← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI

CHƯƠNG VI

MẤY NĂM CUỐI CÙNG RA TRƯỜNG

Cái trường Gốc Ngái ấy càng như trơ trụi và tẻ nhạt. Bể chứa nước đã xây xong, lù lù trước trường. Liền ngay đấy là sở Cẩm, đủ cả nhà chánh cẩm, phó cẩm, bàn giấy và bóp cút lít (32), suốt ngày có các xe đạp, cút lít đi lại, ra vào. Quãng vườn rộng chỉ có một hàng rào sắt bao lấy dinh công sứ đã xây tường cao. Trước đấy chúng tôi chỉ kiễng lên là có thể bứt được những chùm hoa bên trong, nay phải kiệu nhau, và cũng không dám lấy vì có sở Cẩm bên đường. Còn miến Gốc Ngái nghe đâu sẽ chỉ được cúng lễ những ngày tuần rằm và chỉ đến mười một giờ đêm theo với giờ các rạp hát thôi. Để các quan cẩm, quan sứ và mấy quan gần đấy còn làm việc và nghỉ trưa, nghỉ tối.

-----

(32) Police: cảnh sát.

Chưa đủ! Cái bãi đất lầy lội rất nhiều lau lách và cây gai ở đường phía trên trường tôi đã bị lấy và xây thành khu trường con Tây. Chính vì bọn này mà cả trường tôi và trường con gái gần đấy phải xếp hàng ra về lúc tan học. Riêng trường tôi, học trò không dám nghịch như trước vì có cút lít hai buổi đứng gác đầu đường để giữ gìn cho trường con Tây.

Cuối cùng là số phận các bờ búi, cây cối. Tất cả những hàng rào râm bụt, găng, ô rô, dong tây của trường đã phát hết, xây tường. Những cây khác rất to, thân thuộc bao năm với chúng tôi, một là cây bồ đề, hai là mấy cây bàng, ba là mấy cây cơm nguội ở gần bờ đường mà không vào hàng vào lối, đều bị chặt hết. Có cây bồ đề năm xưa đã làm thành trì và bãi chiến trường của những trận giao tranh giữa hai sứ quân Đinh Bộ Lĩnh và Nguyễn Cảnh Thạc và lớp bét trường Bôn-be hay là trường Tú sĩ gần đấy. Những cây cơm nguội với những chùm quả lăn tăn chát xít ở cuối trường tôi đã thành những kho lương thực vô tận của chúng tôi, cũng bị cưa dần, cưa hết!

Còn những bụi râm bụt, hoa đỏ thì kết làm tượng đài, làm bàn thờ, làm cờ tiết, cành lá và các gốc rậm thì rào rấp thành hang, thành trại, vừa mát vừa đẹp, và những bãi chua me ngay cạnh, hoa lá đều ăn được, củ đào lên trong như thạch, ngọt tuyệt trần, thì lem lém chỉ mấy hôm là phạt quang!

Từ lớp nhì năm thứ nhất và năm thứ hai đến lớp nhất tôi chỉ còn học mỗi tuần lễ có hai giờ bài tiếng Việt: bài tập đọc và bài học thuộc lòng. Ở lớp nhất, giờ làm văn Quốc ngữ lại không có; mỗi tuần đều có một giờ tập làm văn chữ Pháp. Những năm này tôi đã ít đọc các truyện Tàu và các tiểu thuyết tình như loại Bình Sơn Lãnh Yến và Tuyết Hồng lệ sử. Tôi bắt đầu mê báo và truyện ngắn mới, thơ mới, tiểu thuyết mới. Tôi phải tìm các bạn nhà đặt các báo như Ngọ báo, Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Đông Tây, v.v... mà cạy cục đọc nhờ, cạy cục mượn về nhà để "nghiền" các văn phóng sự, truyện ngắn của Ngọ báo, các lối viết của Hoàng Tích Chu, của Huỳnh Thúc Kháng, hay tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, của B.Đ...

Những năm tôi lên tám, lên chín, tôi đã đọc những truyện dịch như Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký, Qui-li-ve du ký, Tê Lê Mặc phiêu lưu ký (33)và Ba người ngự lâm pháo thủ, hay những trinh thám tiểu thuyết như Châu về Hợp Phố, Ai là thủ phạm, v.v... Đến năm này, những sự việc ly kỳ, lắt léo và liên chi hồ điệp ấy không còn kích thích tôi nữa. Nhân vật, tình người và cuộc đời thật của xã hội cùng với hồn văn, khí văn đã là những nguồn cảm hứng chính của tôi.

Tôi đọc lại Thủy hử. Cùng khoảng này, tiểu thuyết Vô gia đình (34)của Éc-to Ma-lô đến với tôi.

-----

(33) (34) Tôi giữ nguyên tên các bản dịch đọc ngày ấy (N.H.).

Năm tôi lên được lớp nhì năm thứ hai, mẹ tôi đi Thanh Hóa, bỏ hẳn tôi cho bà nội và cô tôi. Việc làm của mẹ tôi là giữ con (gọi là ở vú đầm) cho vợ chồng một tên Pháp viên chức nhà đoan, không còn nữa. Tuy lương tháng chỉ được sáu bảy đồng, nhưng mẹ tôi vẫn có tiền gởi về cho anh em tôi, tháng hai đồng, tháng ba đồng. Nay lại lần hồi chợ búa, vốn liếng không có, phải cất chịu của một người họ những bóng đèn và hương để bán kiếm lời, nên mẹ tôi phải đánh đến cái bài "chầy" như thế. Cô tôi có bảo tôi mới biết mẹ tôi đã đi bước nữa. Mẹ tôi ăn ở với một người đã có vợ. Mẹ tôi lại có mang. Mẹ tôi đưa em gái tôi đi vì bà tôi không thể nuôi nổi cả hai anh em tôi, vừa phần để bế em cho mẹ còn chạy chợ.

Nhà tôi càng không còn một thứ gì bán ra tiền nữa. Tất cả những đồ đạc mà bà tôi cố giữ sau khi cha tôi chết, để nếu đến lượt bà tôi thì còn có thứ bán đi mua ván, thuê đòn và xin lễ nhà thờ, v.v... cũng phải gọi người bán nốt! Gia tài chỉ còn vẻn vẹn một cái giường để bà tôi, cô tôi và con gái cô tôi nằm, và một cánh phản đóng bằng ba tấm gỗ tạp vừa hở vừa kênh, ngày xưa để dưới bếp bày các thứ rổ rá, bát đĩa dọn cơm cho khách ăn hàng, nay là giường của tôi. Cả cái chăn bông cha tôi và tôi đắp cũng bán. Trời rét, phản kê ngay lối đi xuống bếp chẳng có cửa, có liếp gì cả, tôi co ro trong cái xác chăn sợi cũ ngày trước lót giường của cha tôi.

Cố nhiên là ăn đói.

Càng cố nhiên tôi đọc sách, đọc truyện mê hơn, say hơn, cảm thông và suy nghĩ nhiều hơn.

Bấy giờ tôi thấy còn thêm một bạn nữa có khi lại thân thương hơn bạn thân. Bạn này lại còn có nhiều cái hay, cái tốt, cái quý, cái lạ mà bạn thật chỉ được một phần. Đó là thằng bé Khả Dân và con chó Khai Tị trong tiểu thuyết Vô gia đình. Tôi đi cùng thằng Khả Dân và con chó Khai Tị làm xiếc và đàn hát với ông già Mỹ Đăng nghệ sĩ (35) thấy sao mà gần gũi, cứ tưởng như là theo một ông trùm trò hay ông xẩm tiên cách vậy. Nước Pháp băng giá và mưa tuyết vẫn xa xôi nhưng không còn xa lạ nữa. Tôi đeo ba lô, vác đàn và dắt chó, bụng ù ù róc rách, da mặt, tay chân tê cóng tím ngắt, lại càng thấy tình yêu thương mênh mông trong những bước đường cùng quẫn cơ cực của các nhân vật. Rồi khi ông già Mỹ Đăng hấp hối, thì tôi ngẩn ngơ, buồn tiếc vô cùng. Không phải chỉ phút giờ ngừng đọc mà cả ngày và hàng tuần sau, rất lâu về sau, những khi chợt nhớ đến hình ảnh và tình tiết của những hạnh phúc, của những niềm vui bé nhỏ và cảnh xảy đàn tan nghé nọ.

-----

(35) Tên nhân vật và tiểu thuyết tôi giữ như từ bản dịch cũ (N.H.).

Đói đọc sách đã thấy quý sách.

Vừa đói vừa rét lại càng quý sách thêm.

Bơ vơ, trần trụi mà lại có sách đọc thì những trang sách còn hơn cả những cánh thiên thần đưa mình bay lên thiên đàng.

... Năm ấy bà tôi và tôi lại chuyển nhà. Chúng tôi ở nhờ gian bếp của người chị ruột cha tôi ở phố Hoa Kỳ, thường gọi là Bến Gỗ. Mấy nhà giàu có lán gỗ to sống cách biệt hẳn. Cả mấy gia đình công chức nhỏ cũng hết sức ra vẻ nền nếp phong lưu. Đường phố chỉ ồn ào nhộn nhịp mỗi khi có những bè gỗ mới chuyển về, các đống gỗ xếp dọn lại, hay một vài bọn khách mua gỗ thuê xe đến lấy hàng. Dô - ta này, hò dô - ta này..., những người phu gỗ hầu hết quần áo rách rưới, gầy sắt, kéo những xe bò rất nặng và bẩy những cây, những tấm gỗ lim, gỗ gụ, gò ngực, căng gân mà hò... Nhờ dịp này, mấy hàng cơm, hàng quà ngã tư cũng tấp nập.

Những ngày rét giá, nhà nào nhà nấy đóng hết cửa. Ngoài đường, thỉnh thoảng nổi mấy tiếng rao "lạp xường phàn" (36), "ai bánh tây nóng ra mua", "mọc ra mua" và tiếng chuông leng keng của hàng bánh kẹo, tiếng gõ "sựt tắc, sựt tắc" của hàng mì vằn thắn. Gió bắc như xoa vụn thủy tinh vào mặt người ta, và bắt phải nghiêng người, khép chặt các tà áo, cúi mặt xuống mà đi.

-----

(36) Xôi lạp xường.

Mấy hàng hoa, sang tháng Chạp, gánh bán rong nhiều hơn. Những cúc vàng, cúc trắng, những hải đường, cẩm chướng đi trong những lớp nắng gió thổi phơi phới, hay đỗ ở đầu ngã tư dại nắng, trông càng tươi rực.

Tôi nằm vừa nghe tiếng dô ta, tiếng rao hàng, tiếng nắng reo và cả hương cúc thoang thoảng. Giữa sáng chủ nhật, trưa thứ năm mà tôi chẳng muốn đi đâu, chẳng thiết đi đâu. Cũng vì thế tôi càng đọc kỹ sách, càng đắm vào sách.

Có mấy người đã chú ý đến tôi. Mấy người này quê vùng biển, trước cùng ở nhà người bác họ phố Hàng Sũ với tôi. Họ đã chuyên hẳn việc gánh nước và đủ sức cạnh tranh xoay giở ở chung quanh cái máy nước, sống với đôi thùng của mình... Anh em con cháu họ đã cố ở lại làng cày bừa làm ruộng hay đi lưới đi biển nhưng sau cũng phải bỏ. Mấy anh trai tráng này không chịu sống như cha chú, rủ nhau đi lính mộ. Năm đó Nhật mở rộng chiến tranh ở Mãn Châu và nghe nói đã bắn phá cả nhiều tỉnh to, nhiều bến cảng lớn ở Trung Quốc nữa.

Họ vào lính, ký giấy giao kèo xong được lĩnh ngay ba mươi đồng, lúc nào xuống tàu đi Thượng Hải được lĩnh thêm hai mươi đồng nữa. Tôi còn nhớ kỹ, cả mấy người đều vậm vạp cao lớn, quần áo phát cứ mặc căng, phải đem ra ngoài can thêm, chữa lại. Vợ con, cha mẹ họ, trước chỉ có một gia đình, sau hai ba gia đình, sau cả chòm gánh nước làng nọ, đều cậy cục tôi viết thư gửi cho họ. Tôi được gọi bằng cậu. Có nhà còn gọi tôi là cậu giáo!

"Cậu ấy biên thư hay quá! Tài thật! Mình chỉ mới nghĩ mà đã thấy nhức cả đầu, vậy mà cậu ấy viết một lúc hai ba thư, thư nào cũng dài thì giỏi thật! Giỏi thật, phải có văn có sáo thì mới viết thư như thế được, mình chỉ kể qua mấy chuyện, mấy việc, hoặc lắm khi chẳng cần mình kể, mình dặn gì cả, mà cậu ấy cũng viết được đủ hết các ý, các điều của mình! Thôi, để khi khác hay đến trưa mai, cậu ấy viết cho. Chết, nghe đọc lại một lần rồi lần thứ hai cũng đủ rồi, sao cứ bắt cậu ấy đọc đi đọc lại mãi thế kia!...".

Thế là hàng tháng tôi có được một món tiền. Khi hai hào, khi ba hào một lúc. Khi rải rác năm xu hay một hào. Cứ mỗi thư, gia đình trả năm xu. Những kỳ họ được lĩnh tiền và nhận thư và nếu thư trả lời từ Thượng Hải, Thiên Tân đó lại báo tin tốt lành, mà tôi phải khó khăn lắm mới đọc nổi các chữ viết vừa xấu, vừa sai, rắc rối quá, thì tôi được cả hào. Tôi xuýt quên, có gia đình, nhất là các bà mẹ, các cô vợ, còn mời tôi hút một điếu thuốc lá, vừa đưa tay hai điếu khi ra về...

Nhiều buổi tôi ngượng chín cả mặt. Có ông bố móc móc hầu bao, có đủ cả hào con, đồng kền năm xu và xu lẻ, nhưng chọn chọn và kiểm đi kiểm lại mãi mới đưa tôi một đồng kền năm xu và ba xu lẻ trả công viết cho hai thư gửi con trai và con rể. Ông ta cười cười và nắm lấy bàn tay tôi, không phải vì thẹn với cái lệ thường, mà hình như sợ tôi không ưng thuận cái giá bất thường nọ. Trái lại, có những bà mẹ và người vợ cũng cười và nắm vào tay tôi cũng như sợ tôi thẹn, trả cho tôi những hào rưỡi hay hai hào, mà tôi chỉ phải viết có hai bức thư ngắn vẻn vẹn mấy câu thăm hỏi, báo tin cả nhà vẫn được bình an, nhưng có kèm theo mấy câu thơ lục bát tự tôi đặt ra có lồng tên đứa cháu bé hay nơi ăn chốn ở và công việc làm ăn của gia đình.

Làm tôi ngại viết nhất và ngượng nhất khi nhận tiền của một chị trước kia tôi vẫn gọi là cái T..., hơn tôi chỉ hai ba tuổi, thế mà nay đã có mang. Chị cứ tự nhiên như không, nằm phục bên cạnh tôi, bắt tôi viết theo những câu chị đọc, và còn đợi tôi đọc đi đọc lại những đoạn dặn dò chồng...

Cái chòm gia đình tha hương nọ vẫn phần đông là người công giáo. Họ thuê chung một khu lán gỗ. Gia đình thì quây buồng bắc ván trên những cột nhà; già đình thì ở lọt vào những đống gỗ. Để tỏ ý tôn trọng tôi, vừa phần không thể túm tụm ở khe đống gỗ được, nên họ thường mời tôi lên sàn gỗ bắc trên cột nhà, nằm bò trên chiếu đậu hẳn hoi mà viết. Các thứ mồ hôi, quần áo, đầu tóc... các thứ hơi thở trầu cau, thuốc lào, các tiếng chí chóe, đe mắng, khẩn khoản cứ quấn lấy tôi. Lần nào cũng vậy, khi nhận tiền và thuốc lá xuống cầu thang, tôi lại choáng váng, mu mi mù mì cả người, bụng bảo dạ đến phải thôi không nhận viết lách thuê như thế nữa.

Nghỉ hè năm ấy, tôi đã theo một lớp học tư để chuẩn bị thi lên lớp nhất. Cùng học với tôi, mấy đứa bạn quen đều học giỏi cả. Đã thế, thầy lại dạy rất nghiêm, ra toàn bài khó nhất về toán và luận Pháp văn, làm tôi càng ngại càng nản. Nhất là tôi lại thấy tháng học ít ra tôi cũng phải trả từ một đồng bạc trở lên, mà tôi chưa biết trông cậy vào đâu! Gần hết tháng thì tôi bỏ học và tôi quyết định lên Hà Nội để tìm việc gì đó mà nuôi thân...

Tôi ra đi một mình. Tiền tàu và ăn đường có một đồng bạc. Đồng bạc này cô tôi vay được của một người bạn để xin lễ và mua nến thắp tối đọc kinh giỗ ông tôi. Trốn đi với cả đồng bạc giỗ ông, tôi đã tự coi mình như kẻ trọng tội. Thứ nhất là lừa bà nội, bỏ bà nội tôi! Tự tôi đã cắt đường sống của tôi với gia đình rồi vậy!

Tôi có một người anh họ con cô con cậu. Bố mẹ anh mất năm anh còn bé và người anh anh mới lẫm chẫm biết đi. Mẹ tôi nuôi anh tới ngày anh học đến lớp ba. Người chị cả thầy tôi không có con, lại nhận nuôi anh. Anh đang học thì bỏ lên Hà Nội xin được chân thợ sữa chữa bản in ở nhà in Viễn Đông. Thấy anh cũng chỉ lớp nhì như tôi mà đã ra đời được, nên tôi càng nung nấu ý muốn lập thân.

Tôi lấy vé tàu thủy mất ba hào. Tuy đã tính toán rất kỹ và nhủ đi nhủ lại không được ăn quà, nhưng rồi tôi cũng tiêu mất hơn hai hào tiền phở, tiền bánh giò, và dứa chuối. Tàu đến bến sớm, tôi hỏi thẳng tới chỗ anh tôi làm. Nhưng tới nơi thì vừa tan tầm. Tôi chờn chợn, thấy nói có người tên như thế làm thợ in và thường thường ăn cơm ở đây nhưng nhà đâu ở trong xóm dưới Bạch Mai. Tối hôm ấy, đi các phố chồn cả chân, bã cả người, tôi lại ăn phở, ăn quà gần hết tiền. Không đủ tiền trọ, tôi ngủ ở ghế ga tàu điện Bờ Hồ, đầu gối lên gói quần áo và hai quyển sách, một quyển sách toán, môt quyển tập đọc Pháp văn, sẽ để học thêm. Cũng vừa làm vốn hộ thân, nếu không gặp anh tôi hay nhỡ xảy ra sự chẳng may, thì bán đi lấy thêm tiền ăn. Cùng quá, tôi sẽ cất báo hay mua mía, mua bưởi bán rong lần hồi tới khi xin được công ăn việc làm tử tế. Rồi đây, những ngày lang thang, tôi sẽ tìm hỏi cả việc đi theo gánh xiếc, sống như thằng Khả dân trong tiểu thuyết. Tôi tin vào sự gan dạ, mềm mại, lanh lẹn của tôi, và trước đây tôi cũng đã tập nhào lộn, làm trò nhiều lần ở đám đông, tôi rất có thể mau chóng thành nhà nghề được!

Ở với anh tôi một hôm, tôi bắt đầu chán nản ngay. Anh tôi đúng là mỗi tháng được lĩnh lương những chín đồng rưỡi. Nhưng đây, bà mẹ vợ anh kể rành rọt:

- Anh ấy phải đóng họ, trả tiền lễ lót chân cho nhà ông xin việc hộ mất ba mươi đồng. Tiếp đó lại phải đóng họ trả sáu mươi đồng tiền sắm sửa đi về Nam Định xin các giấy tờ và làm lễ cưới chị ấy ở nhà thờ! Hơn năm giời mới dứt được tiền bát họ! Sang năm nay lại phải lấy bát họ bốn mươi đồng để mua giường chiếu, may bộ quần áo, đóng đôi giày tây, sắm cái ô, như thế mỗi tháng lại chỉ còn có bốn đồng rưỡi. Hôm râm mát đã vậy, ngày mưa gió, nắng nôi mà nghỉ trưa chỉ được có hai tiếng đồng hồ, chả nhẽ lại nhịn đói ở sở. Thế là phải ăn cơm hàng bữa trưa, tháng thì hai mươi hai bữa, tháng thì đủ cả hai mươi bốn, hai mươi lăm bữa, bóp mồm bóp miệng cũng mất ba đồng hay hai đồng rưỡi. Đã vậy, thỉnh thoảng lại hai hào tiền giặt là, một hào tiền xe điện. Vậy thì...

Không! Không! Tôi thật không dám mảy may nghi ngờ bà nhạc anh tôi đã được sơ múi hay lãi lờ gì trong việc gả con gái cũng như thổi nấu cho anh tôi! Tôi tuy còn trẻ con học trò, nhưng cũng đủ tuổi mà biết rõ hơn nữa, là vợ chồng anh tôi ở nhờ, tiền thuê nhà, dù chỉ kê một giường và cái bàn nước ở Hà Nội cũng phải trả hai đồng là giá rẻ, là chỗ người nhà! Đã thế lại còn một miệng ăn vào lưng anh tôi: anh Ch. Anh này đi cao su Đất Đỏ, chuộc được "công ta" (37), người vàng như nghệ và gầy như mắm, từ Nam Kỳ ra ở với anh tôi đã hơn sáu tháng. Giờ đây lại thêm miệng tôi! Chao ôi! Một ông anh ruột, một chú em họ, trong lúc cơ nhỡ phải nương tựa vào một nơi thân thích mà cả vợ chồng đều có công ăn việc làm hẳn hoi!

-----

(37) Hợp đồng. Ý nói đã trả được nợ, thoát khỏi sự ràng buộc của hợp đồng.

Tôi đang sức ăn, vừa phần lại đi cả ngày, nên không bữa nào thấy no. Tôi chỉ dám đưa người ngồi đầu nồi xới ba lần cái bát phố nhỏ chum chủm lọt lòng bàn tay, vào loại bát để trẻ con hay người già nghèo đói ăn. Cơm thổi gạo đỏ, đong chịu từng mười cân, trả vào đầu tháng lương của anh tôi và kỳ nhà chị dâu tôi được lĩnh tiền hàng. Rau muống luộc từng rổ sề, cà muối xổi đựng bát chậu và nước mắm hạng sáu bảy xu một chai. Thứ nào cũng phải mua chịu. Tôi đưa xới cữ cơm và không dám gắp ăn như thế vì phải trông nồi và trông cả người.

Cả nhà ngồi một mâm. Bà nhạc anh tôi, chị dâu tôi, cô em gái chị dâu tôi, và hai cô cháu họ bà nhạc anh tôi cùng ăn với ba anh em tôi. Lo chạy ăn hai bữa đã có bà nhạc tôi. Còn các chị, các cô gái trong nhà cả ngày phải làm hàng đăng ten và rua khăn. Không phải chỉ có buổi trưa buông đũa xong là lại phải ngồi vào khung vải, mà cả tối nữa. Đêm có trăng và nực quá thì ra sân làm, mỗi người kiếm thêm ba bốn xu.

Đi lang thang chán rồi về nhà nằm chờ cơm, sau hơn tuần lễ, tôi thấy trong người dần như lửa đốt. Mươi hôm sau thì tôi bị rằn bị căng hết cả ruột gan. Gần cuối tháng, tôi không còn thể đi chơi được nữa mà chỉ quanh quẩn ở nhà, ngẩn ngơ, nhiều lúc muốn khóc. Không phải vì tôi bảo anh tôi cho tôi về Nam Định nhưng không được, mà vì anh tôi không chạy được tiền. Bà nhạc anh tôi đã vay nợ tiền gạo, tiền mắm muối, rau cà, bao giờ cũng lội vào tiền hàng... Mỗi người trong nhà, kể cả chị dâu tôi làm nhanh và làm giỏi nhất, cũng chỉ được tháng bốn đồng rưỡi hay năm đồng rưỡi. Mỗi chuyến hàng đem đi trả, cứ phải chờ chóng nhất cũng hơn tuần lễ. Tiền đó trang trải nguyên tiền gạo cũng thiếu. Như thế, đành phải nuôi tôi ăn rồi đi chơi vậy thôi, chứ chạy hơn đồng bạc cho tôi thì không còn thể vay đâu được!

Anh tôi được lĩnh lương trưa thứ bảy thì sáng hôm sau, tôi ăn cơm rang xong, anh tôi đưa tôi ra bến tàu thủy với gói quần áo đã giặt và gấp cẩn thận từ hôm thứ sáu. Anh tôi lấy vé tàu, dặn đi dặn lại phải đưa đủ hai phong bánh khảo và hai phong bánh đậu xanh cho bà tôi, và cho thêm tôi hai hào. Anh đứng trên bờ chờ tàu rúc còi đủ ba lần, nhổ neo, quay mũi rồi mới đi...

Tôi biết rõ, thật là tôi đã bị áp giải và nói toạc vào mặt rằng: ở Hà Nội không hiệu nào, sở nào lại thừa cơm mà thuê cái thứ nhóc con lớp nhì như tôi làm việc gì đâu! Từ rày về sau, tôi đừng có trốn nhà lên đây nữa, vừa làm buồn bà tôi, vừa để nợ cho anh tôi, và nếu tôi lại lên thì có chết đói, anh tôi cũng mặc!

Mặc kệ! Tôi cứ như được tắm, được gội và chắp cánh. Sự vui mừng chính là vì được về với bà nội tôi, nhưng còn sự vui mừng này nữa, là về với cái lồng chim khuyên. Tôi phải để đến đoạn này mới viết về cái lồng chim, vì đây cũng là một trong những kỷ niệm sâu sắc của tuổi tôi thơ ấu.

Năm tôi lên bảy, lên tám đã thích chơi chim khuyên. Tôi còn đua đòi với mấy đứa lớn mua lồng sập để bẫy khuyên bán. Cố nhiên, với tiền xin được của mẹ tôi. Năm đó, tôi lấy hẳn hai hào công viết thư mà mua cái lồng ba tầng khung gỗ thông, nan tre chuốt cẩn thận, cóng ăn là hai chén trắng con. Một con chim giá thường lúc đó ba xu nhưng vì kén chọn nên phải trả những năm xu. Vì sợ chim ăn chuối bị ỉa chảy, chết non, tôi cho chim ăn bột đậu xanh trộn với cứt sâu quy bảo rằng để làm thuốc cam trẻ con, và cả những bọ sâu quy sống ngọ ngậy, lạo xạo. Tôi còn kiếm những loại hoa như hoa riềng tây có nhụy ngọt, gài để chim rỉa và trang điểm cho đẹp lồng thêm. Chưa đủ, tôi còn đi xin hoa ngâu, lá ngâu non gài bên chén nước cho chim tắm và rúc rỉa, vùng vẫy.

Như thế, tôi chỉ kém có mấy hiệu Khách, mấy nhà giàu và mấy nhà chuyên môn nuôi yến, nuôi sơn ca thôi! Lồng của họ thửa, ken thêm bằng mây, sơn quang dầu óng như mật, cóng sứ Giang Tây. Tuy thế, vành khuyên của tôi lại có thể hơn của họ, mặc dầu chim của họ có nhiều chim khác xùy và được học được tập nhiều giọng, hay còn được ăn những thứ bổ, thứ quý như củ mã thầy, cam Triều Châu, bột gạo trứng gà, v.v... Vì lẽ gì? Nếu ai kia có hỏi, thì tôi sẽ lấy một bộ mặt sành sỏi và cả khinh khỉnh nữa mà đáp: "Tôi có cách chăm đặc biệt! Bí mật gia truyền!".

Thường chim khuyên hay chết mùa rét. Con nào sang được xuân rồi đến hè thì lông bông lên, vàng mượt, vòng trắng quanh mắt to thêm, mắt trông khôn hẳn, rất dạn người. Tiếng hót không lanh lảnh nữa, vang mà đằm, có lúc đứng lim dim như hót thầm cho mình nghe. Những con biết hót kiểu thế này thì quý lắm. Thoạt nghe những tiếng líu ríu thánh thót như nhạc rung, dễ tưởng như của hoàng yến hay bạch yến. Hót rất lâu, lúc choàng cất cao đầu lên, ngừng lại, thì hơi lảo đảo như say, nghiêng ngó một giây rồi lại lim dim hót...

Hai năm trước tôi đã gây và nuôi được chim như thế. Tết năm ấy, túng quá, tôi đành bỏ. Nhưng sang tháng Giêng, rồi tháng hai, trên đường đi đến trường, cứ trông lên những cây gạo ăm ắp hoa còn đỏ tươi hơn gấc và đẹp tuyệt vời là đẹp trong nắng và sương, các đàn chim khuyên như từ từng bông hoa tỏa ra, thì tôi lại nhớ, lại thèm phải có một lồng chim. Chao ôi! Mấy năm trước đây ở một nửa gian nhà, bên cạnh là những chồng ván, những áo quan, cửa ra vào là bực thềm, bước ra ngay bờ đường, mà còn có một lồng chim, ban ngày treo trên tường hồi nhà, ban đêm treo lên sào màn, nữa là bây giờ!...

Bây giờ cũng vẫn ở nhờ, và phải ở dưới bếp, nhưng lại có cửa sau mở ra một khu vườn, lối đi lại qua mảnh sân, nằm trong nhà có thể trông thấy trời mây và mấy ngọn cây chỉ là cây xoan, cây ổi cằn, và mấy bụi hoa chỉ là hoa cứt lợn, hoa cối xay... Thế là nghỉ học được mươi ngày, tôi đi sục sạo các nơi mua lồng, mua chim. Lần này, con chim hay quá, biết ngậm mỏ, lim dim hót như đã nuôi lâu, quen thuộc lắm với bạch yến, hoàng yến hay sơn ca...

Tuần lễ cuối cùng ở Hà Nội, những buổi ngồi rã rượi trên các ghế vườn Bách Thú, Bờ Hồ và cả khi bước như lê xiềng ở phố Hàng Đào, trước nhà Gô-đa, vân vân, tôi càng như nghe thấy tiếng chim hót, lại nghĩ đến cái lồng chim của tôi. Ôi! Cái lồng ba tầng và con vành khuyên lông bông lên, vàng mượt, mắt to, biết ngậm mỏ mà hót líu ríu như kể lể ru ríu với sự yên lặng trưa hè và một mình tôi! Tôi để nó lại cho bà nội tôi, chắc thế nào bà tôi cũng phải biết cho nó ăn chuối, uống nước, và mặc dầu bà nội tôi có giận tôi đến phải đào đất đổ đi, rồi bà tôi có bị ốm, chân tay đã lẩy bẩy, mắt đã gần mờ chăng nữa, bà tôi cũng cố treo lồng chim của tôi ra mấy chỗ quen để tránh mưa tránh nắng.

Tàu đến bến, ván cầu vừa ghếch vào bờ, tôi đã chen qua mọi người nhảy vót lên. Nách cặp gói quần áo, bốn phong bánh và hai quyển sách học - Ôi kỳ lạ! Hai quyển này làm sao mà kẻ cắp không lấy trong cái đêm tôi gối đầu ngủ ở ga tàu điện, và làm sao tôi không bán đi để ăn quà những ngày ăn đói ở Hà Nội - và một hào giắt kỹ cạp quần, tôi chạy về nhà. Bà tôi chỉ lừ lừ nhìn tôi, và hình như nghẹn nghẹn cố giữ nước mắt. Tôi đưa quà anh tôi biếu bà, trong lòng vừa vui mừng và cũng buồn tiếc ghê gớm. Đúng cái lồng vẫn treo lơ lửng trên chỗ tôi nằm, nhưng là lồng không. Tôi không dám hỏi bà tôi chim đâu! Thôi như thế kia thì một là nó chết, bà tôi đã vứt xác đi, hai là nó bay mất, khi bà tôi mở cửa cho ăn cho uống!

... Con vành khuyên cuối cùng của thời thơ ấu của tôi ấy bị chết chứ không phải bay mất. Bà tôi bảo đã cho nó ăn cả chuối, cả cơm và cả châu chấu nữa mà nó vẫn chết!

- Có lẽ mày đi lâu, nó nhớ mày nó chết đấy Hồng ạ!... Nó mới chết hôm kia thôi!

Mấy ngày sau bà tôi mới vừa ho vừa thở nói cho biết điều này.

Tôi đã đỗ chuyển từ lớp nhì lên được lớp nhất. Nhưng vì vẫn yếu cả Pháp văn lẫn toán nên khi thi tốt nghiệp bằng tiểu học tôi bị trượt, phải học "đúp". Sang năm học cuối cùng này, tôi nhất định luyện giỏi các môn, nhất là văn. Tôi không đọc những Sách hồng (38)nữa, tôi mượn đọc hẳn những truyện ngắn và tiểu thuyết của mấy nhà văn Pháp. Tôi đã cố đọc An-phông-xơ Đô-đê và Guy Đơ Mô-pát-săng. Tôi đã nức nở với Lơ Pơ-tí Xô-dơ (Le petit Chose) của An-phông-xơ Đô-đê, chính vì Pơ-tí Xô-dơ đặc biệt cũng có một lồng chim, và cảnh đời của Pơ-tí Xô-dơ cũng sao mà heo hút. Các giờ Pháp văn dần trở nên thích thú; tôi còn vừa đọc bài vừa đóng kịch bằng tiếng Pháp. Tôi làm con sói, còn một người bạn rất lành và nhút nhát không ai hơn ở lớp tôi làm cừu non, trong một bài thơ ngụ ngôn của La Phông-ten. Vốn tôi đá bóng rất tợn và thuộc loại nghịch nhất trường, nên thầy giáo mới chọn đóng vai này, phải gầm gừ và cả gầm thét trâng tráo nữa. Cả lớp đã được một trận cười vỡ trường. Tôi thì được điểm 8, cao nhất từ trước tới đó, chỉ có mấy tay học gạo và học giỏi nhất lớp mọi khi mới được 7 điểm rưỡi thôi về môn tập đọc và học bài thuộc lòng.

Bắt đầu năm học, tôi mua đều báo Người bạn của tuổi trẻ hiếu học (39)có hẳn phần toán và phần văn cho lớp nhất, nhưng nhiều kỳ tôi lại viết ám tả, đọc các bài tập đọc, và làm một số bài luận chương trình Thành chung. Các nhà văn Rút-xô, Vôn-te, Đi-đơ-rô, v.v... đã trở thành những vì sao kỳ diệu trong ban đêm một mình một đèn một sách của tôi.

-----

(38) Tên một loại sách cho thiếu nhi thời ấy. Ở đây chỉ chung sách thiếu nhi.

(39) Ami de la Jeunesse studieuse.

Tôi đã mười lăm tuổi! Tôi sắp đến một bước quyết định cả đời, hoặc tốt nghiệp ra trường, hoặc thi vào trường Thành chung. Hy vọng được học nữa và học cao này, quá là mờ mịt đối với tôi. Nhưng thôi, cứ biết tôi phải đỗ cuối khóa này. Nhất là phải học giỏi! Tuổi xanh ơi! Tôi đã mười lăm tuổi!

Thời kỳ này, tôi cũng đọc các sách báo ta và vẫn hết sức say mê. Một số truyện ngắn của mấy nhà văn đang nổi tiếng, tôi coi cũng như những bài học. Tôi không những chỉ thuộc những đoạn hay, đoạn lạ, mà còn nghiềm ngẫm rất kỹ, rất lâu những tình tiết và nghệ thuật để so sánh những nhà văn đó với nhau, so sánh truyện này với truyện khác, và đánh giá cả từng đoạn, từng câu, từng ý, từng cảnh trong truyện của họ. Tôi cũng nghiên cứu những bài xã luận, những bài bút chiến, những thiên phóng sự điều tra, những tạp mục như tìm hiểu, điểm văn, điểm thơ, nhặt hạt sạn, hạt đậu nhọn, vui cười, thách đố, v.v..., về các thể loại, về cách viết, cách lập luận, về đặc sắc hay sắc thái của từng nhà báo, nhà văn, nhà thơ.

Bên cạnh những truyện ngắn và tiểu thuyết thì thơ mới vẫn mê đắm tôi hơn hết.

Tôi không có sổ tay hay sổ đặc biệt gì cả. Tôi vận dụng toàn trí nhớ. Đầu óc tưởng tượng của tôi đã làm công việc của một màn ảnh và máy chiếu phim mà nhiều lúc tôi đã không ngờ được sự giàu có lạ lùng của nó. Những nhân vật, những cảnh vật, những sự việc, những câu chuyện, những cuộc đời trong các tác phẩm đều bị lột da, bóc xương, tróc vỏ, lật ngược, đào sâu, soi chiếu và nhân lên trên nhiều diện. Lúc đó tôi chưa có ý định sáng tác hay làm nhà văn truyện ngắn, truyện dài gì cả. Những công việc trên đây phần lớn do sự tò mò, do khiếu thưởng thức và thích cả phê bình nữa. Một cách vô ý thức, tôi đã viết. Tôi viết thêm, tôi viết kỹ, tôi viết mới, tôi viết khác với những tác phẩm kia, qua những tác phẩm kia, từ những tác phẩm kia, tất nhiên là ngây ngô, dại nguếch và còn lố bịch là đằng khác!

Cũng may, chỉ có tôi biết với tôi, nó chỉ ở trong trí não của tôi. Nó sống rất nhanh, rất huyền ảo. Tuy thế cũng có lúc nó diễn lại, và trở thành một cái cớ hay trở thành những chất liệu sử dụng sau đây khi tôi viết văn thật sự... Thí dụ như trong một phần cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ hay tập truyện ngăn Bảy Hựu đầu tay của tôi.

Mây chiều ngừng lại sau đèo

Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi

Trời cao xanh ngắt, ô kìa

Hai con hạc trắng bay về Bồng lai...

(Thế Lữ)

Càng vào những giờ Pháp văn, tôi càng bâng khuâng với các câu thơ mới của ta. Một tai thì vang vang những câu thơ Vích-to Huy-gô hay những đoạn văn của

Pát-scan, Rút-xô, An-phông-xơ Đô-đê và của cả mấy Tây đoan, quan hai khố xanh kiêm viết về thuộc địa thời đó; một tai tôi nghe gió, nghe đàn, nghe mây, nghe chim, nghe rừng, nghe thác, nghe sóng, nghe thơ của Việt Nam, với những tên tuổi đối với tôi sao mà đẹp, mà quý, mà trọng và thiêng liêng:

Với cây đàn ngàn phím tôi ca

Cái đẹp u trầm đằm thắm hay ngây thơ

Cũng như cái đẹp cao siêu và hùng tráng

Của non nước, thi văn, tư tưởng...

(Thế Lữ)

Rồi một thế giới - không! Những thế giới khác, mở ra ở ngoài kia. Phải! Ở ngoài ba khung cửa sổ và cửa ra vào phía tay trái tôi mà khoảng sân và vòm trời lúc nắng cũng như khi mưa, cứ trong giờ học im ắng thì lại có một sức quyễn rũ rất lạ.

Thấm thoắt sắp hết chín năm sáu lớp học, thì tám năm năm lớp tôi học trường đây, chơi ở sân đây. Nhiều buổi, các thằng bạn đã nằm, ngồi quây kín lấy tôi ở dưới những gốc cây sấu, cây cơm nguội để nghe tôi kể những chuyện năm xưa về nhà trường và mấy thời kỳ đặc biệt từ những ngày xa lắc như ngày đầu kỷ nguyên theo tuổi chúa Giê-su ấy. Trường lớp, sân chơi, nhà loong toong, cổng và đường đi lối lại quanh trường, với các thứ kỷ niệm, các thứ chuyện, nếu không phóng đại thì cũng một tấc đến giời, hoang đường, kỳ ảo hơn cổ tích!

Cảnh vật làm đầu đề các chuyện, các kỷ niệm vẫn là cái sân cùng mấy cây to còn lại, mấy cây to mới lớn và cái cổng trường liền với dãy nhà của hai người loong toong gác trường và bán quà bánh cho học trò. Không còn những lớp bét, lớp tư nữa, không còn những lũ bé lóc nhóc nữa, cái sân dần dần thành của riêng mấy lớp lớn. Một dạo có những hai bàn đánh quần vợt chiếm gần hết sân trường. Sau đó thì thành bãi bóng. Hai cây ổi và hai cây bàng ở hai đầu làm cột gôn. Cây ổi và cây bàng to ở giữa sân làm mốc giao bóng mở trận đấu. Mấy khoảng rìa sân và góc sân là các bàn bi, bàn đáo.

Từ năm lớp nhì, có thời kỳ tôi đã mê đá bóng hơn cả mê sách, nhất là tới năm bao nhiêu truyện của cửa hàng cho thuê tôi đã đọc hết, còn những truyện mới, sách mới thì vừa đắt lại không hay. Phải đến dạo có mấy tờ báo có những bài lạ, như Phụ nữ tân văn, Đông Tây, Ngọ báo, Phong hóa, tôi mới giảm được phần thời giờ ở ngoài đường, ở sân trường và ở bãi cỏ thành phố đến quên cả ăn, với quả bóng quần và mấy bạn bóng học cùng trường, ở gần nhà.

Càng những buổi ra chơi, đá những trận rất căng mà lại thắng, thì khi vào học những giờ văn, tôi càng mơ mộng.

Đá căng vì lớp tôi là lớp nhất, trừ cái bọn nghịch ngợm, còn đều phải lo thi. Bởi thế chỉ có hơn chục đứa chúng tôi mà phải đương đầu với gần hết đội tuyển của ba lớp dưới. Nói là đội tuyển e rằng hơi nghịch, hơi oan cho chữ dùng. Thật ra, tất cả những đứa đá giỏi, đá khỏe, đá dữ, thích đá và đá rất lằng nhằng, lớn có bé có, không còn biết con số là bao nhiêu đều vào đá hết! Nhiều phút, rõ ràng bọn tôi sút bóng vào gôn rồi, nhưng không thấy bóng đâu cả! Thì ra ở khung thành, đối phương kéo về còn nhiều hơn ong, bóng chui tọt vào quần một thằng ở sau gôn, thăng này cứ thế chuồn đi, khiến cả bãi gần phát điên phát rồ vì cãi nhau được thua và phải tìm mãi mới thấy lại bóng...

Có phút tôi chăn bóng đến cấm địa, chỉ còn co cẳng sút thì hẫng. Bóng bị một thằng lớ dớ vừa dát vừa không biết đá đứng núp cạnh gốc cây thò chân ra hẩy đi. Chúng tôi đi tiền đạo. Gần như không quả bóng nào không phải cướp từ một bụi chân càng ràng như càng cua trong giỏ, hay khi đưa bóng lên mà không có một đùm mười lăm, hai mươi đứa túm lấy cạp quần chúng tôi, giữ lấy tay chúng tôi để... chặn bóng. Trái lại, khi gôn tôi đỡ bóng thì đúng là loạn. Có thể nói tất cả ba lớp chúng nó ập vào mà đá chúng tôi và đá chân nhau chẳng còn thấy bóng đâu mà đỡ mà đá ra? Nhưng túi bụi hồi lâu thì thấy reo lên, chúng tôi bị thua! Vì bóng bị mấy đứa ngã đè lên nhau, có thằng đã cầm dúi vào gôn chúng tôi...

Ôi chao! Quả bóng quần vợt to bằng quả cam chanh luôn hai năm lúc nào cũng ở trong cặp, trong túi bọn tôi, đến khi tôi tốt nghiệp và cả sau này tôi ra Hải Phòng trở thành một cậu giáo hẳn hoi, mà nó vẫn làm nhớ tới cái sân trường lịch sử kia! Thi đỗ xong một tuần đã lấy học bạ và giấy chứng nhận rồi, tôi còn đến trường với mấy đứa bạn quen, đá một gôn, sau buồn quá phải thôi! Trận đá này là trận bóng cuối cùng của đời học sinh của tôi và cửa cả đời tôi nữa!

Các anh Phú T., Đặng Hồ K., M.D.D. và mấy bạn bóng quần ngày xưa của tôi đã có thời kỳ vào đội tuyển Bắc Kỳ, rồi đội tuyển miền Bắc Việt Nam, sau đây thế nào các anh chả có một trang hồi ký hay một bài trả lời phỏng vấn về kỷ niệm đời bóng đá. Tôi xin phép nhắn các anh, nếu như các anh có kể đến cái quãng các anh không "xỏ giày" nữa và thôi hẳn ra sân bóng, hoặc các anh lại đá thêm trận dối già nào đấy, thì cố cho tôi được biết tin nhé!

... Sau giờ ra chơi, tôi lại vào lớp học, bụng căng nước máy, mồ hôi cứ tong tong ở trán, ở cổ, ở cánh tay, gạt không kịp, chảy cả xuống bàn, xuống sách. Nhưng chỉ lúc sau, nhìn ra ngoài sân im lặng và vùng trời nắng, tôi lại mát dịu hẳn trong người.

Tiếng hát trong như nước Ngọc tuyền

Êm như hơi gió thoảng cung tiên

Cao như thông vút buồn như liễu

Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên...

(Thế Lữ)

Những câu thơ mới lại ru vỗ tâm trí tôi cùng với những câu thơ và những đoạn văn ngân vang của bài tập đọc, bài học thuộc lòng và bài ám tả thầy giáo bình giảng.

Bài học thuộc lòng lấy một đoạn trong bài thơ Đại dương đêm tối (Océano-nox) của Vích-to Huy-gô, và bài ám tả cũng lấy một đoạn trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-sơ Đô-đê, là hai bài cuối cùng tôi nhớ mãi trong đời học sinh.

Sau khi thôi học, tôi ra Hải Phòng rồi đi Hòn Gai xin việc. Tôi đã thật được nghe biển sóng cả ban ngày, cả đêm trăng và cả tối khuya mà tưởng tượng thêm về đời sống giam lao, dũng cảm của những người thủy thủ trong trích đoạn thơ của Vích-to Huy-gô.

Và bắt đầu được nghe thật sóng gió của cuộc đời nữa! Cuộc đời phải đổ mồ hôi mình mà sống, để giữ nhân phẩm, tiến đến tương lai, có một lý tưởng cao quý và một sự nghiệp chân chính trọn tình yêu dấu...