← Quay lại trang sách

Bước Đường Viết Văn I. CẢNH KIẾM SỐNG BAN ĐẦU VÀ CÁI HÒM SÁCH "CON TIN"

Thế là mẹ con tôi lại ra Hải Phòng. Lần này không phải đi thăm thú như lần trước, mà sẽ sinh sống ở đây, tìm con đường sinh sống ở đây. Tôi nao nức và cũng bùi ngùi vô cùng. Đồ đạc, tiền của vốn liếng chúng tôi chỉ có cũng như hầu hết những người tha hương cầu thực khác. Đôi chiếu nằm, cái nồi thổi cơm, một rổ con bát đĩa, một thúng đựng quần áo và các thứ vặt. Riêng tôi có một cái hòm.

Hòm đựng toàn sách báo. Cuốn quý nhất là cuốn tự vị tiếng Pháp in bán không hiểu từ năm nào của cha tôi để lại. Ảnh trong sách, ô tô cao lênh khênh như cái nhà táng, còi bằng nắm cao su lắp ở ngoài cửa. Xe lửa thì như cái xe hồ lô lăn đường. Còn tàu thủy chạy bằng guồng. Tôi đã dùng nó suốt mấy năm đi học, từ lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai đến lớp nhất, rồi tốt nghiệp, bìa đã long, gáy đã nát, nhiều tờ đã rách. Vậy mà không hiểu mẹ tôi đã tính toán ngẫm nghĩ sao vẫn cứ giữ lại trong khi tôi đi tù và bà nội tôi già yếu ốm chết, nhà đã phải đi vay mượn các nơi các cửa, và bán đi nhiều thứ để lấy tiền gửi gắp cho tôi.

Tôi ở Phúc Yên, hết hạn tù ra lên dinh công sứ lấy giấy về quê quán, tên phó sứ thấy tôi vừa trẻ vừa nói được tiếng Pháp đã cho tôi hai đồng và bảo muốn tôi làm cho nó, làm bé con phụ bồi, bếp nhưng tôi không nhận.

Khi tôi đi tàu về quê, không hiểu vì mừng rỡ hay vì đã đưa món tiền đó cho mẹ tôi thắt vào lưng, mà tôi không ăn xu bánh quà nào cả. Đến Hà Nội cũng vậy. Mặc dầu tôi lại đi chơi các phố, các đường. Tôi vào cả chợ Đồng Xuân, quanh không biết bao lần hồ Hoàn Kiếm, Hàng Đào, Hàng Buồm, nhà ga, Gô Đa, Tràng Tiền, Bờ Sông, Bến Nứa... Nhưng đến hôm thứ ba thì tôi bảo mẹ tôi đưa tiền cho tôi. Mẹ tôi đã hỏi đi hỏi lại tôi lấy tiền làm gì. Tôi chỉ bảo mẹ cứ đưa để tôi xem có sách gì cần mua thì mua. Tôi đã lấy lại cả hai tờ giấy bạc mới nguyên ấy, và mẹ tôi ngần ngại có ý dặn dò can ngăn tôi. Bà cũng định đổi tiền để bớt lại mà không dám!

Từ nhà người anh họ tôi ở đường Quan Thánh xuống Bờ Hồ, tôi đã đi như mê. Và tôi càng như mê hơn khi mua sách xong. Tôi mua hết cả hai đồng. Có những cuốn ngày xưa ở Nam Định, ngày ngày tối tối tôi đã ngắm mãi trong một hiệu sách nổi tiếng nọ. Có những cuốn tới đây tôi mới thấy đề tên ở sau bìa. Nhiều nhất là thơ của những tác giả tôi đã học bài hay được nghe các bạn học lớn tuổi, các nhà văn thời bấy giờ ca tụng. Văn xuôi, ngoài mấy cuốn truyện của Chateaubriand, Alphonse Daudet, còn là của Jean Jacques Rousseau, Voltaire, Diderot... dùng làm sách giáo khoa sau đây tôi phải tra cứu tự vị hết sức cực nhục mới hiểu được rất đại khái. Sở dĩ tôi chọn những sách của ba nhà văn trên này là để rồi đây mình sẽ có thể ăn nói với các "lão" học trò thành chung hay tú tài về sức học của mình dù không được ăn học như họ. Lý do thứ hai là để xem xem những tư tưởng lớn xã hội bác ái kia là thế nào mà được thế giới truyền tụng đến thế. Tôi như mê đi còn vì thấy cùng hiệu sách đây, cũng những cuốn sách này, nhưng ở tủ trong kia, ở bàn trong kia có hàng đống sách như thế đã bụi bám vàng ố, giá tiền chỉ có một nửa. Nghĩa là cuốn tôi mua mới phải trả một hào hai, thì cuốn cũ chỉ sáu xu, năm xu. Tôi như mê đi còn vì thấy ngay ở bờ hè phố sau hiệu sách đó, cũng có hàng đống sách cũ của mấy hàng sách đầu đường, giá bán lại chỉ một phần ba!

Chúng tôi đi tàu thủy. Mỗi suất vé một hào. Mẹ tôi phải vừa cãi vừa van xin hàng giờ, và phải mở tung cái hòm ra để phân bua rằng chỉ có sách và là sách học của tôi chứ không phải là hàng hóa gì cả, nên mới được miễn cước. Lên bến, mẹ tôi lại phải một lần nữa mở hòm phân bua với người soát vé chợ. Rồi khi thuê xe ba gác, mẹ tôi cũng phải diễn lại tấn kịch ấy với người kéo xe. Nhưng lần này, bất kể là sách học hay là nhân ngôn, vỏ nhãn gì, chỉ biết là một hòm nặng, thì cứ phải trả tiền thuê chở.

(Tôi suýt quên! Cả mẹ tôi và tôi còn phải xúm lại giành giật với mấy người phu bến tàu, nếu không sẽ mất tiền khuân vác, trong khi tôi thừa sức vác lấy!)

Chuyến tàu tôi đi ấy về bến sau cùng, chậm đến ba giờ vì tí mắc cạn, tàu của hiệu Khách nhưng đỗ gần bến Tây điếc. Mẹ tôi thuê xe về ao Than Lạc Viên vào ngõ Tây cụt. Sắp đến nơi, xe bị gần như sụn díp, phải dừng lại để xếp lại đồ đạc ở đầu đường Máy nước hai vòi. Người kéo xe lại càu nhàu nhất định bắt phải trả cả hào rưỡi vì cái hòm sách nặng tổ bố thế kia, đường lại xa, mà mẹ tôi khi mặc cả lại cứ bảo đồ đạc chẳng có gì cả! Bác ta chỉ đòi hai hào rồi hạ xuống hào rưỡi, mẹ tôi vẫn không biết điều lại còn đòi bớt ba xu trả có hào hai!

Sau đấy tôi biết quả thật người kéo xe đồ đạc cho nhà tôi đã lấy một giá khá rẻ và chuyến xe cũng khá vất vả. Vì cái xe ba gác của bác là một thứ xe cà khổ quá rồi, không được phép chuyên chở nữa, lại không được cấp biển đồng. Bởi vậy, bác phải đi mua đường, để tránh con đường qua bóp Ngã Sáu của xếp Bảy-mề-đay.

Xếp Bảy-mề-đay không những chỉ ăn phạt mà ăn cả mắm tôm. Cuộc đời dạy học của tôi trong một cái xóm khốn khổ sau này, một phần cũng vì phải trốn tránh tên xếp cút lít Bảy-mề-đay đã thành tinh ở Hải Phòng, ở bên "An Nam" nọ!

⚝ ❖ ⚝

Chỉ vừa trải xong cái chiếu ra nền nhà và không kịp sắp xếp đồ đạc gì cả, tôi đã thấy cả một sự lạnh lẽo thê thảm đang đến với chúng tôi.

Ngay từ phút đầu tiên mở cửa gian nhà cho chúng tôi khuân đồ đạc vào, người chủ đã đổi ngay nét mặt, vừa cười một cách rất lạnh nhạt, vừa tiếp chuyện như tra hỏi chúng tôi. Đến bấy giờ tôi mới nhận ra hình như mẹ tôi đã giấu tôi nhiều điều, đã dối tôi nhiều việc. Điều quan hệ thứ nhất và việc cấp bách thứ nhất là chúng tôi chưa có tiền trả trước tháng thuê nhà. Đã thế lại không mượn được giường của người quen là cháu họ của bố dượng tôi, mà mẹ tôi đã nói đi nói lại với tôi nào là người rất tốt, nào ở lâu quen biết nhiều người cũng rất tốt ngoài Hải Phòng, nào là vợ chồng chị ta thu xếp đâu vào đấy cả rồi chỉ chờ đón mẹ con tôi ra làm ăn!

Cả ngày hôm trước, chúng tôi ăn cơm nắm. Đi tàu phải thức suốt đêm. Mờ sáng đến giờ lại phải khuân vác, đi bộ và chạy vạy hết nhà này sang nhà khác. Cứ phải ăn đã. Muốn ra sao thì ra. Chính vì bữa cơm đầu tiên thổi nấu lấy ăn ở nơi xa lạ ấy, mà tôi lại càng thấy buồn thảm.

Tuy có cái cóng để đựng nước, nhưng vì máy ở xa nhà, nước lại hiếm, không thuê ai gánh được, nên nhà tôi phải "vay" nước nhà chủ để vo gạo nấu cơm. Nhà lại chỉ có một cái nồi và một cái rá, mẹ tôi đã lau chau lại định hỏi mượn nhà chủ rổ và xanh để rửa rồi luộc rau, nhưng bố dượng tôi gừ gừ bảo đừng, tranh lấy làm bữa. Ông rửa rau bằng rá vào cái thau sắt đã thủng phải hàn bằng nhựa đường, và luộc rau trước vào cái nồi con để thổi cơm.

Bữa cơm dọn ra cái mẹt. Người đàn ông chủ nhà cứ ở nhà dưới chòm chõm trông lên chúng tôi ăn uống. Chúng tôi chưa kịp thu dọn bát đĩa, y đã lên. Lần này không cười, nét mặt rất đanh lạnh, tiếng nói sin sít, và chỉ nói mấy câu rất ngắn, y bảo chúng tôi tìm nhà khác mà ở, vì y đã nhận tiền của "người ta" rồi. Y nói chính vì nể người cháu bố dượng tôi, nên y đã giữ lại gian này hàng nửa tháng nay, vậy mà đã dọn đồ đạc đến, chúng tôi vẫn chưa nói đến tiền nong gì cả!

... Ba hôm ròng, tuy ở một gian nhà không quá mười lăm thước vuông, với đủ cả những đồ đạc thân thiết và cần dùng nhất của mình, tôi vẫn thấy và càng thấy thê thảm, buồn bã vô cùng. Cả mẹ tôi và ông bố dượng đều đi biền biệt. Nghe mẹ tôi nói thì bố dượng tôi đang đợi sự giúp đỡ của một người em gái có một cửa hàng rất to trên phố. Còn mẹ tôi lại đến với ông anh ruột và người cháu gái của mình. Thỉnh thoảng tôi cũng ra đi, nhưng chỉ được mấy phố hay chỉ một quãng khỏi nhà, tôi đã thấy bã bời cả người, phải quay về.

Nhưng rồi sự quyết định cũng phải đến. Tuần sau, một buổi quá trưa, mẹ tôi ở trên phố về lập cập bảo đã hỏi thuê được nhà gần đấy rồi.

- Ông bà đã hỏi thuê được nhà rồi? Ông bà dọn đi ngay?

Người chủ nhà hầm hầm hỏi mẹ tôi thế. Mẹ tôi vừa "thưa ông vâng ạ" xong, y liền hất hàm:

- Thế ông bà trả tiền cho tôi đã!

- Thưa ông... thưa với ông...

- Thôi bà đừng thưa với gửi gì cả. Bà cứ phải trả tiền nhà cho tôi đã.

Như thấy chưa đủ hiệu lực, người vợ y cũng lên, cũng lạnh, đanh nét mặt, và hất hàm bảo mẹ tôi phải trả tiền nhà đã rồi muốn dọn đi đâu thì dọn.

Tôi chưa biết và chưa thể tưởng tượng ra những phút giây của người tù tử hình chờ ngày lên máy chém như thế nào, nhưng tôi cũng cứ liều ví tâm trạng tôi lúc đó cũng như thế. Rồi tới khi vợ chồng y sa sầm cả mặt, nhận cho mẹ tôi để lại cái hòm sách của tôi, tôi đã như trút được một phần nặng nén. Được vợ chồng y bằng lòng, và giơ từng thứ trong hòm ra để vừa xem xét, đánh giá, vừa để giao hẹn với mẹ tôi, thì tôi thật như bị xẻo thịt.

Thế là tất cả hơn trăm số của mấy năm báo hàng tuần của một người bạn thân cho tôi mượn vì tin cậy hết mực nọ, và những sách chữ Pháp đều giữ lại cả!

- Thưa ông bà, chỗ sách này cháu vừa mới mua trên Hà Nội, những hai đồng đấy ạ!

- Ôi dào! Sách với vở làm gì bây giờ!

- Còn chỗ báo này...

Tôi không thể nén, nói tiếp lời mẹ tôi:

- Ông bà giữ gìn cho chúng tôi tập báo! Tập báo tuy cũ nhưng có chục bạc bây giờ cũng không mua được.

Người chồng khinh khỉnh không đáp. Trái lại, người vợ chau chau mày, mở mở, nâng nâng tập báo mà tôi đoán rằng mụ ta tinh ý hơn chồng nên cũng biết giá trị thứ "con tin" này.

Mẹ tôi ra ngõ lại mặc cả một xe ba gác. Hai mẹ con lại dọn dẹp, sắp xếp đồ đạc rồi đi theo sau xe.

Hôm đó vào khoảng trung tuần tháng chín năm 1935. Một quá trưa hình như nắng đẹp.

Tới đây tôi xin phép được mở một đoạn ngoặc dài, để chen vào một chuyện ngồ ngộ sau đây tuy không liên quan gì đến ngày ấy cả... Chuyện vừa mới xảy ra tháng 7 năm 1969, tôi ở trên huyện Yên Thế đưa vợ tôi và đứa con gái út lên sáu tuổi về Hải Phòng chơi. Nhân có dịp đi Hòn Gai thăm biển, thăm vịnh Hạ Long và nghỉ mát ở Bãi Cháy, tôi bèn thu xếp cho vợ con đi. Để tiện việc xe cộ, tôi đưa trước cái Bé đến nơi tôi đang làm việc còn vợ tôi sáng mai sẽ thanh thản một mình ra bến xe.

Thoạt nghe được đưa ra chơi biển, tắm biển, cái Bé thích lắm. Nhất là mấy hôm nay vợ chồng tôi lại bàn tính và mấy lần xáo xác chuẩn bị đưa con đi rồi lại thôi. Nhưng nghe đến cơ quan ngủ với bố chứ không cùng đi với mẹ, cái Bé liền xị mặt ra: "Con chẳng thèm đi tắm biển, con chẳng thèm ngủ với bố đâu". Dỗ mãi không được, cuối cùng tôi bảo vợ tôi cứ đưa con ra xe cho tôi đèo. Cái Bé mọi khi được đèo xe chơi phố thì ngồi bám lấy lưng tôi mà cười và chuyện hơn sáo sậu, đến lúc này nó cứ oặt người ra. Rồi bắt đầu đi khỏi nhà là khóc. Ra đến ngoài đường lại càng khóc. Vợ tôi đã mấy lần định đỡ con xuống và nhất định: "Chẳng tắm biển, chẳng nghỉ mát thì đừng, bố nó không phải cái tội mà vừa dỗ vừa đèo xe nó đi như thế!"

Xe đạp phóng thêm. Tiếng khóc càng to, càng nức nở: "U ơi! U ơi! Con không đi đâu! Con về với u cơ! U ơi là u ơi!". Vừa khóc cái Bé cứ quay lại... Hơn hai cây số, xe đi trong đêm, cái Bé cứ quay nhìn về hướng mẹ mà "U ơi! U ơi!".

Ơi! An-phơ-rê Muýt-xê, An-phơ-rê Vi-nhi, Vích-to Huy-gô, Giăng Giắc Rút-xô, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, vân vân trong cái hòm gỗ sách báo "con tin" kia! Đứa bé mười sáu tuổi là tôi ba mươi tư ba mươi lăm năm xưa ấy, cũng vừa bám lấy xe đồ, vừa quay lại nhìn cùng đường. Tuy nó không gọi Muýt-xê ơi! Vi-nhi ơi! Huy-gô ơi! Rút-xô ơi! Thế Lữ ơi! Lưu Trọng Lư ơi!... nhưng nó cũng nức nở và đã giàn nước mắt!

Nước mắt giàn ra trong người nó, nước mắt tê lạnh hơn cả những băng tuyết tê lạnh nhất của trái đất này.

Chuyến xe lần này cũng loại xe cà khổ, nhưng không xộc xệch rúm ró quá như cái xe lần trước. Vừa phần lại chở nhẹ - bớt hẳn một hòm sách báo và một mớ củi to - nên đi khá nhanh. (Hay là cũng tại tôi đẩy mạnh và đi nhanh nữa!) Để xuống ngõ Ông Đồng lùn, xe lại qua đường Máy nước hai vòi.

Tuy đã nghe mẹ tôi nói hai ba lần rồi, tôi vẫn cứ hỏi:

- Nhà tìm thuê được ở ngõ Ông Đồng lùn hả mẹ?

Xe đỗ ở rệ đường. Mẹ tôi vào trước, tôi lần lượt khuân vác đồ đạc vào sau. Nhưng không đợi phải nhận xét tinh hay chuyện trò lâu la gì cả, tôi liền thấy một nguy biến mới lại xô đẩy chúng tôi đi nữa. Vợ chồng người chủ nhà này đã đứng tuổi. Người chồng gày cao, da xanh mướt, môi thâm xịt, giọng nói cứ è è:

- Kìa! Ông nhà bà đã ngã ngũ với tôi như thế nào mà đã dọn đến?!

Trong khi người chồng ngồi chồm chỗm ở giữa nhà, cứ nhìn đi đâu ấy mà hỏi mẹ tôi, thì người vợ - cũng gày rớt, mắt rất sắc, đảo ngược, đảo xuôi mà xét nét từng thứ đồ của nhà tôi:

- Không! Bà hãy cứ xếp đồ ở ngoài sân kia, để tôi còn chờ ông nhà bà về đã.

Thế là mẹ tôi lại giở cái "văn" rất sở trường của mình ra là nói khó, nói như van như lạy, nói như rên như khóc. Không phải chỉ có các trẻ con xúm đến xem cảnh dọn nhà lạ lùng của chúng tôi, mà cả những người lớn ở mấy gian bên, ở các nhà chung quanh. Cuối cùng có một người đàn ông cũng đứng tuổi nhưng trông có vẻ làm ký lục hay bàn giấy gì đó, trầm ngâm bảo chúng tôi:

- Nhà bà với cậu định ra Hải Phòng làm ăn à? Cậu đã đỗ sơ học Pháp Việt rồi? Thôi được, thế thì bà theo tôi sang ngõ Cô Ba chìa, tôi hỏi hộ nhà ông này xem có được không.

Tôi ở lại với đống đồ đạc nhếch nhác. Trời đã xế chiều. Mây xám mây đen vần vụ nhiều hơn. Lác đác có hột mưa. Chừng hơn tiếng đồng hồ sau, người đàn ông phúc đức nọ trở lại. Trông mẹ tôi hớn hở hẳn lên. Mẹ tôi cứ rúm người lại mà lạy người đàn ông nọ và chào vợ chồng người chủ nhà, chào mọi người:

- Thôi khuân đồ đạc sang ngõ Cấm đi con! Nhà ở ngõ Cấm con ạ!

- Kìa! Kìa! Nhà bà không trả tiền xe tôi à! Phải trả thêm cả tiền tôi gác chờ thêm hơn một tiếng đồng hồ nữa đấy!

Quãng đường chỉ bằng một phần ba lần trước. Người kéo xe đòi thêm bốn xu nữa là một hào tư. Mẹ tôi đếm mãi cũng chỉ có sáu xu. Người kéo xe nhất định giữ lấy đôi chiếu và không chịu cho mẹ tôi và tôi khuân đồ đi. Sau nghe mọi người nói hộ, bác mới chịu cho chúng tôi xếp đồ đạc lên xe để bác kéo đến chỗ mới cho biết cửa biết nhà rồi ngày mai sẽ đến lấy thêm và lấy đúng một hào rưỡi.

Đến nhà được một lúc, trong khi mẹ con tôi khép nép cúi dúi khuân dọn, thì tôi nghe thấy tiếng trẻ con ồn ồn:

- Đấy bà ấy, cậu ấy dọn đến nhà anh Tiểu, chị Tiểu kia kìa!

Tôi choàng người trông ra, vừa giận vừa mừng vừa bàng hoàng. Ông bố dượng tôi đã về, cà lắp, cà lắp gọi trống không mẹ con tôi. Theo sau ông, lại có một người kéo xe ba gác! Đúng là một người kéo xe ba gác! Nhưng xe đó chở hẳn hoi một bó khung và giát giường, và một cái bàn rễnh roãng mọt lung tung, sơn đen nhôm nhoam, một chân đã mọt phải đáp bằng một đoạn gỗ khác. Không đợi ông lên tiếng chào hỏi nhà chủ và mọi người, mẹ tôi gắt lên, và khi ông đưa tay đón giúp mẹ tôi khiêng một thúng bát đĩa nồi chậu, thì mẹ tôi vằng hẳn tay ông đi. Suýt nữa hai người vặc nhau. May có bà chủ nhà cười nói can ngăn mới thôi...

Tiền xe cả hai chuyến thế là mất hai hào rưỡi. Mưa to. Ông bố dượng tôi và tôi mướt mồ hôi mới lắp xong được cái giường. Cái bàn tôi kê lấy. Mẹ tôi lẳng lặng đi vo gạo, nhặt rau nấu cơm. Bữa cơm đã sắp bát đũa rồi mà tôi vẫn cứ xếp dọn.

Tâm trí da thịt tôi như vừa được gội một lần nước kỳ diệu, dạt dào, sáng láng và hương sắc. Như một ông tướng đang bị vây hãm tưởng đến cùng kiệt, bỗng được viện quân và các thứ lương thực, khí giới đặc biệt, tôi thấy tỉnh táo khỏe khoắn một cách lạ thường. Tôi tiếc sao ông bố dượng tôi không sớm mượn cái giường và cái bàn nọ, dù chỉ là hai thứ đồ đạc cà khổ, để nhà không phải chịu tất cả những cái đau, cái nhục từ hơn tuần lễ nay cho tới giờ phút gần đây!

Gian nhà của ông bà Tiểu chật hẹp hơn gian nhà trên ngõ Tây cụt. Chỉ có một cửa ra vào lắp cánh liếp và một cửa sổ gỗ độ hơn mười gang tay. Cửa sổ trông ra một vũng nước đen ngầu bọt, một chuồng lợn ngập ngụa phân tro và một nhà xí. Cái bàn mọt đáp chân tôi nhận phần kê bên cửa đó. Trên cái bàn này tôi đã viết những truyện ngắn đầu tiên rồi cả tiểu thuyết đầu tiên.

⚝ ❖ ⚝

Ngay sáng hôm sau tôi đã ra đi. Tôi đi tìm việc. Tôi phải có việc làm để sống. Nghĩa là trước mắt để có tiền trả tiền thuê nhà, trong khi mẹ tôi phải chạy ăn, rồi để tôi có thể lại tiếp tục học. Học trưa, học tối. Học bất kỳ thầy giáo nào. Học một tuần lễ hai ba buổi trưa hay chỉ mỗi buổi tối. Cùng quá thì học hàm thụ. Còn làm việc, tôi sẽ làm bất cứ việc gì... Trừ ăn mày, ăn cắp, làm mật thám, đưa gái, tay sai cho những kẻ quyền thế, ăn gian nói dối, vu oan giá họa, ăn cướp cơm chim, bòn nhặt những đồng tiền mồ hôi nước mắt, xương thịt máu mủ của các người nghèo khổ khác!

Tôi ra bến tàu to Sáu Kho. Tôi sang nhà máy Xi măng, sở dầu Thượng Lý. Tôi chầu chực ở cổng các nhà máy Cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ, Máy ống, các hãng chuyên chở hàng hóa, các bến ô tô, tàu thủy, các kho hàng, các cửa hiệu, các tràn than, lán củi. Tôi đến tất cả xóm ngõ, đầu đường, nơi đi về đông đúc của phu phen thuyền thợ, để nghe ngóng hỏi han. Có ba nơi tôi hay đến nhất là: Sáu Kho, đầu cầu Hạ Lý, và vườn hoa Đưa người.

Sáu Kho - cái bến cảng to thứ hai của Đông Dương, cảnh vật và những sự việc đặc biệt của nó giằng gịt lấy tôi trong những ngày ấy, tôi xin phép dành lại ở chương sau.

Cầu Hạ Lý còn gọi là cầu Gióp, tên một tướng Pháp được phong thống chế trong Đại chiến thứ hai. Dòng sông vừa hẹp, vừa nông, vừa ngắn. Tất cả cống của mấy khu chợ, phố xá và nhà máy ở hai bên đều đổ ra đây. Tất cả rác rưởi, với những cọc, những xích, những gầu sắt, những chân vịt, những ống khói, những dây thép gai... không còn rõ từ năm nào cứ giăng giăng lập lờ, lởm chởm lẫn với bùn sông. Rồi các thứ nhà nát làm trên cọc, dưới gầm cầu, trên miệng cống cứ chi chít bám lấy hai bờ sông cùng các thứ tàu, boọc, sà lúp, sà lan, thuyền, xiệng ọp ẹp, rệu rạo, sập nát.

Nếu không có nước triều thì con sông sẽ là một bể bùn rác lúc nhúc các thứ hoạt động của người ta, từ việc quai búa, chặt tôn, đóng đanh, cạo gỉ, tiện, cưa, hàn, đúc, khuân sắt, vác gạo, đội than... đến sự tranh cướp nhau mua bán, ăn uống, hát xướng, cờ bạc, đĩ bợm. Còn ở giữa khu Hạ Lý hoàn toàn là hai dãy nhà chứa và hàng cà phê, hàng phở, tiệm hút.

Qua khu này và qua cái cầu sắt gọi là cầu Gióp ấy, hàng ngày đi về các thợ thuyền phu phen, đông nhất là của nhà máy Xi măng. Chao ôi! Những lớp lớp tầng máy, tầng lò xi măng với những làn khói tỏa ra mịt mùng, và những con tàu nguy nga, những cột buồm chót vót ngoài hải cảng kia, càng tấp nập, giàu có vui lạ bao nhiêu, thì càng làm tôi mệt mỏi thất vọng bấy nhiêu, những khi đi rạc cả người, ngồi rũ trên bờ hè, dưới gốc cây mà nhìn người qua kẻ lại mải miết, xe cộ tung bụi, rít còi.

Vì vậy vườn hoa Đưa người là độ nghỉ cuối cùng của tôi.

Cả những vườn hoa của Hải Phòng cũng đặc biệt. Từ vườn hoa bến tàu Tây điếc, vườn hoa Chéo, vườn hoa Sông Lấp, vườn hoa Nhà kèn đến vườn hoa Đưa người, không một vườn hoa nào có lấy một luống hoa hay một bờ cỏ xanh tươi. Đây, nếu không bỏ hoang, bỏ trụi, thì cũng chỉ có những cây cơm nguội, những cây bồ kếp dại hay những cây dái ngựa.

Ở vườn hoa Đưa người, nền đất khô đanh như xi măng, rác rưởi ngập ngụa, cứ quãng quãng dưới những cây bồ kếp dại lại có một chiếu thầy bói, thầy tướng, cô đồng. Và các đám người lớn, trẻ con, đàn bà, con gái. Ốm yếu vàng vọt cũng có, khỏe mạnh lanh lẹn trai lơ cũng có. Quê kệch hâm hấp cũng có, lần đầu tiên ra tỉnh cũng có. Nay nhà này mai cửa khác, trên Hà Nội xuống, ở Nam Định ra, ngoài Hòn Gai, Cẩm Phả về cũng có, vừa ăn cắp vừa làm đĩ cũng có. Tất cả tụ tập sống vất vưởng dưới quyền mấy con mụ làm nghề đưa người.

Cố nhiên là chúng không chỉ đưa người đi làm con sen, làm vú già, vú em, thằng nhỏ, thằng bếp, kéo xe, vân vân. Và cố nhiên không phải chỉ ở đất Hải Phòng. Nghĩa là nếu có "khách" ở trên đường ngược xuống, hay ở các lán, các trại, các đảo về tìm người, thì những trẻ con, đàn bà, nhất là con gái kia, đều thành hàng hết! Phải! Nếu tôi không có cái gương mặt và những điệu ăn giọng nói và những cử chỉ mà ai muốn nhìn thế nào vẫn cứ thấy "nó" là học trò, thì tôi cũng sẽ ngồi bệt xuống với đám người kia, để người ta hỏi thuê mình và để mấy con mụ chào khách đặt giá mình vậy.

Tôi đến đây, những buổi trưa nhà không thổi cơm. Tôi đến đây những buổi chiều đi chầu chực các nơi không được việc gì cả, tâm trí cũng như xác thịt mỏi rã mỏi rời. Tôi đến đây, những buổi tối, cơm chiều không có, đèn nhà hết dầu, trong người buồn bã đau khổ vô cùng, lại thấy chỉ còn cách ra đi lang thang.

Chợ vườn hoa Đưa người còn trông xuống sông Lấp, mà một bên bờ có khu nhà thương và khu đề lao. Cũng từ trong những đám người chầu chực đi ăn đi ở dưới những gốc cây gai góc nọ, tôi thường trông ra đường đón xem những chuyến xe chở vội những xác chết vô thừa nhận và những đám tù giải đi xử án.

Chao ôi! Lại những người tù! Lại những tù bị xích tay từng dây, đi như chạy, cũng lại có cả những người mặt mày hốc hác võ vàng, những người tợn tạo đanh đá, những người ngơ ngác mụ mẫm, và những người mặt đầy sẹo băm sẹo chém, trông có vẻ uống máu người không tanh. Nhưng mặc dù khác nhau một cách rất lạ lùng, tất cả vẫn thấy sao mà xanh xám, tối tăm, như không còn là người đang sống, mà là những hồn ma, bóng quỷ nào đang bị một sức tàn phá khủng khiếp xô cuốn đi, - một sức mạnh của sự cai trị quyền hạn tuyệt đối và cũng nhẫn tâm độc ác tuyệt đối.

Tất cả những buồn thảm trĩu xuống tâm trí tôi ấy mỗi ngày như một đen một đặc lại. Và càng đen đặc lại bao nhiêu lại càng làm tôi càng khao khát cái khoảng trời sáng kia. A! Cái khoảng trời sáng trong những lúc tôi tưởng xác thịt và tâm trí mình đã sập xuống, ngập đi, thì lại thấy nó trong ngần, tươi mát, thắm ngát, vời vợi... Cái khoảng trời chỉ có tinh thần là bay lên được, và chỉ có gội và thở với khoảng trời này thì mới còn tình yêu, sức sống, mới thêm tình yêu, sức sống.

Nghĩa là tôi phải học, phải học. Nếu như sự đói khổ của tôi là một, thì tôi phải học gấp đôi. Cứ thế, chỉ có thế. Không có tiền học thầy dạy thành buổi hẳn hoi cũng như không có tiền học hàm thụ, thì tôi tự học, tìm các cách để có sách báo mà học, mà đọc. Chính vì phải lấy sách báo thay cơm, và đọc sách báo không những chỉ thay sự ăn uống mà còn thay nhiều thứ, thêm cho mình nhiều thứ, nên tôi càng cồn cào da diết khi nghĩ đến cái hòm sách để làm con tin ở ngõ Tây cụt. Ngoài mấy cuốn được vợ chồng lão chủ nhà chiểu tình bớt lại, như là cuốn tự vị đã cũ nát với tập vở làm luận Pháp văn năm xưa mà tôi đã thấy ngây ngô xoàng xĩnh quá chừng, tôi còn giữ lại được tập báo Bạn của tuổi trẻ hiếu học (1)cũng mua từ năm xưa, tôi đã nghiền đến ngấy rồi phần làm văn. Bởi vậy càng thấy không thể mượn được ai, không thể tìm đâu ra thêm sách, tôi lại càng như sắp phát cuồng vì nhớ tiếc và lo lắng cho cái hòm sách báo của tôi.

-----

(1) Amis de la jeunesse studieuse.

Một buổi trưa mẹ tôi về chợ sớm hơn mọi hôm. Vừa lấy ở rổ hàng ra túm gạo, mấy mớ rau và dúm mắm kiếm được thường nhật, mẹ tôi vừa líu ríu bảo tôi.

- Chiều hay tối xuống nhà bác giáo T., bác bảo gì đấy.

Tôi như chưa nghe ra câu nói của mẹ tôi. Mẹ tôi phải nhắc lại lần nữa. Tôi bèn hỏi:

- Xuống làm gì hở mẹ, có việc gì đấy mẹ?

- Việc gì thì việc, bác gọi cứ xuống xem...

Bác T. là anh em cùng cha khác mẹ với mẹ tôi. Bác mở một trường tư. Trường của bác là một trong những trường nhỏ và lâu năm nhất của Hải Phòng. Hễ ai có con cháu nghịch ngợm và đã qua không biết bao nhiêu trường mà càng học chữ càng như nước đổ đầu vịt, thì người ta mách cho trường Saint Antoine. Một ông giáo đã có tuổi, sáng dạy là đọc kinh rồi đi lễ nhà thờ; chiều cũng phải đi "chầu" rồi mới về ăn cơm; ăn cơm xong lại đọc kinh rồi ngủ ngay chập tối. Cả ông bà và ba cô con gái không bao giờ thấy đi chơi ngoài đường, không bao giờ nhòm ngó đến cửa rạp chiếu bóng, rạp hát. Cả ông bà và ba cô con gái cũng không bao giờ thấy ăn một bát chè, một bát vằn thắn, hay cháo thịt ở hiệu cao lâu. Trong nhà, ngoài hai buổi dạy học, gần như không bao giờ thấy ông nói to tiếng. Trong nhà, ngoài hai buổi học, cũng lại gần như không bao giờ có tiếng cười, đặc biệt là tiếng hát, mà chỉ thấy triền miên rền rĩ tiếng cầu kinh và tiếng người lầm thầm ăn năn tội:

- Giê-su-ma! Lạy Chúa tôi! Để cho thầy đọc kinh chứ!

- Giê-su-ma! Lạy Chúa tôi! Để cho thầy nghỉ chứ!

- Giê-su-ma! Thầy đang đấm ngực kêu Giê-su-ma kia kìa!

Hoặc người vợ xuýt xoa gọi bảo các con cái. Hoặc các con cái nhăn nhó xuýt xoa gọi bảo nhau. Tuy khi ấy, trước một bàn thờ bày biện và treo không biết bao nhiêu thứ tượng ảnh, ông chồng mặt mày như thiếp đi vì buồn rầu suy gẫm các tội lỗi của mình. Từ tội tổ tông tuyền đến tội vẫn chưa răn bảo được con cái làm theo đúng như điều Chúa dạy, hay là tội của mình và nhà mình vẫn chưa thật là gương mẫu đạo đức với chung quanh...

Trường Saint Antoine của bác giáo T. tôi ở ngõ Cố đạo. Ngõ gọi tên như thế không phải có những cha Tây cố đạo ở, mà là ngõ của cha cố làm nhà cho người ta thuê ở, cũng như bao nhiêu ngõ khác với những tên như ngõ Xà Ích của một chủ người Ấn Độ, hay ngõ Hàn Điềm, ngõ Tham Thuật, ngõ Thông Vôi, ngõ Ký Bưởi, ngõ Lý Đàn, ngõ Bà cai He, v.v...

Thánh An-tong tên trường là tên ông thánh quan thầy của bác T. Mà bác T. tôi như sinh ra để được đặt với tên ông thánh ấy. Vì người bác cũng cao cao nhàng nhàng, trán cũng hói, đỉnh đầu trụi bóng, và trước ngực không bao giờ rời cỗ tràng hạt...

Buổi chiều hôm đó rồi sáng sau đi đường, tôi không thể nào không thấp thỏm. Bác T. nhắn mẹ tôi gọi gấp tôi có việc gì đây? Cố nhiên là không phải bác tôi sẽ cho tôi tiền hay sẽ nuôi nấng tôi ăn học. Cho dẫu thực có việc thứ hai này, thì tôi cũng không dám nhận. Vì tôi không thể ăn ở, nghĩa là không thể nào sống được cái không khí sớm đọc kinh, trưa đọc kinh, tối đọc kinh, sáng đi lễ, chiều đi chầu, và phải giữ gìn ý tứ khổ hạnh quá đi tu ấy. Hay bác đã xin được chỗ làm việc cho tôi, và chỗ làm việc này đang có nhiều người cầu cạnh chạy chọt, nhưng vì bác tôi có uy tín là một người ngoan đạo nhất tỉnh nên tôi mới được?

Giời ơi! Nếu đúng như thế thì tôi phải gọi cái ngày hôm nay, cái ngày thứ nhất tôi có công ăn việc làm này là ngày gì, là ngày thế nào của đời tôi?!

... Phải! Tôi đã đi làm. Tôi làm cho bác T. Tôi dạy học cho bác T. Nhưng không phải là những học trò từ lớp một đến lớp ba như bác và người con gái lớn của bác dạy, mà là một ông... ông chủ nhà in, người Hoa kiều.

Ông học trò của tôi đeo kính trắng gọng vàng. Người béo lớn, mặt trắng trẻo đầy đặn, trông vừa hiền vừa dễ dàng và cũng vừa xét nét nghiêm trang. Quần áo tây rất sang, sang nhưng không phải là đẹp, là biết diện. Ông nói tiếng ta rất chậm và ngọng. Ông học tiếng Pháp và chữ tiếng Pháp. Nghe hai bác tôi giới thiệu và dặn dò các điều về tính nết ông và việc dạy ông, tôi được biết ông là con một chủ nhà in không to lắm nhưng có tiếng là lâu đời ở Hải Phòng, chuyên nhận các quảng cáo, sổ sách công việc của thành phố. Trước đây ông đã học bác tôi. Nghỉ học từ lâu rồi lần lần thay cha quán xuyến các công việc, giờ ông muốn giao thiệp rộng và ăn nói trực tiếp với các khách hàng người Pháp, nên ông lại đến nhờ bác tôi. Bác tôi phần vì yếu mệt không thể dạy thêm một lớp buổi trưa và lớp ấy chỉ có một người, phần vì thương tôi đang thất nghiệp nên cho tôi dạy thay.

Tôi đã dạy ông học trò Hoa kiều chủ nhà in ấy! Tôi dạy ông viết ám tả chữ Pháp, làm luận Pháp văn, đọc và nói tiếng Pháp. Tất cả cái vốn sơ học về tiếng Tây của tôi và tất cả những gì là tinh túy giỏi giang của tôi, tôi đã phải dốc vào các bài soạn lấy, từ ám tả, luận, tập đọc và vấn đáp cho hợp với ông học trò trang trọng, quý hiếm lạ lùng của tôi này.

Dạy buổi trưa, nhưng bao giờ tôi cũng soạn bài từ chiều hôm trước. Có những bữa mẹ tôi không kiếm được gạo mà ông bố dượng và tôi ở nhà cũng không vay được gạo, tôi lại nhịn đói ra đi. Để đẹp mặt cả cho mình, bác T. đã cho tôi đôi giày "giôn" cũ của bác. Quần áo vẫn là cái bộ tôi thường mặc để đi tìm việc, nay phải giặt thật sạch gấp lót xuống đầu giường để lấy nếp và chỉ mặc khi đi đây đi đó. Tay cắp đệp sách vở lềnh kềnh, đầu chải mướt nước lã, quần áo có vẻ là hẳn hoi, giày "giôn" đánh bóng,... tôi đi trên đường phố thấy lắm lúc như đi trên mây và đi giữa những hào quang.

Mấy hôm đầu tôi trằn trọc gần suốt đêm. Bao nhiêu viễn tưởng rực rỡ cứ nối tiếp nhau mở ra trong tâm trí tôi. Thế là từ tháng này tôi sẽ có lương có tiền. Số lương này, món tiền này chưa biết là bao nhiêu. Ô! Sao không thể được sáu đồng hay năm đồng. Một mình học nguyên một lớp cơ mà... Và là một lớp cả buổi trưa... mà là học toàn là tiếng Tây... mà là ông chủ một nhà in... Ừ thế nào cũng được năm đồng! Ví như tôi có tiền và được học kiểu này, tôi sẽ nhất định trả người dạy mình còn hơn thế. Không thì mèng ra cũng được bốn hay ba đồng. Chao ôi, bốn hay ba đồng cũng ghê gớm đấy! Tôi sẽ đưa cho mẹ tôi hai đồng để thêm vào làm vốn chạy gạo, còn một đồng tôi sẽ trả tiền học hàm thụ. Trả các thứ cước phí, còn thừa mấy hào sẽ mua một cuốn sách mới gì đó. Một tháng, rồi hai tháng, đến tháng thứ ba, tôi sẽ xin lại mẹ tôi một đồng để may một cái quần chúc bâu, và tháng thứ tư thì phải mua một cái mũ "li-e-dơ" kẻo cứ đi đầu trần dù là đầu được chải chuốt trông vẫn không được! Bốn tháng rồi năm sáu tháng... Nếu thật tôi dạy giỏi, nếu thật học trò tiến bộ, thì tôi sẽ nói với bác tôi ướm lời hỏi ông ta xem nhà in ông có lấy thêm người làm không. Nghĩa là tôi sẽ xin làm công cho nhà in và vẫn dạy ông ta.

Cố nhiên là tôi dạy mà không dám lấy tiền học!

- Lại tính toán bần tiện kiểu ăn mày ăn nhặt rồi! Có chết đắm thì đắm sông đắm biển, chứ đừng đắm đĩa đèn!

Phải! Tôi đã rất giận dữ mắng thầm ngay vào mặt mình như thế khi tôi vừa có ý trên kia. Và tôi lấy hết trí nhớ và tinh thần mà diễn lại những dáng dấp, điệu bộ của những thầy giáo đã dạy tôi những năm tôi học lớp nhì, lớp nhất, và của cả những thầy giáo có tiếng giỏi văn ở trường thành chung dạy các bạn thân tôi ngày trước mà giảng dạy cũng như chuyện trò với ông học trò nọ.

Đúng một tháng. Đúng ngày 30 hết tháng. Và đúng mười hai giờ trưa, tôi ôm sách vở đến trường Saint Antoine của bác tôi, trong lòng như có hoa nở, chim hót và cánh bay. Tôi mở cửa bước lên gác, ngồi ở tràng kỷ chờ ông học trò như thường lệ. Lạ quá, tôi chợt thấy có một cái gì khang khác. Kim đồng hồ nhích thêm đến gạch phút thứ mười lăm rồi mà ông học trò trang trọng, ít nói, rất đúng mực của tôi vẫn chưa thấy đến. Tôi hơi bồn chồn, rồi từ bồn chồn tôi thấy lành lạnh. Buổi đó giữa trưa nắng mà! Và thật là tôi lạnh toát cả người khi bác gái tôi từ sau tấm màn gió che đi ra, cười cười như một cô đồng định "choàn" "phán" hay ban phát một cái gì đây.

- Hồng! Xuống nhà dưới bác bảo. Khẽ khẽ chứ, bác giai hôm qua lại mất ngủ, trưa nay lại chỉ ăn được nửa lưng cơm!

Tôi bước theo, chỉ chực ngã vập xuống thang gác.

- Hồng! Ông chủ ấy hôm qua đã xin bác cho phép ông ta nghỉ một ít lâu.

Rõ ràng tôi thấy tim tôi bị giật thót, tôi cúi đầu, cổ họng nghẹn nghẹn.

- Hôm nay 30 nhỉ, ông ấy học anh từ hôm mùng 4 nhỉ. Đây... - Bác gái tôi móc túi đưa tờ giấy bạc một đồng như vừa xuất ở két nhà băng ra, cười nói bẻo lẻo hơn... - Bác đưa anh cả một đồng! Thôi bác cũng chả tính toán chi li làm gì, ông ấy trả tháng học hai đồng, bác chỉ lấy tiền bàn ghế một đồng, còn cho anh cả một đồng!...

Bác gái tôi đặt vào tận lòng bàn tay tôi tờ giấy bạc mới. Vẫn vừa cười vừa nói, bác lắc lắc cái đầu vấn khăn xa tanh đen, lóng lánh đôi hoa tai vàng nặng xễ:

- À... còn đôi giày, tôi bảo bác cho anh đấy! Anh đi phải giữ gìn. Đôi giày đóng năm kia ở hiệu Đại Thành hơn ba đồng, bác chỉ xỏ chân đâu có mấy lần ngày tết...

Tôi ra đi, lại ôm tập sách vở trước ngực. Tôi không biết tính toán suy nghĩ gì nữa (cả cái dự định đi ăn một bát phở tái xách trần ở hiệu Hợp Lợi và uống một cút rượu ngọt hổ cốt ba xu mà tôi nhất quyết sẽ phải thực hiện, cũng bị nhào lấp đi!) Tôi lại đến cái vườn hoa Đưa người. Nhưng tôi không ngồi ở một gốc cây đông người như mọi khi. Tôi ngồi ở cái ghế gỗ đã mất gần hết những thành để tựa, gục mặt xuống đệp sách vở kẹp tờ giấy bạc kiếm được lần đầu tiên trong đời tôi, - tờ giấy bạc trả lương một tháng đi làm của tôi, mà nước mắt ròng ròng...

⚝ ❖ ⚝

Tôi về nhà. Tôi tươi cười đưa đồng bạc ấy cho mẹ tôi, bảo mẹ tôi đi chuộc ngay hòm sách. Mẹ tôi đã căn vặn hỏi tôi nhiều điều, nào tiền dạy học được bao nhiêu, nào là dám nói hẳn với ông chủ ấy xin việc ở nhà in chưa, vân vân, nhưng tôi chỉ ầm ừ và cười bảo mẹ tôi hãy cứ đi chuộc hòm sách về cho tôi đã. Mẹ tôi tức tốc mặc áo dài, đội nón đi ngay. Khi về mẹ tôi không thuê xe, mà đội, đi bộ. Phần vì mẹ tôi tiếc tiền, năm xu xe cơ mà, phần vì mẹ tôi không còn một xu nào trong người. Hôm nay tất cả vốn liếng của mẹ tôi đã vét nốt để đong gạo, mua rau, mắm ăn bữa chiều. Món tiền dạy học của tôi mà mẹ tôi chờ đợi tính đón từng ngày, không những sẽ làm vốn lần hồi chạy gạo cho cả nhà mà còn là tiền để trả tháng thuê nhà nữa...

Tôi không ở nhà chiều hôm ấy, chờ mẹ tôi đi chuộc đồ về, tôi lại đi lang thang như mọi khi cho đến khuya, và lại rã rời không thể tưởng tượng được. Mặc dầu tôi như mê và chỉ muốn nằm rũ xuống một chỗ nào đấy, nhưng lúc trở về nhà thấy đèn sáng ngụt, hòm sách để giữa bàn và mẹ tôi đang nằm nhỏm dậy cuống quít gọi tôi, thì tôi lại tỉnh hẳn người. Tôi chạy rú vào vồ lấy hòm sách, mở ra, đếm đếm lục tung tóe vừa thét lên...