tiếng thở hự... hự...

Người ta lại ra đồng.

Sau một ngày ăn vội ăn vàng mấy bát cơm chín, dân quê lại ra đồng. Tháng ba rồi... từ tháng một tới giờ năm tháng rồi, giời vẫn không rỏ một hột mưa. Lúa chỗ mới cấy thì xác như cỏ may, còn ở chỗ nào đâm bông thì cờ hết. Trong Nam Bộ, quân Pháp càng bắn giết đốt phá dân Việt Nam... Gạo đã hạ xuống ba trăm lại vùn vụt lên bốn trăm, hơn bốn trăm rồi...

1946