CHƯƠNG VII
BÀ TÔI
Nhiều người đã bảo nhau và bảo cả bà tôi rằng ai có gương mặt, nhất là đôi tai và da dẻ như thế sẽ sống lâu lắm. Trán bà tôi ngắn, tóc bạc gần hết và rụng hói cả đỉnh đầu, mắt chỉ còn nhìn thấy lờ mờ, nhưng nhân trung thì đầy đặn, đôi tai to sệ như tai Phật và da dẻ đúng như đồi mồi.
Còn một nhận xét này nữa của bà tôi nói về người khác, nhưng tôi ngẫm nghĩ thì chính là nói về mình. Cái dáng vóc ai mà lưng chữ "cụ" vú chữ "tám" thì nhiều con lắm! Bà tôi sinh nở mười tám lần, nay còn lại chỉ được ba người: chị cha tôi, cha tôi và em gái cha tôi. Trước kia bà tôi bán thịt ở chợ, sau nhà mở hàng cơm, bà tôi trông coi. Ngày còn người chị trên đốt cha tôi thì bà buôn cau tươi, cau khô.
Một trong những hình ảnh và khắc giờ sâu đậm nhất của trí nhớ tôi là khi bà tôi đọc kinh một mình hay ngồi kể chuyện cho tôi nghe và nghe tôi đọc truyện.
Dạo còn dọn hàng cơm, những buổi trưa vắng khách, những buổi tối cả nhà ai nấy đều mệt mỏi, bà tôi lại lần tràng hạt ở ngay ghế ngồi bán hàng, hay ở đầu giường phía dưới bàn thờ. Nếu đi nhà thờ, bà tôi ngồi cạnh dưới chân tòa giảng, phía trước mặt là một cột đá treo bức tranh chúa Giê-su vác cây thánh giá. Tôi thường dắt bà tôi đi. Tay cắp chiếu võng, tay sẵn sàng nắm lấy bàn tay, cánh tay bà tôi để giữ, để đưa bà tôi qua đường, tránh ô tô, bước khỏi rãnh, bờ hè rồi lên bậc thềm đá, đến tận cửa nhà thờ. Tôi chỉ ngồi với bà tôi một lúc rồi tìm đủ cách bỏ ra ngoài chơi. Cũng có buổi tôi đưa bà tôi vào chỗ quen, ngồi một mình ở đấy, rồi tôi mải chơi quá, tan chầu, hết giờ đọc kinh, bà tôi đã ra mấp mé thềm đá, tôi mới ù té tới đón.
Chỉ có buổi giỗ ông tôi, hay mấy ngày tết và ngày lễ trọng, đọc kinh chung với cả nhà, bà tôi mới thỉnh thoảng đọc to tiếng, đọc thành giọng, thành câu. Còn thì bà tôi chỉ lào thào lào thào, nhiều khi chỉ thấy những tiếng xuýt xoa rồi lặng hẳn. Năm xưa đọc kinh cũ, nghe bà tôi thều thào: "A-ve Ma-ri-a đày Ca-ra-sa chúa Giêu ở cùng bà nữ vương đầy phép lạ", thì tưởng như bà tôi là người dân Do Thái hay là kẻ nghèo hèn quê mùa nhất của một vùng cổ xưa bên Tây Ban Nha hay Y Pha Nho sùng đạo, không còn ai là kẻ ruột thịt thân thương trên trái đất, đang nguyện ngắm về sự chết vậy!
Mấy năm cuối đời, nhà ở xa, bà tôi không bảo tôi dắt đi nhà thờ nữa. Có chủ nhật, vì mưa gió hay vì thấy yếu trong người quá, bà tôi bỏ cả đi lễ. Nhưng chiều hôm, ban sáng, bà tôi vẫn giữ lệ đọc kinh đều. Tối mùa hè cũng như mùa đông, bà tôi ngồi trong màn lần tràng hạt đoạn ngủ ngay. Còn buổi sáng, bà tôi nhóm bếp, nấu nước sôi, pha chè uống một mình, sau khi dậy đọc kinh. Từ ngày cha tôi mất, tôi thường nằm giường bà tôi. Những khi thức giấc, nhìn bóng người hom hem của bà tôi quay lưng lại - cái lưng khòm khòm, áo mặc mong manh, rách vá - và nghe những tiếng lào thào thỉnh thoảng xen tiếng ho, tiếng nghẹn, tôi lại thấy một sự buồn lạnh ghê gớm thúc mạnh thêm vào lòng. Nhất là những buổi bà tôi phải pha lại ấm bã chè hôm qua để uống mà khi đọc kinh ban nãy thì đã ho rũ, giờ uống nước lại càng sặc...
Thời kỳ gia đình đang mở hàng cơm, chưa bán nhà, là thời kỳ tôi được đọc nhiều truyện nhất.
Thường vào những trưa hè vắng khách hay những tối mùa đông giá lạnh, những ngày nóng nực quá, bà tôi không ngồi ngoài hàng, thì lại vào hẳn cái chỗ quen thuộc, lối cửa thông với nhà trong và lên gác, trải chiếu hay bao sạch xuống đất nằm, vừa tuốt trứng, nghe truyện. Nếu có em gái tôi nhổ tóc sâu thì nó cũng được trả công bằng một xu ngô luộc hay chè đỗ đen. Đáng lẽ chúng tôi được mua quà lấy thì thích quá! Ổi ương này, mận Lạng Sơn này, sấu chín này, dứa này... toàn là những thứ có thể chấm muốt ớt ăn. Khuya rét tôi chỉ thích ủ chân vào chăn bông của bà tôi mà đọc truyện. Đầu đường phố tôi có một hàng phở xe chuyên bán ban đêm và một hàng sựt tắc cứ vào khoảng mười giờ thì tiếng hai thanh tre khô gõ rập rập vào nhau vang lảnh dần dần đến cửa nhà. Hàng này ngon một thì tôi xuýt xoa nhắc nhỏm với bà tôi ngon hai, và oằn oại cứ như mấy ngày không được hột cơm vào bụng. Thế là bà tôi lại "cha bố mày" hay "cha bố chúng mày" và lần lần như bẹo như nặn ở cái túi vải ra, cho tôi và em gái tôi bốn xu để mua mỗi đứa một bát phở hai xu. Thế nào bà tôi cũng mặc cả: "Ngày mai là không được xin xỏ gì nữa, và đây không phải lệ của mỗi tối, hay cái nợ phải trả lãi mãi đâu!".
Bà tôi cũng là một tủ chuyện, một tủ chuyện cũng nhiều cái lạ không kém gì trong những Phong thần, Tây du, Kim cổ kỳ quan, Chinh Đông, Chinh Tây hay Vạn huê lâu, Tống Địch Thanh, v.v... Tôi cũng nghe đi nghe lại, thấy những "ngày xưa", "ngày ấy", những "tục truyền" hay "truyền rằng" những cái năm Thìn, năm Tỵ, Kỷ Dậu hay Nhâm Tuất, vân vân của bà tôi ấy có phần lại sinh động hơn những tiểu thuyết thành tập thành pho kể trên!
Không có nhiều những anh hùng hảo hán, những nguyên súy, những tướng quân, những thần Phật mà họ tên dài hàng bốn năm chữ, hay những cảnh cung điện, núi rừng, sông biển, cũng toàn tên chữ Hán, nhưng bà tôi lại "biết" không biết bao nhiêu con người thật, cuộc đời thật, chuyện có thật, việc có thật, xã, tổng, huyện, tỉnh rất quen thuộc. Cả những cô tiên, những ông Bụt, những Đức thánh, Đức Chúa, cũng như những quỷ sứ, yêu tinh, thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề... cả những thiên đàng, thượng giới, bồng lai tiên cảnh đến những âm ti, địa ngục, hỏa ngục... cũng như có thật nốt.
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu tiếng hát thì thậm hay
Cô Mỵ Nương vốn ở lầu tây
Con quan tể tướng ngày rày cấm cung
Anh Trương Chi có chiếc thuyền bồng
Chèo thuyền ngang dọc đêm đông dãi dầu
Canh trường anh mới hát một câu...
... Cô Mỵ Nương nghe tiếng hát thì thương
Hồ trông thấy mặt anh chường cô lại chê!
Hay:
Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công chúa dưới hang về lầu
Đàn kêu trách Hán bên hồ
Trách Tần quên Sở trách Ngô quên Tề
Đàn kêu thấu đến cung phi...
Và thêm nữa:
"Bống bống bang bang! Mày ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người...". "Vàng ảnh vàng anh! Có phải vợ anh, chui vào tay áo...". "Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra...".
Nghe bà tôi kể thấy như bên cạnh, như trước mắt đang có Trương Chi đêm đông dãi dầu vừa chèo thuyền vừa hát và cô Mỵ Nương trâm cài ngọc đính hồ trông thấy mặt anh chường cô lại chê! Hay Thạch Sanh đang gảy đàn dưới hang. Thạch Sanh không cha không mẹ, không biết ai sinh ra, và từ đâu lớn khôn mà đến dưới gốc đa. Thạch Sanh quanh năm đóng khố, vai đeo đàn, tay cầm cung tên. Thạch Sanh đã chém chết rắn yêu tinh chuyên ăn thịt người, trừ ác họa cho dân. Thạch Sanh đã bắn xả cánh đại bàng cứu công chúa bị chim cướp bay đi. Thạch Sanh đã gảy đàn, làm công chúa đang buồn nhớ câm lặng phải bật tiếng lên. Thạch Sanh đã ra đi cứu nước, thổi một niêu cơm con mà hàng vạn binh sĩ ăn cũng không hết. Và Thạch Sanh chỉ gảy đàn mà đánh tan quân giặc. Nhà vua đã gả công chúa cho Thạch Sanh...
Và tôi ở cùng nhà cô Tấm, và xem cô hóa thành quả thị rụng xuống bàn tay bà lão hàng nước, rồi từ quả thị chui ra, xinh đẹp hơn cả trước, xinh đẹp vô cùng... Mà lạ lùng, không thể nào có một anh Trương Chi, một cô Mỵ Nương, một chàng Thạch Sanh, một cô Tấm khác ở một nước nào đấy, dù tên cũng đặt như thế mà lại giống thế được, lẫn nhau được. Hay nói cách khác, chỉ có ở nơi đất cát, sông nước, núi non của bà tôi và tôi đang sống này, mới có những Trương Chi, Thạch Sanh, cô Tấm, cô Mỵ Nương thôi!
Khi đi qua các phố để thuê truyện, tôi đã cỡi cá giống cá hóa long, kỳ lân, hổ, báo, khánh vàng, chuông vàng, và cả quả đào, hoa thủy tiên, bình tích, tông-đơ đi với những Tôn Ngộ Không, Na Tra, Trình Giảo Kim, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng... chu du thiên hạ, khắp đất cùng trời, thì khi nghe bà tôi kể các chuyện cổ tích, dân gian, tôi cũng được đi các nơi không kém kỳ lạ của chính đất nước Việt Nam...
Mười hai cửa bể đều phải nể sóng cửa Tuần Vường. Tôi chưa học địa dư địa lý, nhưng láng máng thấy rằng ngã ba sông này trước kia là biển cả và sóng dữ. Tôi chưa về tỉnh Hưng Yên, quê của bà tôi, nhưng tôi lại được đến bãi cát Khoái Châu ngày xưa cũng là bờ biển, nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung. Đây, công chúa Tiên Dung buông màn tắm trên đống cát. Chàng trai họ Chử cùng khổ phải chia ngày đóng cái khố chung với bố, đến phiên nay phải chịu ở trần. Thấy kiệu Tiên Dung đi đến, Chử Đồng Tử bí thế quá, vội bới bới vùi vùi cát che lấp lên người, thì không may công chúa lại tắm ngay ở chỗ này. Nước giội cát trôi dần trôi dần, chàng trai trần trụi phải hiện lên, sau đó thì kết duyên với công chúa. Tôi cũng về phủ Khoái Châu xem tận mắt canh bạc Trọng Quì đem vợ là Nhị Khanh ra đánh lấy tiền với một tên lái buôn gian quyệt. Trọng Quì bị thua, vợ tự tử, nhưng vẫn được vợ thương xót, hiện hồn về cho chồng gặp gỡ và bảo đường cho chồng đưa hai con đi phò vua Lê đánh giặc lập công. Người nghĩa phụ Khoái Châu ấy, Nguyễn Dữ đã viết thành truyện trong Truyền kỳ mạn lục, một thiên tuyệt bút của văn truyện Việt Nam.
Từ Hưng Yên tôi lên Kinh Bắc, về huyện Tiên Du; xem hội với một chàng học trò cùng chàng vào ngôi chùa rồi chứng kiến vụ Giáng Hương làm gãy cành mẫu đơn quý nhất, bị bắt giữ trói vào cây. Chàng nọ cũng không có tiền, phải cởi áo ra chuộc cho người con gái, ai đâu lại ngờ rằng là tiên bỏ thượng giới trốn xuống trần để đi xem hội nghe hát Quan họ đến nỗi mắc nạn!... Tôi về cả xã Cách Bi, thôn Thi Xá, có hai mẹ con lưu danh thiên cổ. Mẹ thì ở góa, có nhan sắc, bị đe dọa hãm hiếp, quyết không chịu nhơ nhục đã trói chân đứa con trai lại một góc nhà với một nắm cơm rồi tự tay mình xẻo vú chết! Còn một giai thoại nữa, là bà mẹ này bị một tên hào lý đón đường bóp vú. Bà đã lấy dao tự xẻo bên vú bị lăng nhục đi và cho con bú bên vú nguyên vẹn, đến khi con biết ăn biết nói biết chạy thì tự vẫn chết. Con trai bà mẹ lớn lên thi đỗ rất cao, không chịu đi làm quan với Tây, đã mộ quân khởi nghĩa. Công việc không thành và bị phát giác. Tây bắt được dụ dỗ nhất định không hàng, lấy dao rạch bụng moi ruột mình ra để Tây thấy lòng mình trong trắng đến cùng, và cắn lưỡi cho đồng bào thấy máu mình tươi đỏ giữa trời đất ban ngày. Mẹ con liệt sĩ Nguyễn Cao tức Tán Cao mà nhân dân Bắc Hà tôn vào hàng "Long thành chính khí" sống mãi cùng Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương đấy!...
Tôi lên hẳn núi Tản Viên xem Sơn Tinh đắp thành cao chống lại Thủy Tinh, vừa xem Cao Biền, tướng nhà Đường cỡi diều giấy bay đi thám sát địa thế Giao Châu để làm bùa yểm. Nhưng thấy Tản Viên hùng vĩ và linh thiêng quá, Cao Biền liền xé bùa đi, ngửa mặt mà than rằng: "Vượng khí và thần đất Giao Châu vẫn mạnh lắm, không thể đóng ở đây lâu!". Tôi cũng lên xứ Lạng, vào động Tam Thanh và ngắm núi Tô Thị, rồi đi xuống Chi Lăng xem tướng giặc Liễu Thăng bị chém, nhưng vua ta sau đấy vẫn cứ phải đúc người vàng hàng năm cống hiến nhà Minh. Vì thế nên mới có câu: "Nợ quá nợ Liễu Thăng".
Tôi lên cả thành Hà Nội, dự trận Tây buôn Đồ Phồ - nghĩa cúng các quân tướng Pháp trở mặt cướp thành quan tổng đốc Hoàng Diệu đánh lại không được, phải tuẫn tiết. Rồi đến trận tướng Tây Ngạc - nhe bị chém cụt đầu. Quân ta có quân Cờ đen giúp sức, những tưởng không lấy lại được Hà Nội thì cũng chống cự rất lâu, giặc xâm lược không dễ nuốt Bắc Hà và ăn ngon ngủ yên được trên đất nước Việt Nam, nếu triều đình Huế không chịu hàng, cứ cho lệnh các nơi đánh lại! Rồi tôi theo cai tổng Vàng khởi nghĩa ở phủ Lạng Giang. Cai tổng Vàng mộ quân hai ngày được một vạn ba, tung hoành nghiêng ngả cả tỉnh Bắc xuống tỉnh Đông khiến vua triều phải sai đúc đạn vàng thì mới bắn trúng, hạ được ông cai tổng. Và khi chúng sai lính quật mả bố ông cai tổng Vàng thì có một con chim ra ràng bay lên, quan quân đã phải bắn chết ngay. Nếu không, chỉ ít lâu nữa huyệt kết thì cai tổng Vàng còn phát tướng không biết đến đâu! Cũng ở Bắc Giang, tôi vào sâu rừng Yên Thế đi với quân cụ Đề Thám và cụ Đề. Người thủ lĩnh này mặc dầu Tây bảo và có báo đăng, có ảnh chụp, rằng đã bị cắt đầu, nhưng dân cứ truyền đi: đấy là đầu ông sư chùa Lèo. Tây giết ông sư này bắt mọi người nhận là cụ Đề để làm yên dân tình, chứ cụ Đề Thám vẫn sống trong các thẳm rừng, khi ở Bắc Giang, khi ở Thái Nguyên, khi ở Vĩnh Yên, khi ở Tuyên Quang... và vẫn có người của cụ Đề đi về Bắc Ninh, Phúc Yên và cả Hà Nội nữa, mưu đồ việc nghĩa!
Bà tôi còn cho tôi làm quen với nhiều người và nhiều đời sống bình thường nữa.
Tôi đã "ở" với những hiệp thợ rất giỏi, rất tài. Đây là những thợ đấu người Hà Nam, Nam Định, tục gọi là dân Nam hạ, chuyên làm đất, mỗi nhát mai và mỗi tảng đất của họ xắn ra rồi quại lên vai trông cứ ngọt xớt, nhưng nặng ghê lắm đây! Bữa chính của họ thường chỉ là khoai lang đỗ luộc từng rổ, tôm trứng, cá bống rang kho với muối với tương mặn rụt lưỡi, và những nồi cơm gạo đỏ mà mỗi bát cơm chỉ và hai miếng gọn! Những thợ lợp nhà tranh khi đánh xong nóc, chủ nhà đưa tiền thưởng cho thì họ không nhận. Họ chỉ xin chủ nhà những đồng tiền thả từ trên nóc xuống, rơi được đồng nào, họ mới lấy đồng ấy. Cả trăm đồng thả xuống cả trăm! Những thợ mộc thì nhất định không để các kẽ, các mộng nào lọt, dù nửa sợi tóc chẻ ra. Nhiều ngôi đình nổi tiếng đẹp không phải vì vàng son, mà vì bào trơn, đóng bén và mỗi gian là một công trình sáng tạo của một hiệp thợ với các khung chạm trổ hoàn toàn khác nhau mà vẫn đăng đối nhịp nhàng, khít sóng, không ai chê chỗ nào được.
Tôi lại cùng bà tôi "về" những vùng có nhãn tiến, cam tiến, vải tiến và cả bắp cải, rau muống cũng tiến. Về những lò mật chuyên nấu đường phèn và đường bánh thơm ngon và quý còn hơn cả những đường kính, đường hộp bên Tây. Về những xứ thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo có những người chuyên nếm thuốc, không hút mà chỉ hít là biết ngay các loại khói, gọi là những "đô hít". Về một làng mà bất kỳ con gái nào không đi gắp phân là trai làng không lấy; còn cúng thành hoàng thì nấu chè lam đóng thành từng thỏi đựng bằng giành y như giành kiếm khuẩn, sơn son thiếp vàng, mà mỗi cụ tiên chỉ đến ngày vào đám cúng thần xong là được gắp ăn. Về cái chợ huyện nọ có một ông bố ba năm giả mù ngồi ăn mày ở cổng chợ để kén con dâu. Và về cả vùng biển toàn những đàn bà táo tợn, thời con gái dù đẹp đến đâu nhưng khi lấy chồng rồi là cạo trọc đầu, có con rồi thì thường chỉ mặc mỗi cái yếm, đi gặt thì đánh nhau với tuần phiên, cướp lúa nhà giàu gánh về nhà mình. Lính lệ, lính cơ mang trát quan đi bắt, vâng vâng dạ dạ mời các "cậu" ăn trầu uống nước xong lừa lừa khỏi làng liền ẩy sấp các "cậu" xuống ao, rồi trốn đi chỉ ít lâu lại về làng...
Bà tôi còn kể chuyện các đám hội, các ngày hội. Những "Mồng tám tháng tư... chẳng về hội Gióng cũng hư mất đời" hay ra Đồ Sơn, Hải Phòng: "Dù ai buôn bán đâu đâu. Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về!". Rồi hội chùa Hương, hội đền Kiếp Bạc. Và các gánh chèo, gánh tuồng, múa rối leo dây, thi bơi trải, thi vật, thi cỗ, thi thổi cơm, thi lợn, thi gà, thi chim, thi cờ, thi hát... Bà tôi tả lại từng sân đình, đường làng, từng tên ông thần bà chúa, từng ngôi đền, từng cây đa, từng quán chợ, từng thứ quà bánh, từng tên ông trùm, từng cặp đô, từng sới vật, từng cô tướng, từng đôi quan họ...
Có những nhân vật làm tôi ngạc nhiên hết sức. Những ông tiến sĩ, những ông trạng cha mẹ nghèo khổ, hay mồ côi cả cha mẹ, phải đi ở chăn trâu cắt cỏ, ăn thì ăn đói, mặc thì mặc rét, mùa đông muốn học khuya phải bắt đom đóm đựng vỏ trứng làm đèn và ngồi trong chuồng trâu mà xem sách. Nhiều người chỉ vừa chăn trâu vừa nghe giảng... mà ba năm sau thì học hết chữ của các ông thầy đều là tiến sĩ!
Về thuốc thì có những môn gia truyền rất lạ, ví dụ môn chữa hóc! Có một người bị hóc xương gà, chạy chữa các nơi rồi mà không được, đã sưng hết cả mặt, nuốt chỉ một giọt nước cũng không được, nhà sắp cúng kem, mua áo quan, chờ làm ma. Vậy mà gặp một ông cụ qua đường, ăn mặc rách rưới như ăn mày, nhưng gương mặt thì cứ sáng vằng vặc, vào nhà xin nước. Người nhà đã bưng cả ấm chè và khay chén mời ông cụ. Ông cụ thấy nhà nhộn nhịp mà lại âu sầu, thì nhẩn nha hỏi chuyện, rồi mách có một ông bạn ở một làng bên sông chuyên chữa hóc làm phúc cho tiên hạ, cứ tìm đến đấy xin chữa. Một đoàn người nhà con bệnh tức tốc mang một khay đầy đồ lễ đến, nhưng ông cụ lang nọ nhất định không lấy một thứ gì. Ông cụ chỉ hỏi qua bệnh tình và ngày sinh tháng đẻ rồi xuống bếp lấy chiếc đũa cả gõ vào ông đầu rau ba cái, đoạn lên bảo đoàn người cứ về nhà đi, và chỉ về đến cửa con bệnh sẽ khỏi. Khi đoàn người nhà vừa trở về đến cửa thì thấy trong nhà xôn xao, vợ con bệnh chạy òa ra khóc bảo chồng mình đã... họ bật ra được chiếc xương ba ngạnh, máu mủ đã quấn gần nút tịt lấy cổ!...
Còn một chuyện nữa nhưng là của tuổi thơ của bà tôi. Một hôm người nhà bảo bà tôi đi mua rượu thết khách. Cẩn thận, ông anh bà tôi đã buộc từng cọc mười đồng tiền kẽm, còn quả bầu rượu thì giựt giựt thử xem dây đeo có chắc không rồi mới quàng vào vai bà tôi. Bà tôi chạy ù đến đầu ngã tư thì sững lại vì mấy đứa bạn gọi vào xem... đánh ba que. Bà tôi đã ngẫm nghĩ, nhưng con mụ cò mồi thấy bà tôi tay nắm mấy cọc tiền, vai quàng bầu nậm, liền chạy ra kéo ngay vào:
- Này... Này... hay chị đánh trước cho mà xem đây này!
Thế là nó xỏ luôn ba đồng tiền kẽm vào cái dây rồi rút lên đúng là kéo theo chiếc que. Tức khắc, thằng cầm que trả luôn ba đồng tiền khác. Lượt thứ hai, mụ ta xỏ những năm đồng... thì cũng lại kéo đúng chiếc que lên và được thêm năm đồng...
- Đấy! Đấy! Đánh đi!... Thế nào cũng được đấy!
Bà tôi rụt rè cởi nút, bứt bứt một cọc tiền và đánh bạo lấy ba đồng xỏ vào một đầu chỉ và rút lên. Nhưng lạ quá! Rành rành là đầu chỉ buộc vào chiếc que và rành rành ba đồng tiền xỏ đúng qua sợi chỉ mà sao rút lại không đúng thế này?! Con mụ cò mồi liền thích thích vào sườn bà tôi và cầm lấy cổ tay bà tôi giục: "Đánh lại! Đánh lại! Thế nào cũng trúng, gỡ hòa chứ sao chịu mất, chỉ và que ngon thế cơ mà!".
Không hiểu sao bà tôi đã nhìn thật kỹ, nhìn thật rõ rồi mới xỏ tiền rút chỉ, thế mà cũng lại có chỉ không! Rồi lần thứ ba. Lần này bà tôi nhìn rất lâu, rất kỹ và xỏ hẳn những năm đồng tiền kẽm, và nhất định khi gỡ được là đi mua rượu ngay!
... Một lúc lâu, bà tôi cứ đứng ở bờ hè, ngã tư đường, trông sang hàng rượu mà khóc, lần đi đếm lại chín đồng tiền kẽm còn lại. Mãi sau có một đưa bạn gái ở nhà bên, hơn bà tôi chỉ hai ba tuổi, chạy đến - chứ không phải là tiên hay Bụt hiện lên - hỏi chuyện bà tôi và bảo bà tôi có vay tiền thì nó cho vạy. Bà tôi vừa ừ thì nó bảo, lệ có vay có lãi. Bà tôi cũng ừ. Nhưng nó bảo phải trả lãi gặp.
Lãi gặp?!
Lãi gặp?!
Trả lãi gặp là trả thế nào?
Bà tôi cũng lại ừ và xin trả lãi gặp, nghĩa là cứ mỗi lần bà tôi đi đâu, bất kỳ làm gì, mua bán gì, hay chơi gì cũng mặc, mà gặp nó thì phải trả nó một đồng tiền kẽm. Mấy ngày hay cả tháng không gặp thì thôi, chứ mấy lần gặp là mấy lần phải trả lãi. Dù chỉ ra khỏi nhà đi cầu tiêu hay bế cháu xi đái ngoài rãnh cũng là gặp, phải trả lãi!...
Tôi đã tức điên cả người lên khi nghe chuyện này, và tôi đã gặng mãi bà tôi phải trả như thế bao nhiêu lần, và tại sao không tích cóp, dù phải ăn bớt ăn xén chăng nữa, để có đủ mười đồng tiền kẽm vay và một đồng tiền lãi là mười một đồng trả vào một chuyến đi cho dứt cái món nợ quái ác? Nhưng bà tôi chỉ ngậm ngùi cho biết ngày ấy không bao giờ bà tôi được ai cho, hay đi mua bán bớt xén cái gì mà có được lấy năm đồng kẽm. Vả lại, có khi bòn nhặt được bảy tám đồng, chờ năm ba ngày nữa là đủ, thì lại gặp và lại gặp nhiều hơn!... Vì thế mà có những dạo bà tôi cả ngày phải chúi ở bếp, quanh quẩn trong nhà, và có ra ngoài thì cũng phải nghe ngóng rồi mới dám đi, còn hơn cả kẻ tù tội, trốn tránh!...
... Tất cả những truyện cổ tích, cũng như những chuyện về ngày xưa ấy, thời ấy, dạo ấy, tỉnh ấy, bọn ấy, người ấy, ông mày ấy, bác mày ấy, vân vân... bà tôi đã kể, tôi không thể sao nhớ hết.
Bà tôi đã khuất. Nhân kể lại mẩu chuyện vui vui cổ lỗ trên kia, tôi muốn coi mình cũng là vay nợ. Cố nhiên trong sự vay mượn này không có điều gì không tốt, không hay. Vì tôi vay của bà tôi cơ mà. Tôi đã vay một món chuyện to của bà tôi để làm vốn viết. Không thể cóp đủ và không bao giờ tích cóp đủ, tôi đã không thể trả đủ vốn thì xin phải trả lãi vậy.
Cũng trả lãi gặp! Và trả lãi gặp cho các bạn đọc của tôi. Đặc biệt là cho các bạn trẻ thích muốn tìm hiểu về quãng đời thơ ấu của một số nhà văn thân thiết và rất quý mến các bạn.
... Bà tôi đã khuất. Tuy không được nhìn mặt người trong những phút giờ cuối cùng, và từ bấy đến nay biết bao nhiêu người, bao nhiêu việc dồn đến đời tôi, nhưng tôi thấy như bà tôi vẫn ngồi, vẫn nằm nghe tôi đọc truyện, hay kể các chuyện cho tôi nghe. Từng nét, từng vẻ mặt bà vẫn rõ ràng đầy đủ trước mắt tôi, hơn tất cả những người thân yêu nhất của đời tôi, kể cả cha tôi. Mặc dù cha tôi còn để lại hai tấm hình chụp, mà sau khi người chết, tôi đã cất cẩn thận trong cặp, cứ đến giờ ra chơi hay đến trường sớm tôi lại giở ra trông ngắm, và tưởng tượng thêm ở những gốc cây, những bụi râm bụt vắng lặng, để sống thêm, sống kỹ lại với con người và cái hơi hướng đã làm tôi thương nhớ như cào như đốt, nhức buốt cả tâm trí. Và mặc dù tôi đã chực bên giường suốt từ lúc cha tôi nhắm mắt, rồi tôi đã ôm lấy mặt cha tôi lắc lắc mà nhìn mà khóc, cố kéo dài cái phút nhập quan.
Trong những buổi ngắm Mười lăm đàng thánh giá ở nhà thờ hay đọc kinh ngày giỗ của gia đình, tôi cũng phải học mười lăm đoạn đó, rồi cũng quên gần hết như một số bản kinh khác. Nhưng không hiểu sao, có một đoạn tôi lại rất nhớ và còn thuộc gần như trọn vẹn. Đó là Ngắm thứ sáu, quãng Đức Chúa Giê-su đang vác thánh giá thì có một người đàn bà đón gặp Chúa ở bên đường, đưa một khăn trắng cho Chúa lau mặt, lúc đó Chúa đầu đang đội những vòng gai nhọn quấn chặt, đâm thủng nát cả trán, máu chảy ròng ròng xuống cả mắt, cả má, cả cổ, cả người.
Thứ sáu thì ngắm...
Tôi khen lòng mạnh bạo của bà Vơ-nô-ri-ca chẳng sợ quân dữ, một mến Đức Chúa Giê-su mà thấy cả và mình máu chảy ra, thì trao khăn cho Người lọt mặt đi. Xin in hình tượng Đức Chúa Giê-su vào lòng tôi, như in vào khăn bà Vơ-nô-ri-ca cho tôi được lòng mến Đức Chúa
Giê-su cho trọn.
Trong cả lòng tôi cùng tâm trí tôi, hình tượng bà tôi đã in vào cung như hình tượng Đức Chúa Giê-su in vào khăn bà Vơ-nô-ri-ca. Không đội mão gai, bà tôi đội một khăn vấn lẳn gọn. Mái tóc bạc gần hết, đường ngôi rất thẳng, có những sợi bồng bồng trên trán và trùm cả xuống cổ và đôi vai to xệ như tai Phật. Mặt bà tôi không rỏ máu, nhưng với những chấm tàn hương trên làn da đồi mồi ấy, tôi thấy như là những giọt máu hay những vết thương bị đâm bị xỉa đã khô sẹo từ lâu. Sống hơn tám mươi năm, lấy chồng từ năm mười sáu tuổi, mười tám lần sinh nở, hết ở nhà hầu hạ anh ruột thì đi làm dâu hầu hạ chồng con, rồi hấp hối trong một gia đình đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt, một thân một mình vun thu hàn gắn mới dựng nên, nhưng đến lúc cuối cùng thì là cùng kiệt tan nát. Khuôn mặt bà tôi và bao nhiêu khuôn mặt của những con người đau khổ khác lồng vào bộ mặt một xã hội mà tôi càng phải suy nghĩ, càng phải so sánh rồi kết luận, thì càng thấy rõ những sự bất công tàn ác, những sự xấu xa, thối nát của một lớp người giàu sang quyền quý, được coi là mẫu mực, ngự trị mãi mãi, tưởng như không bao giờ thay đổi!
Tôi không có ý và cũng không muốn ví bà tôi hay những người bị áp bức bóc lột ngày đó là Đức Chúa
Giê-su. Vì tôi đã thấy trong đám người cùng khổ mà tôi quen biết, nhiều người phải chịu nhiều cảnh tủi nhục, oan ức, tàn bạo, còn hơn cả chúa Giê-su. Và họ không chỉ đi có một "quãng đường chịu nạn" mà hàng trăm quãng đường và cả một đời người chịu nạn. Cũng như không phải chỉ có một thứ quân dữ vác đòng, vác gươm, vác roi theo đánh họ cùng đường và cuối cùng đóng đanh họ trên cây câu rút, mà còn cả những thứ quân dữ ăn mặc rất phong nhã, mặt mày rất đạo đức, nói năng rất ngọt ngào, lời lẽ cử chỉ rất hiền từ, nhưng mà chúa là ác vô cùng. Chính những kẻ này vừa nhởn nhơ vừa phè phỡn, và vừa đôi phút làm ra vẻ nhăn nhó xót thương trước không biết bao nhiêu con người bị chúng đóng đanh, suốt từ phút lọt lòng mẹ cho đến lúc chết rũ trên cây câu rút của nghèo đói và tối tăm.
Nhưng cũng không phải chỉ có những câu rút và những hình tượng đau thương đã in vào cái làn trắng tinh khôi của cả và lòng tôi, tâm trí tôi!
Còn có những gương mặt vằng vặc rực rỡ của Chung thủy, Nhân hậu, Công bằng, Chính nghĩa, Chiến đấu, Chiến thắng và Hạnh phúc nữa. Với những cô Tấm, Nhị Khanh, Cúc Hoa, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh và biết bao nhiêu hình ảnh và tên tuổi đã thành thơ, thành cổ tích mà bà tôi ngâm nga và kể chuyện cho tôi nghe. Bên cạnh đó lại còn những anh hùng, danh tướng, những công thần chống giặc giúp nước và những liệt sĩ, những chiến sĩ cách mạng mà tôi được học, được đọc trong sử sách, báo chí thuở ấu thơ, càng ngày càng đằm thắm, càng chói dọi. Đến tận giờ đây và mãi mãi tôi sẽ mang theo vào đời viết văn lòng tin yêu vô cùng đó ở sự sống và tương lai.
Lần thứ hai tôi ra Hải Phòng là lần bỏ hẳn quê hương Nam Định, thật sự tìm đường sinh sống. Đúng vào đầu kỳ khai trường và những ngày đầu thu nắng đẹp. Nhưng tất cả những quang cảnh thân yêu, thân thuộc ấy chỉ càng làm tôi xót xa.
Gian nhà tôi thuê ở giữa xóm Cấm, ngay dưới chân một gác chuông nhà thờ. Sáng, trưa, chiều, tối, khuya, những hồi chuông nối tiếp nhau khua vang cả cái khu lao động nghèo khổ lầm than, gồm phần đông là thợ máy tơ, phu khuân vác cảng Sáu Kho, thợ sắt, thợ điện, thợ linh tinh, kéo xe, phu hồ trên phố và những người buôn thúng bán bưng... Càng không thể tìm ra việc làm, càng không thể nhờ cậy vay mượn ai một thứ gì để lần hồi được nữa, tất cả những nhà máy xi măng, máy tơ, cốt phát, máy gạch, sở dầu, bến cảng Sáu Kho, hiệu buôn Đét-cua-ca-bô, Sáp-phăng-giông, Lợi Thành, Lợi Ký, v.v... mà tôi chầu chực nghe ngóng hàng tháng hàng tháng kia đã hoàn toàn lạnh lùng và khắc nghiệt đối với tôi, nghĩa là tôi càng đói, cơ hồ gần như tuyệt vọng, thì tôi lại càng nghĩ đến những ngày cuối cùng bà tôi sống với tôi. Tôi đã thức giấc giữa những đêm khuya và những tiếng lầm thầm rền rĩ của bà tôi trong màn và tôi phải nằm yên mà nghe cho đến lúc hết. Và dù hết đã rất lâu rồi, bà tôi nằm xuống rồi, mà tôi vẫn thấy những tiếng đó ong ong bên tai: "Lạy Chúa tôi! Tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi. Xin Chúa tôi thẩm nhận lời tôi kêu van... hãy lắng nghe tiếng tôi cầu xin...".
Không! Không phải đâu bà ơi! Cuộc đời này cũng như sự sống này hay cả và thế gian này không phải là một vực sâu đâu! Hay nếu có một vực sâu, thì đấy là sự mê muội tối tăm mà các thứ giáo lý giáo điều của tôn giáo đã tạo nên và chính nó lại dìm con người ta xuống. Hay nếu như có một vực sâu của tội lỗi, của sa đọa, của hư hỏng, chết chóc, thì chính là ở cái chế độ xã hội bóc lột và áp bức, dưới sự thống trị của một bọn nhà giàu nắm mọi quyền hành mà sinh ra. Bởi vậy những ai bị đẩy xuống thì phải bằng mọi cách vùng lên, vượt ra, rồi đi tìm một mặt đất, một bầu trời khác thênh thang, tươi sáng mà sống. Chứ quỳ lạy kêu van thì làm sao mà thoát được?! Và ai đời lại đi kêu van, cầu xin một thứ "giời ơi đất hỡi" như thế?! Và cũng ai đời lại phải quỳ lạy một sức độc ác vô hình, vô tri, vô giác, chính nó đã tù đày, phá hoại đời mình?!
Những đêm đi qua nhà thờ hay những gia đình hàng xóm, nghe đọc đoạn kinh Vực sâu, tôi lại nhớ đến bà tôi và càng thấm thía với những ý nghĩ và sự suy luận trên đây. Tôi lại càng thấy, mặc dầu túng đói, khổ cực khó khăn, trầy trật và cùng khiệt đến thế nào, tôi cũng không được thua hoàn cảnh, không chịu ngã sấp dưới hoàn cảnh, hay bị chúi gục xuống cái "vực" của xã hội bấy giờ!
Nghĩa là tôi phải có một công việc để những năng lực quý báu nhất của tôi sử dụng và nảy nở. Một công việc để tôi được thể hiện những tình thương yêu tươi đẹp nhất, mạnh mẽ nhất của tâm hồn tôi. Một công việc để tôi sống với cái lý tưởng mà tôi thấy rằng cao quý. Một công việc để tôi chống lại những điều mà tôi thấy càng bất công, xấu xa và độc ác. Một công việc để tôi được gần gụi hơn, được nhập vào những con người, những lớp người đông đảo lao động chịu thương chịu khó ở chung quanh tôi. Một công việc để tôi được giới thiệu mình đang sống và sống có ích, tự trọng và tự hào.
Tôi lại càng nhớ đến một câu chuyện cũng về cảnh nghèo, cảnh đói, sức lập thân và cũng là của một học trò, bà tôi đã kể:
"Có một người con gái nọ đã phải suy nghĩ về một anh học trò trọ ở cạnh nhà mình. Vì cứ đến quá trưa thì anh lại bẽn lẽn nói qua bờ rào mượn cô gái cái nồi thổi cơm của nhà cô. Hai lần, ba lần, năm buổi rồi sáu buổi. Cô ta lấy làm lạ nhưng cũng đánh bạo hỏi, thì chàng học trò bảo mượn nồi để nấu nước uống... Cô ta càng sinh nghi, bèn rình xem anh nấu nước gì và uống ra sao, thì thấy anh đưa nồi về chẳng rửa gì cả, mà đem giấu ngay vào trong bếp và đổ có hai gáo nước. Anh nấu sủi kỹ thì múc "nước" ra bát, cho muối, lấy cơm mà chỉ ngày ngày có bữa "cháo" như thế!
Hiểu ra khúc nhôi sự tình, người con gái nhà cũng nghèo nọ, từ bữa hôm sau, lúc ngồi đầu nồi xới cơm cho gia đình cứ lừa lừa để lại, trước còn một môi cơm, sau nửa bát cơm, sau cả một bát cơm... Anh học trò mấy năm sau thi đỗ thủ khoa, và cô gái hàng ngày cho anh mượn nồi nấu nước uống ấy thì...".
⚝ ❖ ⚝
Tôi quyết viết văn và quyết thành người cũng vì để khỏi xấu hổ với anh học trò cổ tích ấy.
Tôi quyết viết văn và quyết thành người cũng vì để khỏi xấu hổ với cả cô con gái cổ tích ấy.
Tôi viết nên cũng vì có bà tôi!
1972