← Quay lại trang sách

Cặp Bến

Bắc Bẩu, ngày 4 -11-40

Minh,

Thằng bé này giống con nhà Đang thì đúng hơn. Và thằng Đang dạo này chắc lớn lắm rồi phải không Minh? Da nó cũng đen tóc cứng và chân tay tuy nhỏ nhưng đã có nhiều dấu hiệu của sự xốc vác với những cử động lanh lẹn và chắc chắn. Nhưng nó là học trò chứ không như Đang mới mười ba tuổi đầu đã theo bố đi làm thuê, và đồng tiền kiếm được phải đưa cả cho mẹ để đỡ vực gạo mắm, củi đóm, cho gia đình.

Tôi biết nó trên một tầu thủy chạy Hà Nội. Nó đương thiu thiu ngủ, ngồi dựa lưng vào lan can ở đằng lái, chợt mở choàng mắt vì tiếng chông leng keng nổi lên, sau đó cả tầu ầm ầm chuyển động.

- Đến bến gì rồi ông ơi? Sắp đến Hà Nội chưa?

Cái ông không tên mà nó hỏi bâng quơ kia, không đáp. Nó liền đứng nhỏm dậy, chạy xổ sang bên kia, nhớn nhác nhìn rồi hổn hển:

- Sao mà cứ biền biệt thế này?

Nó đăm đăm quay ra một người đàn ông chít khăn the, quần áo lụa nâu, cầm đòn gánh đứng bên:

- Thưa ông, hết bến này còn mấy bến nữa thì đến Hà Nội?

Người nọ hững hờ:

- Còn bốn, năm bến nữa! Còn lâu!

- Thưa ông độ mấy giờ nữa?

- Hai ba giờ nữa.

Thằng bé trở về ngồi phịch xuống chỗ cũ, thần mặt ra. đến lúc đó nó mới hoàn tàon đi vào sự chú ý của tôi.

Tôi cúi vỗ vai nó, hỏi:

- Em lên Hà Nội có việc gì?

Thằng bé mở to mắt nhìn tôi:

- Thưa cậu, cháu lên nhà người quen ạ.

- Nhà người quen ở đâu? Họ có việc gì cần nhắn em lên mà em mong thế?

- Dạ, thưa cậu ở phố Sinh Từ. Họ không có việc gì cần hết, cháu lên là lên thôi.

Tôi chau mày lại vì ngạc nhiên, tôi liền tưởng đến những đứa bé háo hức được biết Hà Nội, bỏ nhà ra đi một cách liều lĩnh. Lại chính vào mùa hè. Với cái gói nổi những cạnh rắn kia, thằng bé nọ phải là một học trò. Trong khi tôi suy nghĩ, nó cúi đầu xuống, tay vân vê tà áo thâm chùng. Cho rằng nó đoán được ý nghĩ tôi, nên có vẻ sợ sệt, cảm động này, tôi lại vỗ vai nó:

- Sao kỳ nghỉ hè này em không ở nhà học thêm vài giờ sáng để thi lên lớp, mà lại đi bông lông như thế? Thày mẹ em có biết em đi không? Em có bảo cho người quen để nói với nhà rằng em đi chơi không?

Minh ơi! tôi đã hoàn toàn thất vọng vì hầu hết sự nhận xét của tôi về thằng bé này đều trật. Nó ngước mắt lờ đờ nhìn tôi, giọng ngậm ngùi.

-Thưa cậu cháu thôi học từ năm ngoái rồi ạ. Mà thày me cháu mất từ ngày cháu lên sáu. Cháu lên Hà Nội chuyến này giá có bảo chú thím cháu cũng chẳng ích gì vì chú thím cháu cũng chẳng muốn cháu ở nhà tí nào.

Tôi lạnh cả người và lòng nao lên. Tôi nắm chắc cái vai áo thâm bạc và rạn kia:

- Người quen này là quen thế nào với em? Em định lên chơi hay ở hẳn với họ hay muốn nhờ cậy họ việc gì? Còn như chú thím em dù sao cũng vẫn là người phải chặt chẽ với em hơn. Dù có những sự không tốt với em thì chỉ một lúc rồi sau vẫn thương em, chăm nom gây dựng cho em.

Thằng bé yên lặng. Chớp chớp mắt, nó cất tiếng nghẹn ngào:

- Không! Không cậu ạ! Chú thím cháu...

Đến đây nó ngừng lại và nước mắt ứa ra và khóc nức nở:

- Cậu có ở gần cháu đâu mà biết tình cảnh của cháu.

Tôi xoa đầu nó:

- Nín đi em! Chùi nước mắt đi! Con trai đã lớn dù có khổ sở đến thế nào cũng phải vui tươi chứ. Thôi! thôi anh có thể hiểu em rồi.

Vai thằng bé càng rung lên:

- Cháu cực lắm cậu ạ! Cháu cực lắm cậu ạ! Cháu đi chuyến này chỉ "sống nhờ đất khách chết chôn quê người" đây!

Một câu rất sáo ở cửa miệng thiên hạ trào ra với giọng nức nở kia đã làm tôi gai cả lòng. Tôi lay mạnh vai thằng bé:

- Kìa! nín đi chứ! Thôi nín đi! Rồi nói chuyện với anh. Nghe anh, em!

Sau tôi được biết thằng bé này đã học đến lớp nhì, cái gói bên cạnh nó chỉ có một chiếc áo cánh còn là một quyển mẹo chữ Pháp, một sách tập đọc mà nó được phần thưởng sau niên học cuối cùng, và ba cuốn tiểu thuyết quốc ngữ. Người quen ở phố Sinh Từ là bạn chơi với thày nó. Các con lớn ông ta, người đi làm cho nhà buôn, người làm nhà in, người làm "sốp phơ", nó hy vọng hoặc ông hoặc những người này sẽ tìm cho nó một việc nhỏ nào đấy, miễn là có cơm ăn để nó chờ một nghề gì hợp với ý nó đến là nó theo đuổi liền.

Thằng bé khi ráo nước mắt, mặt trông tươi hẳn lên với nước da đen giòn và những cái nhìn lấp lánh, những nụ cười rực rỡ. Nó nhường như quên tất cả mọi đau khổ và lo âu, hơn nữa, không còn biết một chút đau khổ và lo âu.

Không ở với chú thím, tìm người quen để làm việc nuôi miệng mình và chờ đợi một nghề ưa thích, những ước vọng ấy còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần nữa trong những trò chuyện giữa đứa bé và tôi. Những mong muốn tha thiết và vui tươi. Minh ơi! Tôi lại phải nhờ đến cái kỷ niệm xưa kia của tôi cũng bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không dám cười thầm như mọi khi dù nó đầy những khờ khạo, kệch cỡm. Và tôi cũng không thể cười được vì thật lòng tôi lúc đó bùi ngùi.

Hà Nội, ngày tôi còn nhỏ, hễ nghe ai nói đến và hồi nhớ, tôi lại rạo rực vì khao khát. Tôi đã lên đây một lần nhưng vào khoảng lên bảy, lên tám ấy, đi kèm bên người bà nội lọm khọm động ra ngoài thì một bước một bước xe, hỏi tôi còn được trông gì, biết những gì trong hai ngày mưa bão liên miên? Tất cả những cái tôi có thể ghi nhớ là những con đường rộng và dài thăm thẳm, nhà cửa và cây cối đồ sộ, um tùm khác thường, rồi đến những cửa hàng san sát, nhìn vùn vụt qua một lần kính mờ nước của đoàn tầu gọi là tầu điện, hễ dừng lại và chuyển bánh thì không nổi còi mà chỉ có những tiếng chuông leng keng. Thế thôi! À thêm nữa là một bún ốc ngon và lạ miệng mà không nơi nào bán!

Dạo đó mẹ tôi buôn xa, gửi tôi cho bà ngoại và dì tôi. Vì sự chiều chuộng chênh lệch giữa tôi và mấy đứa cháu nội của bà tôi, vì ảnh hưởng của những tính tình khí khái trong các truyện võ hiệu và mạo hiểm tôi lừa lấy của bà tôi một đồng bạc rồi đem gói quần áo và ít sách, mua vé tàu thủy lên Hà Nội.

Một đồng bạc! với một đứa bé nhà nghèo đâu phải là nhỏ và thường có? Sự sung sướng được làm chủ nó trong tay và sựkích thích của các hàng quà độc quyền ở dưới tầu, đã khiến tôi chặc lưỡi luôn, và móc tiền ra tiêu. Từ tám hào lấy vé còn lại xuống tới sáu hào, bốn hào, rồi ba hào. Tôi đã giật mình trước ba đồng hào bạc nằm gọn trong cái ví kết bằng bìa ban nẫy phồng lên, giờ lép hẳn đi. Nhưng tôi vội tự nhủ "cần gì! cần gì" và tự hứa cương quyết "nhất định không mó đến ba hào này nữa!"

Thì một lúc sau cái ví bìa lại rút ở cạp quần ra. Tôi băn khoăn mở ra, gấp vào, và sau cùng, mặt nóng lên, dốc phăng tiền ra. Tôi lại nhất định chỉ tiêu một hào nữa thôi. Cốc nước "câ - la - đinh" (1) pha đá ngọt và thơm thế kia, tội gì mà nhịn trong buổi trưa mùa hè khát khô cổ và mồ hôi đằm ra như tắm này? Hết cốc ấy, tôi đưa trả tiền người bán. Tôi đã đứng dậy đi ra chỗ khác. Nhưng cái dư vị thơm, mát, ngọt cứ phơ phất trong họng tôi với những tiếng thì thầm êm ái như ru. Tôi ngoắt quay lại gọi làm cốc năm xu nữa. Cái ví lại dốc ra, và mặt càng nóng bừng lên, tôi mua thêm năm xu bánh kem.

-----

(1) Grenadine: nước ngọt quả lựu.

Cả đồng bạc còn năm xu! Với năm xu này tôi định nếu khát chỉ uống nước chè và đói thì ăn cơm nắm! Bốn giờ chiều hôm ấy, tầu cập bến. Tôi bâng khuâng cả người vì những sự đi lại rồn rập, nhà cửa chi chít, đâu đâu cũng thấy huyên náo, rực rỡ. Tôi hỏi thăm và đi xem cho được những phố hàng Ngang, hàng Đào, chợ Đồng Xuân, Bờ Hồ, Trường Tiền rồi mới tìm đến sở người anh họ tôi.

Một tiếng sét nổ bên tai: Sở anh tôi nghỉ việc đã ba hôm và chưa biết đến ngày nào mới lại mở cửa. Tôi đã tưởng có thể buồn mà chết rũ ra được. Anh tôi nghỉ, điều đó không đáng ngại, vì anh có thể tìm nơi khác để làm; nhưng sao tôi biết được chỗ anh ở mà ngủ đêm nay, ăn chiều nay, ăn ngày mai, và nếu không hy vọng sống ở Hà Nội với anh thì phải có tiền mà trở về Nam Định chứ?

Tôi đã luôn luôn sờ lại năm đồng xu buộc sau vào dải nút, và cặp thật sát nách cái gói quần áo và sách kia mà tôi đã nẩy ra ý định sẽ phải bán đi để về đường. Cũng như tinh thần, người tôi mỏi rời và chán nản. Khắp mọi nhà chung quanh sở anh tôi, tôi đã hỏi cả rồi mà không ra tăm tơi. Trời lại tối dần. Nắng chiều tím phớt tan đi. Bóng mờ và gió mát lan rộng. Đèn các ngả đường đều bật sáng. Người vật nhộn nhịp trong những nét mờ ảo và những tiếng ồn ào.

Tôi phải đi tìm chỗ ngủ. Tôi đã nằm thiếp đi ở ga tầu điện giữa lúc các tiếng chuông leng keng vẫn ran lên inh ỏi. Rồi tôi đã dậy với đôi mắt cay xé trước những ánh vàng ban mai làm bàng hoàng cả người. Kìa! sao người tôi lại nhẹ và lạnh thế này? Tôi giật mình sờ bên cạnh. A! cái gói hành lý của tôi đâu rồi? Tôi xanh mắt lại trông chung quanh. Không! không có một cái gì giống nó cả. Tôi vùng đứng dậy. Quần tôi tụt phắt xuống đất với chiếc dải rút. A! năm xua để dành buộc chặt chẽ kia cũng mất rồi.

Nước mắt tràn ra! Tôi lại thấy buồn và có thể chết rũ ra được. Một cảm tưởng rùng rợn quắp chặt lấy tim tôi. Không phải ở giữa Hà Nội tấp nập vui vẻ nữa, mà bị bỏ rơi tận thẳm cùng một rừng hoang, lắng nghe phía nào cũng thấy một thứ tiếng thở gầm gừ và kêu vang rền của sự đói khát, xâu xé. Có nhiều người hỏi gọi tôi. Trừ vài người an ủi tôi, còn tất cả chỉ nghe qua tôi nói. Họ không những thờ ơ mà còn tỏ vẻ ghê sợ và hoài nghi tôi. Biết đâu đó không phải là một tấn kịch đã tập dượt của một thứ ăn mày, một thứ kịch lường gạt?

Tất cả có bốn người cho tôi được sáu xu. Tôi toan đi chỗ khác, một người vận quần áo xanh trong ga vẫy tôi lại. Y cũng hỏi tôi như mọi người. Nhưng nghe tôi nói, y lắng tai và chau mày lại. Y nhìn tôi với đôi mắt sáng làm tôi rợn cả người. Tôi đã định chào y để đi vì tôi sợ cái vẻ nghiêm trang của y lắm.

- Không! em ở đây chờ anh! Tám giờ anh đổi kíp sẽ dẫn em về nhà. Đây, em cầm lấy năm xu, ra hàng phở kia ăn. Đừng lo! đã có anh!

" Đừng lo! đã có anh". Câu nói đó trở lại vang vang rành mạch trong tâm tưởng tôi lúc đó, trước thằng bé da đen giòn và mắt sáng nọ. Như trước một màn ảnh, tôi lại thấy hiển hiện rõ ràng cái thân thể chắc chắn trong bộ quần áo xanh của người trẻ tuổi làm tầu điện. Y cầm tay tôi, đi song song với tôi trong ánh nắng chói lòa một xế trưa, giữa những nhộn nhịp của Hà Nội. Chúng tôi ra ga.Y lấy vé cho tôi và đưa tôi lên tận chỗ ngồi. Y mua cho tôi ba cặp bánh giò và bỏ thêm vào cái ví kết bằng giấy bìa một hào đôi với cái vé.

Tầu đã dồn toa ình ình. Y lắc tay tôi và vỗ vai, nhìn sâu vào mắt tôi với nụ cười sáng:

- Em về Nam nhé! Chịu khó ở nhà mà chờ mẹ về. Mẹ thế nào cũng về với em và thế nào em cũng được sung sướng. Lớn lên, em muốn đi đâu tự lập hãy đi. Nhưng dù đi đâu cũng vậy, em phải có một nghề, bất cứ nghề gì, miễn là với nghề đó phải có sự chịu khó, sự ngay thẳng, giữ nhân cách mình được cao quý.

- Bát Tràng rồi! Bát Tràng rồi!

Có nhiều tiếng reo lên trong sự huyên náo của hành khách. Mọi người sửa soạn hành lý, xuống trước dưới boong để khi tàu cặp bến Hà Nội, chỉ có việc lên thẳng bờ. Thằng bé da đen giòn đứng phắt dậy, cười với tôi:

- Làng Bát Tràng trông như phố xá ở tỉnh ấy cậu nhỉ. Giá làng nào cũng như làng này?

Tôi cười và gật đầu. Thằng bé ngước nhìn tôi.

- Cậu ở hẳn Hà Nội.

- Không! Có việc gì dễ chịu ở nơi khác thì tôi đi.

-Cháu tưởng Hà Nội vui thế thì còn đi đâu hơn?

Cùng với câu nói, mắt nó ánh lên gờn gợn những lấp lánh. Tôi vỗ vai nó:

- Không cứ! Đâu đâu cũng vui và cũng buồn. Đâu đâu mà mình có việc làm, đâu đâu có sự làm ăn tấp nập và ganh đua, đâu đâu mình thấy lòng hăng hái và tha thiết, là ở đấy đẹp, vui để mình lưu luyến.

Thoáng chốc, những ống khói, những gác chuông, cũng cột sắt, những nóc nhà, vùn vụt nổi lên dưới nền trời xanh trong rực rỡ ánh vàng. Cầu Sông Cái dần dần xuất hiện với những khung sắt cao thấp như một dãy núi. Nắng loang loáng theo từng đợt nhịp cầu. Xe cộ và người bé hẳn đi, qua lại lừ lừ. Đi tới đó, dòng sông đỏ lờ chẩy băng băng, tiếng nước réo hằn học tràn cả tới phía con tầu của tôi đương tiến.

- Cậu ơi! xuống boong đi. Đến bến rồi!

Tôi vội giữ tay nó:

- Hãy khoan! Chờ người ta lên vợt đi kẻo chen lấn nhau nhỡ ngã thì khốn! Nước sông lại đương to.

Thằng bé lắc đầu:

-Không! không có việc gì đâu!

Hai chân nó cứ lăm lăm tràn bước. Tôi phải đi theo nó, len lỏi qua những người và gồng gánh kềnh càng làm sây sát cả áo tôi.

- Cậu về đâu? Có gần Sinh Từ thì cho cháu theo với.

- Được! em ngồi xe với anh đến tận nơi!

Nó lắc đầu:

- Không! đi bộ thôi cậu ạ! đi bộ cho nó khỏe chân và cháu còn xem qua Hà Nội chứ.

Mấy cái xe trổ đến, nhưng thằng bé nhất định níu giữ tôi, kéo tôi bước tràn qua những giọng mời chào vồn vã.

- Cậu ơi! Cháu đến nhà người quen chiều nay thì sáng mai cháu đến nhà cậu nhé. À nhà cậu ở đâu nhỉ để cháu tìm nào.

- Không! để anh lại đón không nhỡ em lạc mất!

- Không! cháu lạc sao được! Biết chữ mà tìm phố và số nhà thì còn lạc sao?

Tôi và đứa bé đã đi. Cái giọng nói giòn và sáng kia reo không ngớt bên tai tôi. Một cảm tưởng ngây ngô đã vùng dậy trong lòng tôi. Không phải là xuân hai mươi tuổi mà là mười ba tuổi, cùng một bạn nhỏ bắt đầu bước trong những rồn rập tưng bừng mới lạ của sự sống, của cuộc đời, với một lòng phơi phới ham và tin, quên tất cả.

Nguyễn Xuân