← Quay lại trang sách

- 5 - Sứ đoàn Phan Thanh Giản đi Pháp mưu cầu chuộc lại ba tỉnh-

Khoảng tháng 5 hay tháng 6.1863, Tự Đức “sai Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản, Lại bộ tả tham tri Phạm Phú Thứ, Án sát Quảng Nam Ngụy Khắc Đản đi sang sứ Tây Dương” [1] tức đi Pháp, nhằm mục đích “phải nhất thiết đòi Pháp trao trả lại phần đất chiếm đóng cho bằng được. Trường hợp họ từ chối thì phải kéo dài thời gian lưu trú tại Paris, để đợi cơ hội thích hợp nhất, khởi đầu cuộc thương lượng mới. Cố gắng tạo dư luận thuận lợi cho chúng ta tại Pháp, cũng phải nỗ lực làm cho các nhân vật trong chính phủ Pháp mềm lòng đối với số phận của vương quốc chúng ta” [2].

Trước khi sứ bộ Phan Thanh Giản lên đường đi Pháp, “vua Tự Đức chảy nước mắt đoái bảo các quan rằng: đất đai ấy, nhân dân ấy, là công lao của triều trước hợp tập mở mang để lại, nay nên đồng tâm giúp việc đừng để thẹn cho ta, đừng để lo cho ta. Lại dụ các sứ thần rằng: quốc thư nên đệ tới Quốc trưởng, chớ để cho người đương sự lấp liếm đi” [3].

Sứ đoàn Phan Thanh Giản tới Pháp ngày 13.9.1863 và được vua Napoléon III tiếp kiến trọng thể tại điện Tuileries - Paris ngày 5.11.1863 để nhận quốc thư. “Trong thư Tự Đức yêu cầu xét lại một số điều khoản của hòa ước (Nhâm Tuất), đối với ông quá nặng nề và khó lòng kham nổi, đặc biệt là điều khoản liên quan tới việc nhường đất... Nhà vua đề nghị, để đổi việc chuộc lại ba tỉnh, phía Việt Nam sẽ nhường thành Sài Gòn, một địa điểm nào đó do người Pháp chọn lựa trong tỉnh Định Tường, bên ngoài thành Mỹ Tho, cảng Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Biên Hòa và đảo Côn Lôn. Về phần chiến phí, nhà vua yêu cầu hoặc giảm bớt tổng số tiền, hoặc nới rộng thời hạn bồi hoàn. Như vậy không có việc mua lại (rachat) ba tỉnh, mà chỉ xin chuộc lại (restitution)” [4].

Vua Napoléon III chấp thuận việc soạn thảo một hiệp ước mới và trao nhiệm vụ cho Classeloup-Laubat (Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa) cùng Drouyn de Lhuys (Bộ trưởng Ngoại giao) làm đề án: hai vị Bộ trưởng lại yêu cầu Aubaret chấp bút.

Gabriel Aubaret sinh năm 1825 tại Montpellier Pháp, vào hải quân năm 1841, là người có năng khiếu ngôn ngữ, biết tiếng Ả Rập, Hoa và Việt; đã tham dự trong quá trình soạn thảo hiệp ước Nhâm Tuất (5.6.1862). Ngày 28.12.1862, Aubaret tâm sự:

“Chúng ta cai trị bằng khủng bố, và tất cả chúng ta đều trở nên xấu xa trong mắt người Annam. Chúng ta tuyệt đối chỉ sống bằng sợi dây treo cổ và súng đạn. Dưới con mắt người Pháp, tôi cảm thấy ở đây tôi trở thành một thuộc hạ xấu xa, sự tàn bạo xảy ra hằng ngày làm tôi phát điên: theo tôi vào thời đại chúng ta đang sống, thời gian cứ thế trôi đi giữa những cuộc đánh chiến bất công, và ở đó, chúng ta trở thành kẻ đàn áp những dân tộc hòa hiếu, mà chẳng đem lại cho họ chút ơn huệ nào. Nhân danh việc giáo hóa, chúng ta lại mang đến cho họ thuốc phiện và cờ bạc. Ý tưởng đạo đức nhỏ nhoi nhất không bao giờ được đưa vào bất cứ lời khuyên nào, mục đích của chúng ta là tiền bạc, và lúc ấy, giống như đảng cướp, chúng ta cứ thế lấn chiếm một đất nước mà chúng ta không biết cách cai trị.

Phải thú thật rằng tính nết tôi hoàn toàn trái ngược với tất cả những cái đó: tôi sung sướng với vai trò viết lách, chứ không phải một nhà cai trị, dù sao đi nữa, ở cương vị này, tôi không phải phán xét và kết tội những con người khốn khổ đã tử đạo vì lòng yêu thương đất nước mình. Chúng ta đã lạm dụng sức mạnh một cách bất công nhất. Chúng ta sẽ không phải chịu một hình phạt khủng khiếp nào đó hay sao? Anh không thể hình dung ra được nỗi đau đớn khủng khiếp, sự buồn nản mà chúng ta đã gây ra trên một vùng đất heo hút, xa lạ với chúng ta, vì nó được gọi là Nam Kỳ. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ cân nhắc giữa những lương dân bất hạnh, có nếp sống hiền hòa, biết tuân phục tập quán cố hữu, và những kẻ tự xưng là Kitô hữu, nhưng còn không biết cách dựng một nhà nguyện khiêm tốn nhất” [5].

Chú thích:

[1] Đại Nam thực lục. Tập XXX, sđd, trang 21.

[2] Trương Bá Cần, Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ sở tại Nam Kỳ (1862-1874). NXB Thế giới, 2011. Trang 98.

[3] Đại Nam thực lục. Tập XXX, sđd, trang 25.

[4] Trương Bá Cần, Hoạt động..., sđd, trang 98-99.

[5] Trương Bá Cần, Hoạt động..., sđd, trang 111-112.