← Quay lại trang sách

II. NHÀ THƠ Ở NGÕ NGHÈ

II. NHÀ THƠ Ở NGÕ NGHÈ

Phải coi đây là bàn thờ của tôi hay còn quý hơn thế nữa. Cũng ngay sáng hôm sau, tôi kê dọn lại cái bàn bên cửa sổ. Tôi bày tất cả tập báo hàng tuần gồm hơn trăm số và mười mấy cuốn thơ văn chữ Pháp lên bàn với cả cuốn vở luận Pháp văn và cuốn tự vị kỷ niệm cũ kỹ nhất của đời đi học của tôi. Tiếc thay gáy của những cuốn thơ văn chữ Pháp mỏng quá nên tôi không thể bày đứng được. Tôi đã xếp đi sắp lại mãi mới đi đến quyết định bày nằm một số cuốn và để cuốn của Jean Jacques Rousseau trên cùng. Còn cuốn thơ của Victor Hugo và Alfred Vigny thì bày về một phía song song nằm bên nhau. Tập báo ở góc trong. Cuốn tự vị ở gần giữa bàn liền với một cuốn đang xem.

Tôi đã loay hoay mãi để có một lọ hoa, nhưng trong nhà, trừ hai vỏ chai bia, một đựng nước mắm, một đựng dầu tây, còn không có thứ gì là lọ là bình cả! Chả nhẽ lại lấy bát. Ừ, nếu được là bát Đông Thanh hay Nội Phủ, hay Giang Tây thì tôi cũng bằng lòng rồi, nhưng nhà tôi đâu có những thứ đó. Ngay cả lọ mực phải bỏ ra một trinh mua ở hàng chè chai, cũng phải tính toán mãi!

Tôi đọc chưa xong cuốn này đã đến cuốn khác, chưa hết bài này đã sang bài khác. Đọc cả buổi trưa. Càng về khuya, trước ngọn đèn che một nửa về phía giường mẹ tôi nằm, một tay tỳ trán lên, tôi càng lặng người đi mà đọc. Tuy vậy, nhiều lúc tôi phải ngâm khẽ lên thành tiếng để chia sẻ cho trời sao, cho tĩnh mịch, cho cả vũ trụ mênh mông sự dào dạt của mình. Và cũng để kiêu hãnh nói thêm với không gian, thời gian, với sự sống rằng: Có tôi đang học đây! Có một người dù cùng cực vẫn đang đọc sách một cách sung sướng không gì bằng và không ai bằng đây.

Càng đọc, tôi càng dằn lên một sự kích thích cũng càng ngày càng dữ dội: Viết. Phải! Nếu như tôi phải ăn để sống, thì tôi sống phải học, phải đọc, đồng thời còn phải viết nữa. Nhưng viết gì đây, truyện ngắn, truyện dài hay nghị luận, hay làm thơ? Cái gì cũng thấy là đẹp với mình, là có thể hay được. Nghị luận sẽ đăng báo, thơ cũng sẽ đăng báo. Truyện ngắn, truyện dài cũng đăng báo. Và cả in sách nữa. Nhưng đăng báo hay in sách, đó là việc thứ yếu, gần như không cần lắm! Cần thiết đối với tôi là tôi phải viết, viết ra thành chữ tất cả những gì chứa đựng, nung nấu, quằn quại, đau xót, và bay bổng và bát ngát của tâm hồn, của suy nghĩ. Viết để mình đọc trước nhất! Viết cho mình đọc trước nhất!

Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về những con người lầm than bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ gánh nhận lấy mọi trách nhiệm, chống đối cũng như bào chữa bảo vệ. Tôi sẽ chỉ có tiến bước, chỉ có đi thẳng. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng. Và chính tôi là ánh sáng... Chao ôi, thế thì còn gì làm tôi đáng sống hơn nữa? Thế thì còn có hạnh phúc và sự giàu có nào đánh đổi hay so sánh được?

Thế là không những tôi chỉ đọc sách khuya mà còn đi lang thang suốt canh khuya. Tôi vừa đi vừa thì thầm tự nhủ, nhiều lúc vung hẳn tay lên như một nhà hùng biện trước một diễn đàn có tranh luận với hàng nghìn người nghe đứng về phía mình và cũng hàng nghìn người đứng về phía đối lập. Và tôi dang rộng không những chỉ có đôi cánh tay mà còn căng hết ngực lên như để đón để che lấy lẽ phải và sự thật của mình.

Thấy tôi đã không chịu đi đâu hỏi han công việc, cứ hết đọc lại viết, đọc và viết không hiểu những cái gì, bữa ăn có thì ăn, bảo thì ăn, người cứ thờ thẫn lừ đừ và gày rạc đi... Mẹ tôi lại càng rầu rĩ. Và bà cũng cằn nhằn ông dượng vì cả ông này cũng chỉ nằm khàn ở nhà hết ngủ lại hút thuốc lào, trong khi mẹ tôi với cái thúng, cái mẹt chạy từng bữa gạo, phải chầu chực biết bao nhiêu người quen thuộc và bao nhiêu "cửa" rồi. Mẹ tôi động nhắc nhở ông, ông lại bảo họ hàng ông tiếng như tiếng cồng, bè bạn ông toàn những ông nọ bà kia, ông lại biết nghề làm thuốc và có nhiều môn gia truyền rất thần hiệu, nên ông chưa thể hay không thể hấp tấp và hạ mình cầu cạnh nhận cái sự giúp đỡ tiền nong lặt vặt được!

- Rồi đâu sẽ vào đấy!

Ông thở phào khói thuốc, vừa ho vừa khạc, vừa gắt lại. Rồi ông cũng đi. Cái quần giặt hồ lơ còn gấp nếp cẩn thận hơn quần tôi, cái áo lương treo trên đầu giường lấy xuống xỏ tay như chỉ sợ rách sợ sờn, cái ô đen chải đi chải lại, cái khăn cũng thế, lẹp xẹp đôi giày hạ, ông gật gù cái đầu, khệnh khoạng cái ô ra ngõ, như người đi ăn cỗ hay có chỗ mời mọc đón hẹn nào rất sang trọng... Rồi lúc ông về, vẻ mặt càng trịnh trọng hơn, chẳng nói chẳng rằng gì với chúng tôi, lại hút thuốc lào, lại nằm khàn, lại như không cần biết gì đến công việc nhà cả. Những công việc rồi đâu sẽ vào đấy. Phải, mẹ tôi không thể nào lại không tin tưởng hy vọng một người có những họ hàng tiếng như tiếng cồng, bè bạn toàn ông nọ bà kia như ông đã nói mà lại để mẹ tôi phải thiếu thốn, vất vả mãi!

Cũng lại một buổi quá trưa, mẹ tôi đi bán hàng về - có lẽ là mẻ bánh và buổi bánh cuối cùng vì nhà chủ nhất định không cho mẹ tôi mượn cái xoong nhôm để nấu bánh nữa, mặc dầu ông dượng hết sức lý giải và trình bày các cách để họ tin rằng ông sẽ không làm hỏng làm cháy đồ của họ, mẹ tôi lại lặng lẽ xếp ra chõng nào gạo, nào mắm, nào rau, vừa gọi tôi bảo:

- Anh Lễ anh ấy nhắn mai lên anh ấy hỏi việc gì đấy.

Tôi buông vội sách quay lại:

- Anh Thế Lữ chứ! Anh Thế Lữ nhắn con?

- Phải, phải anh Thế Lữ... anh Lễ... anh Lễ.

- Anh ấy hỏi gì con? Mẹ nói những chuyện gì với anh ấy?

- Tôi chả nói gì với anh ấy. Anh ấy chỉ hỏi: "Cậu ấy dạo này làm gì", tôi chỉ bảo rằng: "Nó chỉ ở nhà đọc sách, đọc sách và viết cả ngày".

- Thế anh ấy nhắn con lên nhà làm gì?

- Nào tôi biết được!

Như sợ tôi không nghe lời mình, mẹ tôi càng nói giọng như than van:

- Thì anh ấy đã nhắn... anh ấy ở Hà Nội chỉ về qua nhà hai hôm rồi lên tòa báo...

Tuy lại quay vào đọc và tự nhủ rằng đây sẽ chỉ là một việc gặp gỡ bình thường thôi, nhưng tôi vẫn không thể tập trung trí nghĩ với những trang sách đọc nữa.

Năm trước tôi đã gặp Thế Lữ. Mẹ tôi đưa tôi đến nhà anh và tôi đã bắt mẹ tôi phải đi cùng như đứa bé lần đầu đến ông thầy học hay như khi chịu lễ lần đầu đến nhà thờ vậy. Cũng may, được mẹ tôi cho biết là có họ với anh, bà mẹ anh mà mẹ tôi gọi bằng chị rất thương mẹ tôi, nên tôi mới có thêm can đảm để quyết định không bỏ lỡ dịp quý báu và hân hạnh vô cùng này.

Hình ảnh thi nhân tác giả những Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai và Nhớ rừng, là một trong những hình ảnh lồng bằng hào quang và chiếu gợi vô cùng đối với tôi. Còn hơn cả những thiên thần, những thần tiên, những đấng chúa và thượng đế đã thành kinh thành chuyện mà tôi phải cầu nguyện và đọc đi đọc lại! Mỗi lần ngâm lên chỉ vài ba câu của những bài thơ kỳ diệu nọ, tôi cũng đủ thấy rưng rưng cả người, tâm hồn như chắp cánh và tư tưởng rung chuyển biến hóa dị thường. Cái tên Thế Lữ ấy lại còn làm tôi thấy mình gần gũi với văn thơ hơn cả tên những thi nhân, những văn hào thế giới có các bài các đoạn trích diễn trong các cuốn tập đọc chữ Pháp bắt buộc tôi phải học ở nhà trường. Cái tên Thế Lữ ấy cũng lại còn cụ thể hóa thêm nhiều cảm nghĩ và sự so sánh của tôi về giá trị và sự nghiệp văn thơ của những tên tuổi được nêu lên lẫy lừng thời bấy giờ.

Chao ôi, nếu tôi chỉ được một vẩy nhỏ trong cái áo choàng hào quang của một người như Thế Lữ, nghĩa là nếu tôi làm được không cần cả một bài thơ hay một tập thơ, mà chỉ mấy câu thơ thôi, được ghi nhớ, truyền tụng như của Thế Lữ. Hay nói một cách khác, làm sao tôi chỉ được trời phú cho một cái vẩy bằng móng tay của tài năng và nghệ thuật như anh.

Vào khoảng cuối mùa hè 1934, tôi thôi học. Mẹ tôi đưa tôi ra Hải Phòng, ra Hòn Gai vừa để chào mấy người họ nội ngoại, vừa để thăm thú tình hình công ăn việc làm cho tôi. Hoa xoan tây vẫn đỏ ối. Đặc biệt đường phố Hải Phòng lại nhiều cây này hơn, và hình như hoa cũng dày hơn, rực hơn.

Ngõ Nghè của Thế Lữ cũng nhiều xoan tây. Trước nhà Thế Lữ là một gốc cây hoa bồng bồng như chồng, như đắp. Tôi không gặp Thế Lữ. Tôi chỉ được chào bà mẹ anh, chào vợ anh và được bà mẹ anh, vợ anh cho nghe mấy chuyện mấy điều về "cái thằng Lễ nhà tao", về "anh Thế Lữ anh ấy..." mà khi viết thư cho một người bạn học ở Nam Định, tôi cũng đã được coi như một nhà du lịch có diễm phúc vừa đi chiêm ngưỡng Kim Tự Tháp về và được đặc biệt biết nhiều cái kỳ lạ của nó trong khi chưa một ai được biết cả!

Thế Lữ cũng mồ côi cha từ sớm. Thế Lữ không những chỉ học chữ rất giỏi. Trong tủ sách ngồn ngộn của Thế Lữ vẫn còn một bức tranh thuốc nước, Thế Lữ họa khi ở trường Mỹ thuật. Nhưng Thế Lữ dù tài đến như thế, được vào cả trường Mỹ thuật rồi mà cũng vẫn bỏ... để làm thơ, làm báo. Thế Lữ đã sống ở Lạng Sơn với bà mẹ. Vàng và máu và Nhớ rừng đã từ những núi rừng bí hiểm xứ Lạng kia viết ra... Mười lăm mười sáu tuổi Thế Lữ đã làm thơ, đã làm sách... Thế Lữ đã... Thế Lữ đã...

Càng nghe chuyện, càng cố ghi nhớ ra và suy tưởng, tôi càng như người lên đồng uống rượu hỏa thang và rửa mặt cũng bằng rượu hỏa thang, rồi ăn những hoa trái những mứt mật đặc biệt. Tôi ngạc nhiên hơn cả là... Thế Lữ cũng có vợ. Vợ Thế Lữ không những chỉ gọi chồng là anh Thế Lữ mà còn dùng cả hai chữ "anh ấy"... Thế Lữ cũng có con. Những hai con. Vợ lại đang to bụng. Bà Thế Lữ cũng vấn khăn xa tanh, tóc đuôi gà, áo cánh, quần nái, và cũng ở dưới bếp vừa thở vừa quạt càng ràng đi lên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Và bà Thế Lữ không những đang to bụng mà cũng mặt mày vêu vao, xanh xao và có cả mụn. Còn hai con Thế Lữ thì lại sao mà nhiều mụn thế?! Có những cái ở đầu mọng như quả nhót. Ở cằm, ở trán chơm chởm như đít ốc như đầu đanh. Cả cô và cậu hai con bé của thi nhân cũng gày vêu, dán cao đầy mặt đầy cổ đầy đầu, lại còn bôi phẩm xanh nữa.

Bà mẹ Thế Lữ và vợ Thế Lữ tiếp chuyện mẹ con tôi ở trong nhà trong. Không! Đó là một khoảng kê vừa đủ hai cái giường khuất sau một cái tủ áo to và tấm mành mành. Nửa ngoài cũng là giường, nhưng là những cánh phản to chỗ hai người thợ trẻ tuổi đang ngồi khâu. Liền đấy có một cái máy cũng một người thợ trẻ đang đạp máy và một ông đã có tuổi đang đo áo cho khách ở ngay lối ra vào. Tôi quên mất vừa phần cũng không chú ý đến tên hiệu. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ hiệu cũng có một tấm biển vẽ màu hai cô tân thời mặc kiểu "lơ muya" rất bay bướm bày ở trước cửa, đúng như cách quảng cáo của tất cả các hiệu may thời đó.

Bà mẹ Thế Lữ nằm ở võng mắc trên sập, tóc bạc phơ, da đồi mồi, mắt rất sáng, người bé nhỏ xương xương. Bà mặc áo lụa nhuộm màu cánh kiến không cài cúc, yếm lụa màu cũng thẵm, trước ngực đeo một cỗ tràng hạt nạm bạc, có một chùm ảnh Đức bà và Thánh giá chúa vừa bằng bạc vừa bằng đồng. Võng của bà mắc ở ngay trước một tủ kính chật ních những lọ đủ các thứ thuốc viên, thuốc bột mà mẹ tôi thường ca tụng đây toàn là những môn thuốc cũng gia truyền của từ đời cụ kỵ bên ngoại tôi mà bà lang Th. đặc ân được truyền lại cho. Chuyện với chúng tôi, tiếng bà hơi khản, nhưng giọng nói và cách nói cứ nhẹ không mà vẫn như truyền lệnh như phán bảo, như ban phát.... Đôi mắt nhìn thì vừa sâu vừa sắc, đôi mắt của một bà mẹ từng trải, thâm trầm...

Bà gọi mẹ tôi là "mẹ nó" và gọi tôi là anh, vừa thân mật mà vẫn giữ sự tôn ti họ mạc...

Thư về Nam Định cho người bạn thân, tôi không viết gì đến vợ và các con và chỗ ở của Thế Lữ. Không phải vì tôi thấy đây không là tháp ngà mà coi thường. Cũng như không phải vì không thấy đây là một "nàng" xinh tươi, yểu điệu, tha thướt, đang cắm hoa, đang thu dọn bàn viết hay đang dạo dương cầm. Hay nếu như là con thi nhân thì phải như là những thỏ bông, những chuột bạch, những búp bê trong các bưu ảnh, các tủ bày đồ chơi, các gian hàng hội chợ nhân dịp lễ Nôen hay tết Tây... Là vì tôi vẫn không thể không man mác, bâng khuâng:

Hàng tùng rủ rỉ bên cồn đìu hiu

Mây chiều ngừng lại sau đèo

Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi...

Trời cao xanh ngắt, ô kìa

Hai con hạc trắng bay về Bồng lai.

Cạnh những câu thơ trên đây, lại liền có những:

Tiếng hát trong như nước Ngọc tuyền

Êm như hơi gió thoảng cung tiên

Cao như thông vút buồn như liễu

Nước lặng mây ngừng ta đứng yên.

Của một con người:

Với cây đàn ngàn phím tôi ca

Cái đẹp u trầm đằm thắm hay ngây thơ

Cũng như cái đẹp cao siêu hùng tráng

Của non nước thi văn tư tưởng.

Nghĩa là thi nhân Thế Lữ vẫn là một hình ảnh tuyệt vời của tâm trí và sự suy tưởng của tôi. Bởi thế, sự kỳ ngạc, khao khát và kính phục chỉ càng tăng thêm khi tôi kể cho bạn tôi biết về thời thơ ấu rừng núi của Thế Lữ, về Thế Lữ họa sĩ, Thế Lữ mười sáu mười bảy tuổi đã làm thơ làm sách. Nhất là Thế Lữ cũng mồ côi cha, nhà cũng nghèo và bà mẹ đúng là kiểu mẫu của những người đã sinh ra những bậc thiên tài...

Tôi lại phải mặc bộ quần áo chững chạc độc nhất của tôi đã phải vá thêm cả ở vai ở đầu gối và mạng nhiều chỗ nữa. Tôi đã toan không đi đôi giày giôn của bác giáo T. cho tôi. Nhưng vừa phần không muốn mượn đôi giày hạ của bố dượng tôi vừa phần đôi guốc tôi đã mòn cả gót, nên tôi lại đành phải ních chân vào đôi giày hành hạ ấy, vì chân bác tôi vừa nhỏ vừa dài, chân tôi thì to bè trùng trục. Năm xưa, tôi cũng đã khổ một dạo vì đi giày tây rồi. Số là thường thường đến buổi chiều lớp học cuối năm, học trò đua nhau làm văn chúc mừng thầy giáo và đốt pháo: "Năm cũ sắp qua... sắp sang năm mới... chim én phương Nam đang về, hoa đào đang nở cười chờ đón gió xuân... Chúng con...". Tôi được lớp cử làm... com-pờ­-li-măng... Đáng lẽ tôi giữ chân đốt pháo. Vừa là loại ngổ ngáo nhất, vừa là học trò giỏi trong lớp. Các bạn đã bàn nhau giao tôi việc mạo hiểm này. Mạo hiểm vì có lệnh của đốc học cấm ngặt đốt pháo, vì lớp tôi là lớp nhất, lớp nổi tiếng các thứ đầu têu. Đốt pháo, nhà trường không những sẽ bị sở cẩm phạt mà thầy giáo còn bị khiển trách nữa. Để đánh lạc hướng chú ý của thầy giáo và cũng là một việc làm phải có can đảm và tinh nhanh lắm, tôi sẽ chờ tới khi còn đúng một giờ là tan học, thì lên thẳng trước bàn thầy mà đọc văn.

Tôi mê đá bóng, giày dép nào nhà mua cho cũng mất vì làm cột gôn, vì quên, vì ném nhau. Cận ngày quá, buổi chiều long trọng và danh dự của tôi đến nơi rồi! Tôi phải mượn đôi giày... đơ cu lơ... tức là giày giôn vá trắng - của một người anh họ. Anh tôi chân vừa nhỏ vừa ngắn, thành thử tôi đã nong giày như nong cối. Đi từ nhà đến trường tôi đã tưởng không sưng thì cũng trẹo chân đến mấy ngày. Cuối cùng tôi phải cởi giày ra, chờ đến giờ sắp vào lớp mới xỏ giày...

Buổi hôm ấy đã thắng lợi rực rỡ. Đúng khi tôi vừa dứt xong cái đoạn: "Năm cũ sắp qua, sắp sang năm mới v.v"... thì một thằng bạn đã lẻn lẻn ra cửa đốt pháo. Tràng pháo châm ngòi đầu tiên và cũng là tràng pháo dài nhất, toàn hồng nhất, lại còn điểm những pháo lệnh rất ác...

Ra về, anh em đã xúm xít chung quanh tôi, đến tận nhà. Chả nhẽ tôi lại đi chân đất. Cùng đường với chúng tôi lại có học trò con gái. Tất cả những cô học trò lớn vào tuổi chị cả tôi hình như đều chú ý đến tôi và biết tôi là tay vừa làm vừa lên đọc văn chiều nay. Thế là cùng đường, tôi đành cắn răng lại mà cười đùa trò chuyện và cố đi cho khỏi khập khiễng. Chỗ phạm vì đôi giày kìm kẹp ấy vào cả mắt cá và gót chân. Tôi suýt bị què.

... Lần này đi giày không khập khiễng, nhưng bước chân tôi cứ thấy nằng nặng thế nào ấy. Không phải tôi có phần nào giảm bớt sự ngưỡng mộ Thế Lữ. Cũng không phải vì tôi nghĩ mình nghèo hèn, e ngại có sự hiểu lầm mình chăng. Không! Trăm phần trăm, Thế Lữ vẫn nguyên vẹn là một hình ảnh tuyệt vời trong lòng tôi. Tôi e ngại, chính vì tôi đang viết văn, thấy mình cũng viết văn! Phải! Tôi cũng là người viết văn.

Tôi cũng là một người viết văn, vì thế cho nên mẹ tôi có bộc tuệch bộc toạc rất thương tôi, và cảnh nhà có túng thiếu đói khổ đến đâu chăng nữa, thì mẹ tôi cũng chỉ nên than thở với Thế Lữ và nhờ cậy anh xin công ăn việc làm cho tôi, chứ đừng khoe tôi đang tập viết mà rầu rĩ than vãn... "Anh thương em nó, dìu dắt em nó"... hay "Anh xem xem bài vở em nó có thế nào, thì anh, v.v..." Trời! Tôi có đói mà không có việc làm thì thà chịu chết đói! Tôi viết tồi, viết dở, viết kém thì bẻ ngòi bút đi, xé bản thảo đi. Chứ trong công việc viết văn, trong đời văn chương không thể có cái ngoại lệ nhận ân huệ. Không thể có gia nô gia bộc. Không thể có ông anh bà chị lo lót cho. Không thể có cầu cạnh luồn lọt. Không thể lấy bản thảo làm cái bát hay cái gáo của ăn mày!

Thế Lữ ơi! Thế Lữ thi nhân mà tôi khao khát gặp mặt ơi! Thằng bé học trò tên là Nguyễn Nguyên Hồng thuộc thơ anh, say thơ anh hơn cả thuộc và say kinh ngày xưa bà và mẹ nó dạy nó ấy, đang đi đến tìm anh đây! Trước anh, nó sẽ không chút ngượng ngập đón lấy anh và nhìn thẳng vào mặt anh mà tự giới thiệu: Tôi cũng viết văn! Tôi cũng là một người viết văn! Tôi viết văn và là người viết văn trong đám những người nghèo đói, đau khổ, lầm than! Tôi sẽ nói chuyện với anh thuần về văn chương, thuần về những cái gì là tư tưởng, là tâm hồn, là cao quý của những con người đang thương yêu và quý trọng nó vô cùng.

Vâng, tôi đã gần đến nhà anh! Thôi đây, tôi đã bước vào nhà anh! A a a... Thế Lữ ơi! Anh đây à... Anh đây à?...

Đúng tôi đã chào và bắt tay Thế Lữ. Thế Lữ có lẽ sắp sửa đi đâu nên quần áo có vẻ chải chuốt vừa mới mặc. Áo sơ mi lụa vẫn y nguyên nếp là, cà vạt bóng nuốt. Bộ tờ-rô-pi-can màu nhạt tuy hơi cũ nhưng rất trang nhã, rất hợp với khổ người xương xương của anh. Anh nắm tay tôi hơi lâu, buông ra rồi mà vẫn còn nhìn tôi trìu mến, chăm chú, và cũng có cả xét nét. Đôi mắt anh nâu trong, nhoi nhói, anh ánh hơi nheo lại dưới cái trán đã có nếp nhăn và mái tóc không chải, để bồng lên, điểm đôi sợi bạc.

- Cậu là cậu Hồng con bà Vui (tên tục cha tôi)?

- Vâng ạ!

- Cậu vừa đỗ xong, và phải thôi học?

- Vâng ạ!

- Cậu cũng viết... cậu đang tập viết?

Tới đây, Thế Lữ cười hẳn thành tiếng ồ ồ à à một cách rất thích thú, nghe vừa có cả sự chân thật và khách tình.

- Phải đấy! Cố mà viết! Phải chịu khó mà viết. - Anh nói tiếp bằng tiếng Pháp và như không chỉ để nói với tôi mà với cả những ai ấy ở trước mặt, hay như với những khán giả trước sân khấu vậy.

- Viết là sự sống, viết là để thấy mình làm ra sự sống, viết là để thấy mình là một người có lý tưởng cao quý, đáng sống, tự hào vô cùng! À này, cậu đang viết gì?

Mồ hôi tôi như vã ra. Đầu tôi cúi cúi. Tôi nghẹn ngào:

- Thưa thưa... tôi đang viết... nhưng tôi thôi... tôi sẽ không viết nữa...

Thế Lữ thô lố hẳn mắt:

- Sao lại thế? Ồ ồ ồ!...

- Thưa... thưa... tôi thôi... tôi sẽ không viết nữa, vì tôi thấy tôi viết xoàng quá... nhạt quá... tôi không bằng lòng một chút nào...

Thế Lữ liền ngả hẳn đầu ra mà cười, hai tay giơ ra đập đập không khí. Anh vẫn nói bằng tiếng Pháp:

- Thật là đúng! Thật là đúng!

Anh trở lại nói tiếng ta, giọng đạo mạo nhưng rất say sưa và cũng rất chau chuốt, nhẹ nhàng, trầm bổng:

- Phải như thế cậu ạ! Khi thấy mình viết xoàng, viết nhạt, khi thấy chính mình cũng không bằng lòng mình, thì không nên viết. Chỉ nên viết khi thấy cần viết, phải viết, nghĩa là không viết không được... Viết phải là một sự cần thiết, một sự tất yếu!...

Chao ôi, tôi có nên khóc không? Nghĩa là tôi có nên để nước mắt giàn ra, và ôm lấy Thế Lữ mà khóc không? Từng lời nói của Thế Lữ như từng giọt mật và là giọt mật lạnh buốt rỏ xuống tâm trí tôi, rỏ vào tim tôi. Từng lời ấy, tôi chưa thấy nói ở đâu và đây là lần đầu tiên nghe nói. Nhưng sao như tôi đã đọc nó ở những trang sách, những dòng chữ nào đó rồi, và đã nghe nó hơn một lần, thì thầm cũng có, cất vang lên cũng có, trong đêm khuya hay một khắc giờ man mác rưng rưng không thể cụ thể hóa được ở vào lúc nào kia! Sau phút lâu lặng lẽ, Thế Lữ không nhìn tôi mà lại trầm ngâm nhìn ra khoảng không, giọng thấp hẳn xuống, run rẩy, thờ thẫn:

- Viết phải là một sự cần thiết, một sự tất yếu. Mà càng viết thì càng thấy khó khăn, càng không bằng lòng mình. Nhưng chính vì thế mà càng phải chịu khó, càng phải can đảm thêm, càng phải tin tưởng ở mình... càng phải viết... càng phải viết. Vì viết là sự sống.

Thế Lữ lại hỏi tôi đã viết những gì, viết về cái gì? Tôi ngập ngừng kể một số chuyện, một số việc tôi đã sống, đã chứng kiến và nói những dự định, những hoài bão của mình. Hình như chúng tôi chuyện đã lâu. Bà mẹ anh, và có lẽ cả vợ anh nữa, đã làm tôi thấy điều đó. Tôi bèn xin phép anh ra về.

- À! Cậu muốn mượn sách đọc? Cậu định đọc sách gì?

Tôi không chút ngẫm nghĩ:

- Anh cho mượn sách gì cũng quý. Nhưng xin anh cho tôi mượn những sách của những nhà văn... xã hội.

Thế Lữ cũng không chút ngẫm nghĩ. Anh quay lại mở ngay tủ sách, lục lục, tìm tìm. Anh đưa cho tôi hai cuốn dày cộp, bìa da, gáy rộng có gờ, chữ vàng. Đó là cuốn David Copperfield của Charles Dickens và một cuốn của Henri Barbusse, tôi không nhớ là cuốn Le Feu (2)hay cuốn Voyages à Moscou (3). Cuốn sau thì phải.

-----

(2) Khói lửa.

(3) Hành trình ở Mạc Tư Khoa.

Tôi chào cả nhà. Trước khi đưa tôi ra tận cửa, Thế Lữ đặt thẳng cánh tay, bàn tay ấp lấy vai tôi. Đôi mắt nâu trong nhoi nhói, anh ánh của anh lại nhìn tôi cười cười và trầm ngâm, một ngón tay anh đưa lên trước miệng:

- Phải viết! Phải viết nhớ! Lần sau cứ đem đến cho tôi đọc. Đem cả tập cho tôi đọc... Thôi cậu về!

Đến nhà, cơm vừa dọn. Thấy tôi cầm nặng hai cuốn sách trông rất quý mà vẻ mặt thì tươi tỉnh khác thường, mẹ tôi đon đả cười hỏi luôn:

- Thế nào, anh Lễ anh ấy quý hóa lắm chứ? Đã bảo mà! Vậy anh ấy có bảo bao giờ thì xin việc cho không? Nếu được làm ở cùng nhà báo trên Hà Nội với anh ấy, không thì làm ở chỗ khác, làm ở chỗ nào cũng được con ạ!

Tôi chỉ gật gật, vâng vâng, dạ dạ để mẹ tôi vào ăn cơm.

Tối hôm ấy, ngọn đèn dầu tây thân thiết của tôi lại chong lên, che khuất một nửa về phía mẹ tôi nằm. Nếu như cái bàn sách của tôi là một bàn thờ, thì hôm nay nó lại càng quý hơn vì được thêm đồ bày. Đó là chân nến? Không, còn quý hơn. Đó là tượng là ảnh. Vẫn không bằng! Vì... nó... lại là sách. Hai cuốn sách thật dày, thật đẹp tôi không thể ngờ được. Hai cuốn sách mới của tôi! Hai cuốn sách của tôi một thần linh cho tôi mượn: Thế Lữ.

Nếu như tôi đã thấy mình giàu có, đã thấy mình không phải đói, phải thèm nhục nhã quá chừng với chồng tuần báo tiếng ta và tập sách chữ Pháp cùng với cuốn tự vị cũ kỹ kia, thì nay thêm hai cuốn mới, ắt là tôi phải thấy mình giàu có no đủ hơn.

Ấy là một lý do.

Một lý do khác, là nếu như tôi tự so sánh với gia đình bác Lượng ở gian bên cạnh, tôi lại càng thấy mình sung sướng.

Hai vợ chồng, năm con dại. Bác gái có mỗi cái quần rách mặc đi chợ. Bẩn lấm quá thì chiều tối về giặt, mặc manh quần cộc và cái yếm mướp đi ngủ. Bụng chửa, bác vừa lùn vừa gày nên trông càng vêu vao ốm yếu. Bác chỉ đội, đội rau muống, chuối, dứa, gà vịt, tôm cá. Bác trai làm phu hồ công việc buổi đực buổi cái, người còm rom, nhiều đêm trở giời thở như trâu bò bị cắt tiết. Năm đứa con gần như trần truồng toàn ngủ đất và ăn bốc.

Tôi cũng sướng hơn bà cụ Trung, ông cụ Trung. Ông cụ ngoài sáu mươi, bại một chân, đi phải lết gậy. Có bốn con, hai trai hai gái. Hai trai hơn tôi bốn, năm tuổi, cũng thất nghiệp. Người con trai bé ngày ngày cũng đi tìm việc như tôi, và thỉnh thoảng còn boóng được bạn vài buổi quét vôi hay khuân vác. Chứ người anh cả ngày chỉ nằm nhà. Nằm vì đi mạn ngược về sốt rét và lở. Uống hàng thúng giun rồi mà vẫn không khỏi. Người con gái suýt soát tuổi tôi cũng gần như không có việc làm. Tuần nào, may lắm là được mấy ngày đội than, xe gạch, không có thì đi theo các mẹ buôn chợ quê gánh giúp để lấy ống bơ gạo hay một hào. Người chị cả buôn chè chai. Ông chồng làm thợ cạo. Có hai con chung và một con riêng của vợ. Ông cụ, bà cụ, hai con trai, cô con gái và các cháu bé ăn một bếp. Người chạy gạo chính là bà cụ. Bà cụ cứ tối đến là gánh ấm nước chè tươi và hòm diêm thuốc ra đầu đường Máy nước hai vòi bán cho thợ thuyền phu phen đi về tầm muộn, anh em làm xe đêm, đặc biệt là phu thùng. Mặt bà cụ lúc nào cũng nặng trĩu, răng như nghiến lại. Nhà chỉ ăn có bữa chiều.

Và cả nhà chỉ có hai cái giường và một cái bàn. Một cái giường cố nhiên là phần của vợ chồng con cái người chị cả. Nhưng còn hai ông bà, hai con trai và người con gái, ai cũng sức vóc đẫy đà thì nằm thế nào? Cả cái ăn, cái ở, nói rằng nhà tôi sung sướng hơn nhà ông cụ bà cụ kể cũng không ngoa... Vì rằng đã được ăn ở mức khá hơn, nhà tôi lại còn không có tiếng trẻ khóc quấy, không bị giường cứt chiếu đái, không phải túm tóc giằng xé nhau "để cái thằng hen này tự tử chết cho mẹ con mày sống", hay "cái thằng già và cái thằng nằm chết trương kia, sao chúng mày không đâm đầu xuống sông xuống biển đi mà cứ báo hại tao mãi thế này"?! Chao ôi! Làm sao tôi không thấy mình sung sướng được?! Mà thấy mình sung sướng như thế, lại có cả sách mà đọc, giấy bút mà viết, bàn để ngồi, đèn thắp suốt đêm, thì làm sao tôi lại không đọc, không viết!... Không vì những con người ấy mà đọc, mà viết! Không vì vô vàn những con người cũng đau đớn khổ cực như thế hay hơn thế sống ở chung quanh đấy, ở khắp nơi, ở cả và mặt đất đầy rẫy những bất công này, mà đọc mà viết?

Nếu không có còi tầm nhất Máy tơ thì tôi cũng không biết mình đã thiếp đi và giờ là sắp sáng. Chỉ gục lên mặt bàn và chợp mắt một lúc như thế tôi lại thấy tỉnh táo. Rồi khi ra bờ hè ngước nhìn khoảng trời mờ mờ xanh xanh, hửng hửng và có vài thoáng gió mát mát qua mắt, thì tôi nhẹ hẳn cả đầu óc. Ngoài xóm và ngoài đường cái đã rào rào, rầm rầm. Một vang động náo nức dội dần lên. Thế nào nhỉ? Lại bắt đầu một ngày nhỉ? Một ngày làm lụng! Một ngày kiếm ăn. Một ngày được sống!

Tôi uống hết nửa bình nước máy sao mà mát mà ngọt. Tôi mặc áo dài, đội mũ ra đi. Mấy hôm trước tôi đã nghĩ đến sức khỏe và kỷ luật tập thể dục. Như thế hôm nay đúng phải là hôm bắt đầu đây... Còn mấy tháng nữa tôi mới mười bảy tuổi! Mười bảy tuổi ơi! Nếu tôi vẫn là học sinh thì có lẽ tôi cũng là một vận động viên hay một chân đá bóng khá của nhà trường đấy! Nhưng thôi, xa xôi quá rồi, những ngày tươi sáng rực rỡ và nên thơ vô cùng ấy. Chỉ biết bây giờ, tôi coi đọc sách cũng như ăn, thì khí trời và cảnh sắc bình minh kia sao tôi không thở hít thật nhiều, để thêm sức thêm tinh thần vậy. Tôi ra cái bãi rộng sau nhà Máy tơ. Bãi này trông ra sông cửa Cấm suốt đến ngoài khơi. Những ngọn núi Yên Tử chất ngất mịt mùng xanh biếc và những lớp núi Cát Hải xanh đặc chi chít cũng mở ra trước mặt. Chung quanh bãi có những gốc phi lao, những gốc gạo cao chót vót làm thành một lớp diềm giăng dưới bầu trời càng nắng to càng phấp phới rực rỡ.

Sáng ấy tôi dậy và đi cùng những thợ Máy tơ, những người khuân vác ở Sáu Kho, và những người làm lụng linh tinh ở các tàu, các sà lan, các kho, các lán, các xưởng gần đấy. Nhiều bà con trong xóm đã tưởng tôi làm chấm công hay chạy loong toong hay phụ bàn giấy biên chép gì đó...

Ơi! Những vòm đông, những chân mây, những đỉnh trời, những sương gió, những mù khơi, những bến bãi, những núi rừng, những chòm cây, những ống khói, những tầng lò và những lớp người lao động tôi không được biết tên, không được rõ tuổi đã sáng sáng cuốn hút bước tôi đi! Ơi! Những bình minh đói khổ lam lũ nhưng rất trong lành dào dạt của Hải Phòng... làm sao tôi có thể quên được rằng mười bảy tuổi xuân của tôi đã mở ra ở đây cùng với những dòng chữ nảy sinh theo ánh mặt trời, và bước chân của các con người mà tôi không thể yêu thương vô cùng cũng như tin tưởng vô cùng vậy?

Cũng như làm sao tôi quên được những Tiếng sáo Thiên thai, Cây đàn muôn điệu, Nhớ rừng, David Copperfield, Hành trình ở Mạc Tư Khoa và con đường ngõ Nghè đỏ rực hoa xoan tây kia?

III. TẬP TRUYỆN NGẮN ĐẦU TAY ĐỂ RA MẮT... VÀ ÔNG CHỦ BÁO TRIẾT NHÂN...

Tôi lại đến ngõ Cố đạo.

Không như lần trước nao nức, bừng bột và tràn ngập vui sướng với một tập sách vở cặp trước ngực, lần này tôi cũng ấp trước ngực một cuốn vở nhưng là bản thảo của năm truyện ngắn, còn bước chân và tâm trí thì e ngại lo lắng vô cùng.

Tôi không nhớ hẳn tên đề tập truyện. Hình như là "Những linh hồn đày đọa" hay "Những linh hồn đau khổ" hay "Những linh hồn khốn nạn", v.v... Tuy phải lấy tiền chạy chợ của mẹ tôi mua giấy, tôi vẫn chỉ viết bản thảo thứ nhất, thứ hai bằng giấy học trò chưa kẻ hạng bốn xu một thếp, rồi sau thì chép ngay vào giấy trắng đẹp đóng sẵn thành vở giá bán những bảy xu mà chỉ được có hai mươi tờ hẹp: vở Aviat.

Phải, dù túng, dù đói, dù khó khăn đến đâu thì đến, đây cũng là mối tình đầu của tôi.

Phải, dù túng dù đói dù khó khăn đến đâu thì đến, đây cũng là đứa con đầu lòng của cuộc tình nghĩa ái ân đó.

Phải, dù túng, dù đói, dù khó khăn đến đâu thì đến, đây cũng là sự sống của tôi. Một sự sống nhất định không chịu theo số mệnh, không chịu thấy có số mệnh, không chịu cúi đầu trước số mệnh. Tôi phải chính tay mình nắm lấy vận mệnh của mình, chiến đấu mà chiến thắng. Tôi phải đi tới đích của cái lý tưởng cao quý, thiêng liêng đã tự tìm ra, đã tự chọn, đã tình nguyện.

A! Tôi đã ví von những gì gì nhỉ? Tình yêu thứ nhất, đứa con đầu lòng và số mệnh, vận mệnh, lý tưởng, v.v... Vâng, tôi đã ví như thế, vậy tôi xin phép được dẫn ra thêm một số ý nghĩ về công việc viết văn ngày đó của tôi.

Trong buổi gặp nhà thơ Thế Lữ, tôi đã trả lời một số câu hỏi của anh. Có một câu khi thốt lên, không phải là vội vàng, mà đã trải qua bao phen trằn trọc, xót xa, dằn vặt, gần đến như tuyệt vọng và buồn có thể chết được. "Tôi sẽ không viết nữa vì tôi thấy tôi viết xoàng quá... nhạt quá...! Tôi không bằng lòng tôi một chút nào". Tại sao như thế? Thưa... vì tôi đã đọc một số tác phẩm của một số tác giả. Những tác phẩm ấy tên rất lạ, rất choáng, rất bay bướm cũng như tên người viết ra nó vậy. Tôi đã nghĩ và thấy, chao ôi! Như thế này mà cũng đăng báo, cũng in sách, cũng báo nọ tán, báo kia tụng ư? Thoạt tiên tôi vừa ngạc nhiên, vừa coi thường. Không biết đây còn có phần nào là ghen không? Vì mấy năm trước đó, còn là mười hai, mười ba, mười bốn tuổi, tôi chỉ mới say mới mê đọc, chứ chưa nghĩ mấy đến viết, chưa tin tưởng rằng mình sẽ viết. Cho tới gần đây, tôi đọc lại cả một số tác phẩm của một số tác giả mà tôi rất phục, thì tôi cũng lại ngạc nhiên. Với những tác phẩm và những tác giả này tôi không đánh giá như loại trên kia, nhưng tôi lại thấy tâm trí tôi xóc nhói lên, buồn bực, khổ sở vô cùng.

Đời sống và xã hội đã có không biết bao nhiêu việc làm và bao nhiêu bộ mặt hèn hạ kinh tởm của những hạng bừa bãi chỉ cần có tiền, nhưng sao lại còn cộng thêm những sự hèn hạ kinh tởm, buôn bán kiểu này nữa trong sách, trong báo, trong văn chương? Tôi đã nhận thấy như thế, nhận ra như thế, thì tôi phải sao không là như thế, không làm như thế.

Hơn nữa, tôi không những không là như thế, không làm như thế, mà còn phải chống lại. Và để chống lại, tôi phải có những gì là chân chính của tôi, đặc biệt của tôi, kết đọng và sắc mạnh nhất của tôi.

Trước hết là tôi không được viết những truyện tình yêu phù phiếm bợm bãi, những truyện mơn trớn khêu gợi, những tình cảm thấp kém, những truyện để mua vui, để chiều ý, để cầu lấy chút khen ngợi hay sự nhắc nhở của một bọn vô công rồi nghề phè phỡn, khô khan, trơ trẽn, - cái bọn giàu có sang trọng gọi là thượng lưu xã hội lúc bấy giờ.

Cũng như tôi không được viết những cái gì là a tòng, những cái gì để tô điểm cho lối sống và bộ mặt của chúng, những bọn người mà tôi đã biết khinh bỉ, đã biết thù ghét, những bọn người phải thấy rằng sự chân chính, cao quý, có nhân phẩm và có đạo đức không thể thuộc về họ, mà chính là và thật là của những kẻ nghèo khổ, cùng cực đang bị họ rẻ rúng.

Như vậy thì trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi không thể chỉ không nên bắt chước những ngòi bút mẫu mực có tiếng tăm của thứ văn thơ thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng một khuynh hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi cũng phải không là nô lệ, không là một cái bóng của sự phỏng cóp. Nghĩa là nếu như đã có thanh long đao của Quan Công, bát xà mâu của Trương Phi, thì bên cạnh phải thêm đường thương của Triệu Tử Long, cây cung của Hoàng Trung. Cũng như bên cạnh thiền trượng của Lỗ Trí Thâm, đôi búa của Lý Quỳ, thì lại có cả đôi bắp tay vo của Võ Tòng ở Cảnh Dương Cương nữa.

Những thanh long đao, bát xà mâu, trường thương, cung, thiền trượng, búa và đôi tay vo ấy không thể mượn được. Nhất là đôi tay trần của Võ Tòng.

Phải tự rèn, tự luyện cho mình. Chỉ có thể bằng sự tự rèn luyện cho mình. Sắt thép của nó lấy ở quặng mỏ của sự sống, của cuộc đời. Muốn mầu nhiệm và linh thiêng phải có máu thịt, máu thịt của con người, của chính mình. Muốn sử dụng thật hiệu nghiệm, thật có kết quả, thật là tuyệt vời sự mầu nhiệm và linh thiêng này, thì phải vừa học vừa xung trận. Thầy dạy là tổ tiên, là ông cha, là quần chúng, là nhân loại.

Biết ơn tất cả những tiếng nói, những dòng chữ trong lành, mạnh mẽ, hào hùng, tình nghĩa đã nuôi nấng, cảm hóa, giáo dục và cho tôi sức sống. Cũng "biết ơn" cả những ngọn roi sắt trần trục hay bọc bằng nhung của quân thù đã quật lên đầu lên ngực mình một cách trắng trợn ra mặt, hay khéo léo, giấu tay!

... Phải! Tôi đã viết xong được một tập truyện ngắn. Như có những ngọn cờ, những tiếng kèn hiệu lệnh xa xôi đã phất đã gióng lên trước mắt tôi. Và trước mắt tôi còn như có những áng mây và một bầu trời trong sáng vô ngần...

Trước khi viết và cả sau khi xong những lần bản thảo của từng truyện, tôi đều kiểm đi duyệt lại xem từ sự việc đến cảnh vật, đến mỗi con người, xem trong đó có giống của một nhà văn nào không. Thảng hoặc có nhà văn này hay nhà văn khác cũng tả "nó" thì "nó" của họ và "nó" của tôi có khác hẳn nhau không? Khác hẳn nhau không phải là của tôi thì cầu kì, hoa hoét, tỉa tót. Khác hẳn nhau ở điểm căn bản này, tính chất màu sắc và sự rung động, yêu thương.

Tôi đã tả lại một bà cụ già nhà quê ốm yếu mà tôi không nhớ là can án gì. Chỉ biết bà cụ bị ba tháng tù, thì đã ở được hơn hai tháng, cũng đi làm cỏ vê như những người khỏe mạnh, nhưng rồi sau kiệt sức quá - bà cụ bị bệnh kiết lỵ - được nghỉ hơn một tuần thì chết. Cỗ ván nhà thương vừa nhỏ vừa mỏng, xác bà như một đứa bé còm cõi lên sáu, lên bảy, tôi kéo xe bò chở ra nhà thương chôn, chỉ một tay cầm càng mà vẫn thấy nhẹ. Tôi vừa đi vừa nghĩ và càng nghĩ càng không thể tưởng tượng được sao lại một người như thế mà đã sống được. Và một người như thế thì còn sức đâu để hãm hại ai, để phạm tội mà chịu tù đầy?

Tên truyện này là Cát bụi lầm (4). Tên bà cụ là Vỉ. Cái vỉ buồm bé nhỏ, xơ nát sau bảy mươi năm đã che đậy cho cuộc đời. Đặt tên bà là Vỉ, tôi đã vấn vương ý nghĩ này mất nhiều hôm. Giá tôi kiếm được miếng khăn bông đắp mặt cho bà và mảnh chăn sợi hay manh chiếu đậu mà liệm, chắc linh hồn bà cũng đỡ lạnh lẽo tủi đau dưới suối vàng! Nhất là khăn và chăn chiếu ấy lại là của tôi, một kẻ chỉ đáng tuổi cháu bà và là bạn tù của bà.

Và một truyện nữa: Linh hồn (5). Truyện này hoàn toàn tôi tưởng tượng ra. Đây là một người vợ đi tù thay chồng vì tội làm muối lậu, gọi là tù án muối. Chị còn trẻ, mới có mang. Chị bị cai tù hiếp, sảy thai. Giữa đêm trăng mờ ấy, người chồng đang cất vó khuya, vừa tính từng ngày vợ ra tù với đứa con đầu lòng.

Tôi đã tưởng tôi là người chồng có người vợ trẻ và đứa con ấy.

-----

(4) (5) Truyện Cát bụi lầm tôi có gửi đăng báo nhưng không được. Lần sau đọc lại thấy ngây ngô, tôi cũng không giữ bản thảo nữa. Truyện Linh hồn đăng Tiểu thuyết thứ Bảy khoảng tháng 9, 10-1936. (Chú thích của tác giả).

⚝ ❖ ⚝

... Tôi đến ngõ Cố đạo, cắp trước ngực cuốn vở giấy trắng đẹp hơn lụa, bản thảo những truyện trên đây để gặp ông chủ tuần báo Hải Phòng.

(Tuần báo còn tên là Hải Phòng chính luận hay Hải Phòng diễn đàn, hay Tiếng vang của Hải Phòng, v.v... nhưng vì lâu ngày quá tôi quên mất nên xin phép chỉ gọi tuần báo Hải Phòng thôi)

Tòa báo ở ngay cạnh nhà bác tôi, cạnh cái trường ông thánh Antong tôi đã dạy học không đầy một tháng kia. Nếu như không được đi qua những tòa báo có tiếng trên Hà Nội, cũng như không từng đánh đáo với em ông chủ tờ báo Kinh tế ở con đường sau nhà máy rượu của tỉnh Nam Định quê hương tôi, thì tôi sẽ thất vọng vô cùng trước cái tòa báo nọ. Cũng ở cả hai tầng như nhà bác tôi nhưng nhà chỉ có hai người: ông chồng và bà vợ bụng chửa vượt mặt. Biển đề tên báo cũng bằng gỗ, chữ sơn hai màu, buộc dây thép treo trước lan can gác song song với cái biển trường của bác tôi. Chỉ khác là biển mới và những chữ thì khích động vô cùng:

Tuần báo Hải Phòng.

Văn chương - nghị luận - chính trị - xã hội.

Những ngày đầu tiên ra Hải Phòng và trong những ngày được bác tôi nhường công việc dạy học, tôi đã chú ý đến cái gia đình hàng xóm ấy. Vợ da ngăm ngăm, tóc búi, gương mặt lành lành dại dại, hay mặc áo cánh lụa rộng và quần lĩnh trông như người Sài Gòn. Chồng tóc bù lên như bộ lông của con gà mái ấp dở, cúp xuống chấm gáy, tóc mai xoắn nhọn. Ông đeo kính trắng gọng vàng kẹp mũi, trông người có vẻ còn ốm yếu, chậm chạp hơn vợ. Vì da mặt ông xanh mướt, và, ngay ở trong nhà ông cũng mặc áo sơ mi cổ cứng, đóng cúc, lúc thắt cà vạt, lúc thắt nơ. Cà vạt và nơ đen. Không hiểu tính ông thế hay ông chỉ có mỗi bộ, nên sáng sớm, trưa, chiều, tối, khi ở nhà cũng như ra đường, đều thấy ông đóng cái bộ màu đen láng, cái bộ đồ mà mọi người chỉ mặc làm lễ phục.

Cả gian nhà dưới rộng thênh thang chỉ kê có một cái bàn giấy to và bộ xa lông. Một tủ chắc là đựng sách báo giấy tờ có diềm che kín. Trên phòng gác, thì tôi hoàn toàn không thể đoán được đồ đạc bày biện ra sao, và có những thứ gì. Vợ chồng ông hay đi chợ. Đi chợ ra phố với vợ, ông cũng chống can, cắp một đệp sách báo to xù. Thường thường chỉ thấy bà vợ xách về một làn những chuối, chanh, rau thơm, đu đủ và ít hoa... Ông cũng đọc sách cả ngày và cả đêm. Khác nhà tôi, cây đèn nhà ông cao như cây nến thờ, có chao hồng đào nên không khí của gian nhà vừa lặng lẽ vừa trang trọng, vừa rất nên thơ...

Tôi đã so sánh ông với nhiều người, nhiều hình ảnh, và nghĩ rằng ông rất có thể còn là một nhà chính trị. Chính vì nghĩ rằng ông rất có thể là một nhà chính trị, nên tôi càng yên tâm và cũng càng thấy thôi thúc hơn: Nhất định tôi sẽ đến với ông. Tôi đến với ông không chỉ vì tờ tuần báo văn chương của ông mà vì nó còn là tuần báo chính trị, xã hội với ông đúng là có vẻ một người làm chính trị.

Không hiểu ngày đó tôi đã đọc được những bài nào, những đoạn văn nào, ở những báo nào mà đã thấy đang có cuộc tranh luận. "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh". Và tôi cũng không thể nhớ được rằng tôi đã lý giải nghệ thuật vị nhân sinh phải như thế nào mà có quyết định tự xếp mình vào hàng ngũ môn phái này.

Vậy thì, về văn chương tôi đã được gặp Thế Lữ - thi nhân có thiên tài và tận tụy và chân thành vô cùng kia, tôi đã quyết tâm làm theo như Thế Lữ chuyện trò khuyên nhủ. Còn về chính trị và xã hội thì đây tuần báo Hải Phòng, đây ông chủ báo mà tôi cảm thấy có gì là khác thường, tôi sẽ lấy văn chương của tôi giới thiệu cái nghệ thuật cao quý và thiêng liêng cũng vô cùng của tôi mà viết báo cho ông, làm báo với ông, để phục vụ cho một tôn chỉ và khuynh hướng đứng đắn chân chính.

Không kể trong vòng một tháng tôi dạy học, lại thêm nửa tháng sau nữa, mà tôi vẫn chưa thấy tuần báo Hải Phòng ra đời. Trông vào gian nhà thênh thang tôi càng thấy lặng lẽ, cũng như để ý đến bữa ăn của vợ chồng ông, tôi càng thấy khói bếp rất thưa, vợ ông càng ít đi phố. Tôi càng nao nao tâm trí, càng có thiện cảm với cảnh sống nọ, và tôi càng thêm lòng tin ở ông, muốn tìm hiểu ông, và đón đọc số báo ra mắt của ông.

Bỗng một hôm rồi luôn mấy hôm tôi thấy ông có vẻ tất bật lắm. Ông đi phố luôn. Vẫn sùm sụp cái mũ dạ trên cái đầu bù xù tóc cúp xuống chấm gáy... vẫn bộ quần áo lễ phục chải chuốt, trong mặc áo sơ mi cổ là cứng thắt nơ đen, vẫn cái can trịnh trọng gõ theo từng bước..., ông cũng ra đường, nhưng nét mặt không đăm chiêu mà tươi tỉnh hớn hở khác hẳn.

Thế rồi buổi chiều hôm ấy, người con gái lớn của bác tôi, khe khẽ gọi tôi lại, khoe với tôi hình như hôm nay vợ ông ấy làm tiệc. Tôi không hiểu chị tôi nói gì. Chị tôi cho biết, vợ ông ấy mua những một bó hoa, những một con gà, những một nải chuối và giở ra phơi cái khăn trắng to để trải bàn ăn. Bữa tiệc không biết có rượu không, vẫn chỉ vợ chồng ông ăn với nhau, nhưng không ở trên gác như mọi ngày, mà ở dưới nhà, và bàn tiệc là bàn ông làm việc, ngồi đọc sách. "Vợ chồng ông ấy ăn mừng báo ra đấy! Ông ấy đã lấy báo ở nhà in về đấy".

Trong tim tôi như se lại. Tôi ra đầu đường mua ngay một số Hải Phòng. Tôi vừa đi vừa đọc. Tôi đọc kĩ nhất bài phi lộ. Tôi về nhà mở rộng tờ báo trên mặt bàn, nhẩm đi nhẩm lại những tên, những mục và những người viết bài rao số sau... Tôi để tập truyện ngắn của tôi nằm giữa tờ báo, cũng đọc đi đọc lại... Sau thêm một tuần sửa chữa, hôm nay tôi đến với ông đây. Tôi đến với tờ tuần báo của ông đây.

Tôi đến với ông, đầu tiên để tỏ lòng hoan nghênh việc ra một tờ báo, có mục đích, tôn chỉ trang trọng. Là một kẻ tha thiết với sự sống công bằng tự do, bác ái, tôi sẽ tình nguyện giúp việc tòa báo trong buổi đầu nhóm rau nhóm bếp. Một công việc mà tôi xin được phép nói thật với ông rằng, tôi thấy có thể cảnh sống của ông cũng túng thiếu, phải chạy vạy vất vả lắm. Tôi sẽ đi lấy tin, lấy quảng cáo, viết bài, bất kỳ bài gì ông giao cho, tường thuật phóng sự, điều tra, phỏng vấn và cả nghị luận nữa. Tôi sẽ làm thư ký cho nhà báo, thậm chí đi đưa báo và cả bán báo ở đầu đường. Hay hơn nữa, tôi có thể thổi cơm, gánh nước, quét nhà quét cửa cho vợ chồng ông. Tôi làm như thế hoàn toàn không lấy một đồng nào, không lấy một xu nào. Cốt sao báo sống, báo ra đời đều, báo chạy. Nhất là báo chạy. Tôi làm như vậy còn với một ý định này nữa, là được kết nghĩa anh em sinh tử với ông. Vâng, thật là đúng lòng tôi nghĩ như thế. Còn như tập truyện tôi đem theo người đây, chỉ để ông đọc. Nếu thấy hay, ông cho đăng, không thì thôi. Mà có được đăng tôi cũng không lấy tiền.

Thưa ông quản lý kiêm chủ bút tuần báo Hải Phòng chính luận, Hải Phòng diễn đàn, Tiếng vang Hải Phòng, v.v... hiện nay đang lúc người ta đua nhau chạy theo đồng tiền, trong số đó không biết bao nhiêu kẻ làm báo để kiếm tiền, thì có một người rất nghèo khổ, một thằng học trò ít tuổi là tôi, cương quyết không theo con đường ấy, cái lối sống ấy... Không nói đâu xa, ngay như ở Hải Phòng này, có những chủ hiệu đại lý thuốc lậu ra báo, chủ cho thuê xe kéo ra báo, những thằng chuyên đi lừa hết đám có tiền này đến đám có tiền khác cũng ra báo... rồi thành lập nào văn đoàn, nào tủ sách, nào nhóm, nào trường, nào phái, quảng cáo rầm rĩ, nương vào cửa này, dựa vào cửa khác,... thì cũng lại có tôi đây, kỳ vọng ở ông, rắp tin được cùng ông tiến hành một cách đứng đắn và dù phải hy sinh nhiều thứ để thực hiện một công cuộc lý tưởng và cao quý, cho đúng với những chữ chính trị, xã hội.

Tôi đi giữa lúc đường phố đang đông, đang vui, đang đẹp. Đông vui, đẹp vì trời nắng và học trò đến trường. Cuối thu, không còn thứ hoa xoan tây mà nhiều người làm thơ, làm văn và nhất là học sinh thường gọi là phượng vĩ. Nhưng đã có nắng dưới trời mây trong sáng rực rỡ. Nắng trong những chòm cây gió thổi phấp phới. Nắng theo những áo màu, như những cánh bướm, của những học trò con gái. Nắng qua những tủ kính bày các thứ mẫu len, dạ, nhung và các thứ áo. Nắng chiếu những sách bày nghiêng trên những giá mạ kền lót mặt gương. Và đẹp nhất vẫn là nắng trong những tiếng reo cười, tiếng guốc của học trò, và nắng trên những giá bày các tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ mới xuất bản đang lừng tiếng.

Các bạn ấu thơ của tôi ơi! Các bạn có biết không, cái anh chàng đang đi giữa các bạn đây mới năm kia, năm kìa, và xa xôi hơn, sáu bảy năm trước đây, cũng là một học trò đấy. Nhưng rồi đây anh chàng sẽ là nhà báo, nhà văn, sẽ biết viết truyện cho các bạn đọc, mà các bạn sẽ không ngờ chính là người của Hải Phòng này, ở cái xóm tồi tàn trong ngõ Cấm kia!... Các bạn lớn tuổi trong đám các bạn, cũng như tôi trước đây, sẽ nhiều lúc bàn tán chuyện trò với nhau rằng cái người ký tên là... là vân vân kia, là ai nhỉ, mà viết cứng, viết hay, viết lạ, viết hắc, viết chúa, viết tài về chính Hải Phòng, về ngay Hải Phòng của mình vậy?

Chỉ thế thôi! Chỉ được nhắc đến thế thôi, đấy là tiền bạc, là châu báu, là lâu đài, là cung điện, là chức cả, là ngôi cao của tôi đấy. Mười bảy thanh xuân ơi! Tôi sắp bước sang mười bảy tuổi rồi! Tôi không còn được đến trường ngồi ở ghế nhà trường thì tôi vào trường đời, ngồi ở vườn hoa, ở bến tàu, cổng nhà máy, toa xe, hầm mỏ, đồn điền cao su, hay cả ở giường nhà thương và xà lim nhà tù mà... viết bài, làm bài vậy!... Tôi gõ cửa tòa báo Hải Phòng, khi ông chủ báo quần áo lễ phục ở trên gác đi xuống, sắp sửa vào ngồi cái bàn to rộng xếp chất ngất từng chồng sách và báo tiếng Pháp.

⚝ ❖ ⚝

Trong cái buổi gặp gỡ trang trọng lịch sử ấy, tôi lại mặc cái áo lương, cái quần chúc bâu trắng gối là ở đầu giường và cố nhiên lại đi đôi giày "giôn".

Mặc dầu vẻ mặt vốn đã thẫn thờ như người ở cung giăng cung gió, và đã đeo đôi kính trắng rất sáng, vậy mà khi mở cửa cho tôi vào, nhìn tôi chào, nghe tôi tự giới thiệu, ông chủ báo vẫn lộ vẻ ngạc nhiên và e ngại quá sức. Phải, tôi tuy lạ, nhưng sao ông chủ báo lại không nhận ra đó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn đến cái trường ông thánh Antong hàng xóm của ông, và đã một dạo dạy học thay cho ông giáo hói trán đọc kinh cả ngày kia. Vậy mà cái anh chàng học trò dở dang người tỉnh nhỏ ấy lại giở toàn tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp lớp nhất sơ học ấy mà, ra mà chuyện trò mà trình bày, mà đề nghị, mà yêu cầu...

Và hỡi ôi! Tôi đã còn dám liều lĩnh nhân danh cả các cụ Jean Jacques Rousseau, Diderot, Victor Hugo mà trình bày, mà chuyện trò về văn chương, về tư tưởng, về xã hội với ông chủ báo Hải Phòng của tôi.

Không như lần ở trước mặt Thế Lữ, tôi ngập ngừng e thẹn, váng vất, bàng hoàng, lần này tôi nói rất hung, rất hăng, rất nhiều và rất là dài! Tôi nói không còn để ông chủ báo kịp hỏi lại, kịp chớp mắt, để ông kịp thấy ông cứ há mãi miệng ra và kịp cả rút mùi xoa thấm mồ hôi trán. Tôi nói cũng mặc kệ cả bà chủ báo cứ thập thò mãi trong sân, không dám đi ra, và cũng không còn để bà đủ sự bình tĩnh mà nhận ra những cái tôi nói với chồng bà là những cái gì, không phải vì bà không hiểu tiếng Pháp. (Đôi khi ở bên nhà bác tôi ngó sang, tôi cũng thấy bà ngồi bên bàn giấy dưới cây đèn sáng hồng làm việc, đọc sách, đọc báo chữ Tây với chồng)

Cũng may có cái chai nước đã cứu cho vợ chồng ông chủ báo. Đó là một chai trắng, đựng nước lã đun sôi để nguội, không hiểu sao tôi còn nhận thấy ra có nó ở trước mặt mình. Tôi cứ tự nhiên rót đầy một cốc mà uống ừng ực. Tôi uống như một chân đá bóng. Một chân đá bóng làm nhiệm vụ trung phong, nhưng vì tồi quá, đã như trâu lăn xông xáo từ cuối sân nọ sang cuối sân kia, mà chẳng mớm, chẳng truyền được một quả nào ra hồn cho hàng tiền đạo làm bàn. Rút cục "ông" mệt nhoài ra, còi vừa thổi cho giải lao thì nằm thẳng cẳng ra bãi mà thở, khi dậy thì uống nước như kiểu tôi uống vậy.

Ông chủ báo cũng rót nước, ông nhấp nhấp đoạn thấm thấm mồ hôi trán và lau mắt kính. Ông vẫn hơi cúi đầu, hai tay khoanh trên mép bàn, lặng lẽ nghe tôi nói và cũng lặng lẽ nhìn cả cuốn bản thảo của tôi mở ra, tên tập truyện viết chữ hoa tô nét rất đậm, rất bay bướm. Trong khi vẻ ngạc nhiên và e ngại dần dần nhạt đi trên nét mặt ông, thì một vẻ buồn buồn đượm chút gì phân vân bối rối, ánh ánh rõ hơn trong đôi mắt thâm quầng của ông.

... Tôi đã để lại tập truyện ngắn đầu tay cho ông chủ bút tuần báo Hải Phòng sau khi diễn tả lại với ông tất cả những ý nghĩ, những dự kiến bấy lâu nay đang thành quyết định và hành động của tôi. Ông lại lập cập mở cửa. Ông cúi cúi đầu mấy lần chào lại tôi, và khi nắm lại tay tôi, ông đã nhìn tôi cười cười rất lưu luyến và hứa hẹn.

Báo số một rao ra hàng tuần ngày thứ năm thì số hai ra ngày thứ ba. Ngày thứ ba đó lại cách hơn một tuần nữa. Rồi đến số thứ ba vẫn chưa thấy đăng truyện của tôi. Tôi chờ mãi cũng không thấy số bốn. Và một hôm, tôi bàng hoàng hỏi người chị lớn tôi, rằng tòa báo Hải Phòng ai đến ở thế kia và vợ chồng ông dọn đi đâu, thì chị tôi lắc đầu, luống cuống, nhăn nhó: - "Giêsuma! Vợ chồng ông nhà báo ấy à?... Giêsuma! Lạy Chúa tôi. Chị cũng không biết vợ chồng ông ấy dọn đi hôm nào, và cũng không biết vợ chồng ông ấy có ở đây nữa không mà vẫn còn cái tủ sách, cái bàn giấy và bộ xa lông thế kia?" Tôi nhìn kỹ thì chỉ thấy còn tủ không. Nhưng trên nóc tủ lại có hai buộc báo mà tôi không cần phải trông tận nơi, cũng biết là những báo ế. Hai chồng báo còn to gấp đôi chồng báo hàng tuần cũ của tôi, nhưng không hiểu "nó" có phải cũng là "con tin" như là số